Suốt đêm không ngủ, Tần Thiên Nhân cùng Lâm Tố Đình trở về đồn Bạch Nhật với dáng vẻ bơ phờ. Vừa đặt chân vào đại sảnh đã giáp mặt lão Tôn và Khẩu Tâm.
Sảnh đường của đồn Bạch Nhật là một căn phòng thoáng mát và rộng rãi, gồm nhiều ô hộc trang trí theo lối nhất thi nhất họa với chất liệu óng ả như cẩn xà cừ hoặc ngà xương. Hai bên vách phải trái có khắc năm mươi sáu chữ Hán, tất cả được sắp xếp theo hình Bát Quái. Lối văn đặc biệt này gọi là “hồi văn kiêm liên hoàn.” Năm mươi sáu Hán tự có thể đọc xuôi ngược thành sáu mươi bốn bài thơ thất ngôn và ngũ ngôn khác nhau.
Bức vách còn lại cũng được điêu khắc thơ văn nhưng trang trí nguy nga và tráng lệ hơn. Trên vách có bài “phong hoành sơn thủy” diễn tả cảnh núi non mưa gió do đích tay Mã Lương lão nhân sáng tác. Chính giữa bức vách có dựng ngai vàng giống hệt ngai vàng trong điện Thái Hòa của Tử Cấm Thành Bắc Kinh. Ngai vàng kì vĩ và trang nghiêm an tọa trên bục đá cẩm thạch. Hai bên bục đá có sáu cặp tượng lính túc vệ đối xứng nhau tạo thành sự thâm nghiêm chung quanh sảnh đường.
Trần nhà được thiết kế rất là tinh vi. Chi tiết không sơn son thếp vàng mà chỉ để mộc trơn và được tô điểm bằng các kỹ thuật chạm trổ tinh xảo theo đồ án lưỡng long triều nguyệt. Nghĩa là rồng, lân, rùa và phụng.
Cùng với tranh trên tường, dưới nền lát gạch men hoa. Ở bốn góc phòng có bốn cây cột trụ vẽ hình cửu long ẩn hiện trong mây. Cả không gian sáu mặt tạo nên một thế giới nghệ thuật tinh nhuệ.
Các nghệ nhân đã khéo léo xây dựng một sảnh đường với cấu trúc khối đơn giản, đẹp duyên dáng mà tôn nghiêm, là nơi có giá trị kỹ thuật và thẩm mỹ.
Lâm Tố Đình trố mắt khi thấy lão Tôn bồn chồn đi tới đi lui trước ngai vàng, chốc chốc lại sờ tay lên cổ. Khẩu Tâm đứng tựa lưng vô bục cẩm thạch, mắt nhìn đăm đăm sàn gạch men hoa. Lâm Tố Đình khẽ liếc Tần Thiên Nhân, bắt gặp chàng cũng chau mày lo ngại.
Cả hai người một già một trẻ bận tập trung suy tính, không hề phát giác sự hiện diện của thiếu đà chủ. Mãi cho tới khi Lâm Tố Đình vờ ho húng hắng thì:
- Thiếu đà chủ! - Lão Tôn và Khẩu Tâm giật nẩy trước khi bước lại đối diện Tần Thiên Nhân, khom mình chào.
Không để Tần Thiên Nhân thốt lời đáp lễ, vị hòa thượng lật đật nói:
- Cuối cùng đệ cũng trở về, hại lão Tôn và huynh đi tìm khắp nơi muốn hụt hơi!
“Tìm đệ khắp nơi à?” Tần Thiên Nhân thầm nghĩ “không lẽ là vì...” Và chàng hỏi ngay:
- Có tin của Cửu Dương rồi sao?
Niềm hy vọng tức khắc lụi tàn, Khẩu Tâm lắc đầu đáp:
- Vẫn còn chưa có tin tức của thất đương gia.
- Nhưng mà tam đương gia thì có đấy! – Lão Tôn lẹ miệng.
Rồi ông mau mắn lôi từ trong tay áo phong thư màu vàng, kính cẩn trao Tần Thiên Nhân. Thần quyền Nam hiệp đón lấy, mở ra. Chưa xem được chữ nào thì lão Tôn vò đầu nói:
- Vậy là chúng ta mất thêm một vị Giang Nam hiệp sĩ nữa.
- Ông nói sao? – Lâm Tố Đình sảng sốt kêu lên.
Và nàng chúi đầu vô bức thư, cùng Tần Thiên Nhân coi xét tờ giấy như là nghiên cứu một vật thể lạ lẫm vừa mới đáp xuống địa cầu từ bên ngoài vũ trụ.
Lướt mắt qua dòng chữ thẳng thót, Tần Thiên Nhân nở từng khúc ruột. Tất cả đều xuôi chiều dự đoán của chàng. Nữ Thần Y bỏ đi. Vậy thì chàng khỏi cần phải lo Dương Tiêu Phong dùng nàng để thực hành mưu lược. Nhưng điều khiến chàng không ngờ nhất chính là tam đệ từ lâu đã nảy sinh tình ý với Hoa Đà tái thế. “Có Trương Quốc Khải bên cạnh chăm chút Tây Hồ, ta rất an tâm.” Tần Thiên Nhân nhủ lòng.
Chờ hồi lâu mà không nghe thiếu đà chủ phản ứng về sự ra đi của Nữ Thần Y và Trương Quốc Khải, lão Tôn chưng hửng ngó Khẩu Tâm. Tội nghiệp, ông ấy lại phải thêm một phen sửng sốt khi thấy Khẩu Tâm liếc nhìn ngai vị, khóe miệng hơi nhếch lên, kín đáo cười đắc chí.
Cách chỗ Khẩu Tâm đứng chừng một thước, Lâm Tố Đình dẫu biết Nữ Thần Y sẽ buồn bã mà ra đi những cũng không khỏi lưu luyến tình bạn cố tri. Nàng lại càng không muốn mất một vị sư huynh tài ba nên lên tiếng phá tan bầu không khí im lìm:
- Giờ tính sao đây? – Lâm Tố Đình hỏi chung chung - Chúng ta có nên sai người rượt theo gọi họ trở về?
- Lẽ đương nhiên! - Lão Tôn tung hai tay lên trời.
- Theo tôi thì không nên! – Khẩu Tâm cao giọng. Và chàng nhận lá thư từ tay Tần Thiên Nhân, gấp tờ giấy lại bỏ trở vào phong bìa.
- Sao lại không nên? – Lão Tôn nhướng mắt – Chúng ta cần đến kiếm pháp của tam đương gia để hỗ trợ công việc giải phóng nước nhà.
- Nhưng trong thư ghi chép rõ ràng - Khẩu Tâm vỗ vai ông lão - Tam đệ quyết tâm vứt bỏ cuộc kháng chiến, không còn muốn lâm cảnh đấm đá nữa.
Tần Thiên Nhân cũng lắc đầu:
- Đại ca nói đúng. Một khi con người đã mất đi ý chí đấu tranh thì cho dù ông có ép buộc hay là mua chuộc cũng chẳng có ích gì. Con đường khởi nghĩa vốn xuất phát từ trong tim. Nay trái tim của hắn chia thành hai lối và hắn chọn lối mòn vắng tiếng gươm đao.
- Nhưng mà thiếu đà chủ à – Lão Tôn thở dài – Tình yêu là gì khi non nước còn đang điêu linh? Hạnh phúc là gì trong thời chiến chinh? Ấm êm gì chỉ mình ta kia chứ?
- Đúng vậy! - Lâm Tố Đình gật đầu đồng lòng.
Và nàng nghiêm nghị hỏi hai vị sư huynh:
- Các huynh nghĩ xem, ngoài biên cương gió tung bụi mù mịt mờ, quân Bát Kỳ xâm lược đất đai, giặc giã lan tràn cõi bờ thì thử hỏi tam ca huynh ấy làm sao có thể nhắm mắt ngủ yên giấc cho được? Bởi thế mà muội nghĩ là bây giờ mình nên thuyết phục huynh ấy anh dũng thiện chiến. Tuy rằng ngăn cách người huynh ấy thương nhưng mai mốt sum vầy mới không thấy thẹn cùng sông núi. Đời đang khổ đau, huynh ấy phải đóng góp một phần xương máu. Phải đem hai cánh tay và cả tánh mạng cống hiến cho quê hương.
Đợi Lâm Tố Đình xuất tròn ngôn, Tần Thiên Nhân hỏi ngắn gọn:
- Muội có còn nhớ nguyên do mà chúng ta khiến Tây Hồ bỏ đi?
- Muội nhớ chứ - Lâm Tố Đình gật gù – Nhưng…
- Muội nhớ thì được rồi! – Tần Thiên Nhân cướp lời.
Và chẳng cần nghe nàng nhưng nhị điều chi, chàng quay mình bước ra khỏi đại sảnh, bỏ lại ba người trong căn phòng.
Người thứ nhất há hốc miệng, trí óc rối ren dây nhợ. May là người thứ hai hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện nên từ tốn giải thích. Nghe sự tình lắt léo, người thứ nhất thở dài.
Còn người thứ ba. Sau hồi cắn móng tay cân nhắc lợi hại, người thứ ba nện giày xuống sàn, ngúng nguẩy trở về thư phòng, mặt xụ mấy đống.