Dừng một chút, lão chậm rãi nói:
-Đúng như ngươi nói, chuyện nội loạn từ đầu đến cuối đều không thấy dấu vết của Bố Tốc Cam. Hơn nữa, trận chiến ở rừng Ô Thảo, theo lẽ thường mà nói, nên là do Đại tướng quân Phong Quốc Bố Tốc Cam làm người chỉ huy cao nhất chiến đấu. Hơn nữa, Bố Tốc Cam vốn là người nhà họ Bố Tốc, là một nhà trong trại Ngọc Tuyền, là tay sai của trại chủ nhà Thác Hồ. Lẽ ra gã nên dốc sức trợ giúp cho Thác Hồ Phong đối phó với hồng thủ lĩnh, nhưng suốt cả trận chiến kia người chỉ huy luôn là Thác Hồ Phong. Ta cũng đã từng hỏi thăm nhiều về trận đại chiến kia, quả thật không nghe chút tin tức nào về Bố Tốc Cam. Hơn nữa, Bố Tốc Cam trước kia vẫn ở Song Xà Nham bên ngoài thành Thần Sơn, nhưng khi trận chiến kia xảy ra, theo ta được biết thì gã đã rời khỏi đó, không rõ vì nguyên nhân gì, hiện thời không rõ tung tích, chẳng biết đã đi đâu!
Hàn Mạc nhíu mày, đường đường là Đại tướng quân Phong Quốc, lại là tay sai của trại Ngọc Tuyền, theo lý Bố Tốc Cam nên một lòng một dạ trợ giúp Thác Hồ Phong đối phó hồng thủ lĩnh. Nhưng gã không những không lĩnh quân, mà còn biến mất không rõ tung tích. Chuyện này vô cùng quỷ dị, lại càng chứng minh được nội loạn Phong Quốc nhất định có uẩn khúc, có chuyện giả trá ở đây, chắc chắn phải có một bí mật kinh thiên động địa không muốn người khác biết.
…
Tối nay, Quan Mộ có thể nói đã dốc hết sức trợ giúp Hàn Mạc khiến hắn vô cùng cảm kích, nhưng trong lòng cũng thoáng nghi ngờ, có thật Quan Mộ là người nghĩa khí đến như vậy? Chẳng lẽ lão chỉ vì Quan Thiếu Hà, lại có thể thành thật hỗ trợ hắn nhiều đến như vậy?
Hàn Mạc tuy rằng không phải người trời sinh tính đa nghi, nhưng vốn là người cẩn thận. Mỗi một bước đi của hắn đều đã suy tính kỹ càng về vị trí và hoàn cảnh xem liệu chúng có thể mang đến cho hắn phiền toái hay không.
Đối với sự tương trợ thành khẩn của Quan Mộ, hắn vô cùng nghi ngờ, nhưng bản thân lại có cảm giác dường như Quan Mộ cũng không có ý gì xấu.
Khi Hàn Mạc rời khỏi nhà Quan Mộ, trời đã về khuya. Trong mắt đại đa số mọi người, hai người thúc cháu hắn gặp nhau có nói chuyện suốt cả đêm dài cũng là chuyện bình thường.
Hơn nữa, nếu là cháu trai của đại chưởng quỹ, việc đãi ngộ dĩ nhiên cũng không giống bình thường. Hàn Mạc được cấp riêng một gian phòng trống để nghi ngơi, Hồng Tụ đi theo Hàn Mạc đến với thân phận tôi tớ dĩ nhiên cũng được sắp xếp ở chung một phòng với hắn để tiện hầu hạ.
Sau khi Hàn Mạc rời đi, Quan Mộ chưa nghỉ ngơi ngay mà gọi nhị chưởng quầy Dương Liên đến.
Dương Liên là tâm phúc của Quan Mộ. Mối quan hệ giữa hai người không cần nói nhiều cũng có thể hiểu là quan hệ sống chết. Khuya đêm được gọi đến, Dương Liên ngay lập tức biết Quan Mộ tất nhiên phải có chuyện quan trọng muốn phân phó.
Ở Phong Quốc nhiều năm, Dương Liên hiển nhiên là trợ thủ tình báo đắc lực của Quan Mộ, cũng là một nhân vật xử lý công việc cực kỳ bình tĩnh, không biết e sợ điều gì.
Lúc này, trong tay phải Quan Mộ là hai viên bi sắt đang linh hoạt chuyển động, từng tiếng "lách cách lách cách" do hai viên bi va chạm lẫn nhau vang lên.
Thói quen này rất nhiều thương nhân biết đến, thậm chí rất nhiều người Thác Hồ Lạc đều biết vị đại chưởng quỹ của Quan Thị mậu dịch rất thích chơi bi sắt. Nhưng chẳng có mấy người nhận a được, trước mặt khách tôn quý, Quan Mộ tuyệt đối không lấy bi sắt ra đùa giỡn.
Đêm khuya thanh tĩnh, mỗi khi cần suy xét chuyện đại sự, Quan Mộ đều lấy bi sắt ra đùa giỡn, không phải vì hắn thích, mà vì qua đó, Quan Mộ có thể suy nghĩ thông suốt hơn.
Dương Liên nhìn Quan Mộ chơi hai viên bi sắt, chỉ biết được lão nhất định đang suy tính chuyện đại sự.
Trước mắt lão nhân này, Dương Liên biết rõ lão là người cơ trí. Trong tất cả gia tộc Quan Thị này, năng lực của lão nhân này tuyệt đối đứng số một số hai. Cũng chính vì như thế, gia tộc mới đưa lão đến nơi hoang sơ này phát triển.
Tuy rằng lão nhân này ngày thường luôn cười ha ha, mặt mũi hiền lành nhưng Dương Liên biết lão nhân này lợi hại, cũng vô cùng kính sợ lão già này.
Hắn cung kính đứng bên cạnh Quan Mộ, không nói lời nào. Nhiều năm như vậy rồi, mỗi khi có chuyện đại sự, hai người đều sẽ trầm mặc, dường như đều muốn để cho đối phương có thời gian để chuẩn bị tâm lý cho thật tốt.
Thường thì Quan Mộ luôn là người phá vỡ sự im lặng, lúc này cũng không phải ngoại lệ.
-Mau chuẩn bị rút lui khỏi Phong Quốc!
Lão già trầm ngâm một lúc lâu, rốt cuộc hạ giọng nói:
-Một khi có biến, lập tức đem toàn bộ người rời khỏi đây. Ngươi phải đảm bảo sẽ rút lui theo đường thông đạo, nhất định không được để xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn.
Dương Liên cung kính nói:
-Thuộc hạ hiểu!
Quan Mộ nhìn thấy dáng vẻ thành kính của Dương Liên, vẻ mặt tuy nghiêm nghị, nhưng thoáng tươi cười, xua tay nói:
-Không cần lo lắng quá, chưa chắc chúng ta đã cần phải rút khỏi đây. Chỉ có điều ngươi cứ chuẩn bị sẵn sàng mà thôi!
Dương Liên gật gật đầu.
Quan Mộ rốt cuộc buông viên bi sắt trong tay, nhấc chén trà, nhấp một ngụm, hỏi:
-Ngươi có chuyện gì muốn hỏi phải không?
Dương Liên gật đầu nói:
-Trong lòng Dương Liên vốn có thắc mắc. Rốt cuộc chuyện này quan trọng đến cỡ nào mà chúng ta phải chuẩn bị rút lui khỏi đây?
Dừng lại một chút, hắn chăm chú nhìn Quan Mộ, nói:
-Đại chưởng quỹ, ngài muốn làm gì xin cứ chỉ bảo, chúng ta dĩ nhiên sẽ phụng lệnh làm theo. Tuy nhiên thân là trợ thủ của ngài, nhiệm vụ của Dương Liên đôi khi còn là phải biết đề xuất một số kiến nghị nữa!
Hắn nhìn Quan Mộ, chỉ thấy vẻ mặt lão vô cùng bình tĩnh, liền nói tiếp:
-Đại chưởng quỹ, để xây dựng được nền móng ở Phong Quốc, chúng ta phải mất rất nhiều năm mới có thể đạt được đến như bây giờ, tổn hao biết bao nhiêu sức người sức của, trong đó còn có tâm huyết của vô số người, cho nên nếu không phải chuyện quan trọng liên quan đến vấn đề sinh tử, Dương Liên cảm thấy chúng ta nhất định nên làm việc cẩn thận.
Quan Mộ ôn hoà cười nói:
-Ý tứ của ngươi, lão phu vô cùng hiểu rõ.
-Là bởi vì người trẻ tuổi kia sao?
Dương Liên cẩn thận hỏi.
Hắn là tâm phúc của Quan Mộ, dĩ nhiên biết được rất nhiều chuyện của Quan Mộ. Quan Mộ nói Hàn Mạc là cháu trai của lão, có thể giấu diếm được mọi người, giấu diếm được tiểu nhị nhưng không thể gạt được hắn.
Hắn đương nhiên biết trên thực tế Hàn Mạc và Quan Mộ không hề có quan hệ huyết thống, càng biết rõ Quan Mộ không hề có một người cháu trai như vậy!
Quan Mộ gật đầu. Lão không cần giấu diếm Dương Liên, liền nói qua chuyện về Hàn Mạc, sau đó lẳng lặng nhìn Dương Liên, chờ hắn hỏi tiếp.
Hắn thích cách Dương Liên đặt câu hỏi, bởi mỗi lần Dương Liên hỏi, nhất định không hề sơ suất, không hề bất kính, mà còn giúp Quan Mộ tự suy xét lại chi tiết toàn bộ vấn đề.
Tuy rằng tầm nhìn của Quan Mộ hơn người, nhưng dù sao lão cũng không phải là thần tiên, cũng có lúc lão suy nghĩ chưa được chu toàn. Mỗi khi có chuyện đại sự, chỉ sợ bỏ qua một chi tiết nhỏ thôi cũng có thể dẫn đến nguy cơ bị tiêu diệt toàn quân. Chính vì vậy Dương Liên luôn làm việc cẩn thận, lại là trợ thủ cực kỳ nhạy bén, từng giờ từng khắc đưa ra những cách thức, vấn đề bù lại những phần không chu toàn trong suy nghĩ của Quan Mộ. Đây chính là điểm Quan Mộ thích ở hắn.
Những lúc như thế này, tình cảm của hai người lại càng thân cận hơn, bởi vì mỗi khi hỏi đáp, hai người đều cảm nhận được đối phương chính là chiến hữu của mình. Có được chiến hữu cùng có trí tuệ, cùng kiên định như thế này, hai người cũng không cảm thấy cô đơn.
-Đại thiếu gia cùng hắn liên kết kinh doanh buôn bán trên biển, dĩ nhiên vì việc cung cấp mậu dịch mang lại lợi nhuận lớn. Đại thiếu gia buôn bán ở Đông hải, hiện giờ Quan thị mậu dịch đã có đến bốn mươi địa điểm, lợi nhuận đều tập trung vào một nơi lớn nhất.
Dương Liên hạ giọng nói:
-Đại thiếu gia kinh doanh đường biển, kiếm được một phần ba tổng thu lợi nhuận cho gia tộc. Nhưng nếu vì vậy mọi chuyện làm ăn ở Phong Quốc đều phải dựa vào an nguy của bị Hàn thiếu gia này, chuyện này có phải có chút sơ sài, thiếu cẩn thận hay không?
Quan Mộ chỉ vuốt râu, mỉm cười nhìn Dương Liên, không nói gì.
-Nếu chỉ nói đến bạc thu vào, mà làm việc như vậy….
Dương Liên bình tĩnh, nói:
-Nhưng Dương Liên cũng tán thành chuyện dốc toàn lực trợ giúp Hàn thiếu gia. Ba công việc mậu dịch lớn ở Phong Quốc mang lại nhiều lợi nhuận nhưng khó có thể thích nghi với mậu dịch ở Đông hải. Tuy nhiên xét đến toàn bộ lợi ích của gia tộc, đại chưởng quỹ nên tính toán cẩn thận. Chúng ta làm ăn không phải chỉ cần bạc, nếu lần này vì trợ giúp Hàn Mạc mà mất đi nền tảng buôn bán ở Phong Quốc, thì Dương Liên cảm thấy mất nhiều hơn được.
Quan Mộ vuốt râu, thấp giọng nói:
-Ý ngươi là không nên trợ giúp Hàn Mạc?
Dương Liên cung kính nói:
-Không phải không nên, có điều nếu phải trả giá quá nhiều, lại không liên quan đến những gì chúng ta nhận được, dĩ nhiên chúng ta nên thận trọng mà làm.
Hắn liếc mắc nhìn Quan Mộ, vô cùng kính sợ:
-Nhưng nếu đại chưởng quỹ đã quyết định ra tay giúp đỡ, Dương Liên nhất định sẽ nghe theo đại chưởng quỹ phân phó.
Quan Mộ cười cười, chỉ sang cái ghế bên cạnh:
-Ngồi xuống nói chuyện đi!
Dương Liên cũng không nói nhiều, chắp tay, ngồi xuống bên cạnh Quan Mộ.
-Lão Dương, ngươi nói rất có lý. Nếu như chỉ vì một bức thư của Thiếu Hà, chỉ vì việc kinh doanh ở Đông Hải mà làm mất đi công việc mậu dịch ở Phong Quốc để giúp đỡ Hàn Mạc, chuyện này quả thật là mất nhiều hơn được.
Quan Mộ bình tĩnh nói:
-Tuy nhiên ngươi cũng biết Thiếu Hà là người thông minh. Nếu chỉ vì nguyên nhân này, hắn nhất định sẽ không đưa ngọc bài, cũng không viết thư muốn ta toàn lực trợ giúp Hàn Mạc. Hắn làm như vậy, nếu lão phu đoán không sai, chắc chắn hắn đã suy nghĩ cặn kẽ rồi!
Ngày hôm sau trời vừa sáng, Thiết Khuê đã trở dậy, chuẩn bị áp giải mấy người Tống quả sự kia về kinh, giao cho chưởng quầy mậu dịch ở Yến kinh xử lý. Mấy người này sớm đã bị trói chặt lại, còn có hai gã tiêu sư áp tải.
Bọn họ sắp xếp vận chuyển hàng hoá hồi kinh, suốt đêm chuẩn bị xe cộ, tất cả đã tươm tất.
Quan Mộ sáng sớm đã đến, phân phó cửa hàng chuẩn bị lấy thêm các loại đặc sản ra nữa, giao cho tiêu sư và bọn tiểu nhị một phần, lễ vật tuy không lớn nhưng đều khiến mọi người thoải mái.
Trên thực tế, trong lòng mọi người từ trước đến giờ đều cảm thấy đại chưởng quỹ Quan Mộ quả là một người rất biết đối nhân xử thế.
Hàn Mạc tuy rằng đêm qua ngủ muộn nhưng nghe thấy tiếng ầm ĩ trong viện cũng đã tỉnh dậy. Dù sao hắn cũng nên tiễn những người này vài bước, dọc đường bọn họ đã cùng nhau kết bạn, cũng có chút cảm tình.
Chim chóc trong rừng đã bắt đầu cất tiếng hót, đội thương buôn hồi kinh do Thiết Khuê dẫn đầu đã bắt đầu trở về. Hàn Mạc cưỡi ngựa đưa tiễn một đoạn, rồi lấy trong người ra một trăm lượng bạc, đưa cho Thiết Khuê:
-Trên đường đi đệ đã phiền đến Thiết tiêu đầu và các huynh đệ chăm sóc, một chút này là tâm ý của tiểu đệ, xin Thiết tiêu đầu chia cho mọi người hoặc mua mấy bầu rượu mọi người cùng uống!
Thiết Khuê do dự một chút, cuối cùng không nói nhiều, nhận lấy, nói:
-Thiết Khuê ta thay mặt mọi người xin nhận lấy.
Dừng một chút, gã nhíu mày, kề sát tai Hàn Mạc, thấp giọng nói:
-Cho dù ngươi là ai, cũng nhất định bảo trọng nhé!
Hàn Mạc khẽ mỉm cười, những lời này của Thiết Khuê dĩ nhiên cho thấy người này không giống những người khác tin Hàn Mạc thật sự là cháu trai của Quan Mộ. Thiết Khuê hiển nhiên đã linh cảm được Hàn Mạc có thân phận khác.
-Chúc mọi người thuận buồm xuôi gió!
Hàn Mạc thấp giọng nói:
-Khi nào tiểu đệ hồi kinh sẽ tìm cơ hội mời Thiết tiêu đầu uống mấy chén rượu!
Thiết Khuê khẽ vuốt cằm, không nói nhiều, chắp tay, thúc ngựa chạy về đội ngũ ở phía trước. Hàn Mạc chờ đến khi đội thương buôn biến mất khỏi tầm mắt mới quay ngựa lại, trở về Quan thị mậu dịch.
…
Thành Thần Sơn được bao quanh bên trong Mậu Lâm, thuộc giải đất trung tâm của trại Ngọc Tuyền, thành dựa vào núi, địa thế hiểm yếu. Toàn bộ thành Thần Sơn đều bao phủ một màu xanh ngắt của rừng rậm, nếu không có người quen thuộc địa hình dẫn đường, muốn từ trong rừng sâu tìm ra thành Thần Sơn hoàn toàn không phải chuyện dễ dàng gì.
Thành Thần Sơn là thánh địa trong suy nghĩ của người Phong Quốc. Tuy là nơi thiêng liêng, thần thánh, nhưng vì điều kiện không cho phép, toàn bộ thành Thần Sơn cũng không rộng lắm, cả thành trì mới rộng đến mười dặm. So với hoàng cung của các quốc gia khác, thành Thần Sơn thật sự nhỏ bé đến đáng thương, còn chưa bằng một góc của một cung điện lớn.
Thế nhưng trong toà thành Thần Sơn nhỏ bé này lại có hai nơi mà người Phong Quốc vô cùng tự hào, một là Phong cung, một là Thánh đàn.
Phong cung là nơi ở của đại tù trưởng, toàn bộ cung điện nhỏ bé đều dùng thanh trúc xây dựng thành. Người Phong Quốc xây dựng chủ yếu bằng trúc, cho nên ở Nam Phong Quốc không thiếu những kiến trúc sư chuyên về xây dựng nhà ốc bằng trúc.
Phong cung là nơi hơn một trăm người thợ khéo léo, thạo nghề của Phong Quốc tập trung lại, mấy mấy năm chế tạo mà thành.
Chỉ một toà cung điện bằng trúc rộng chưa đến mấy dặm lại cần đến hơn trăm người thợ lành nghê mất mấy năm dốc sức mới xây dựng xong, có thể thấy được mức độ tinh xảo của cung điện là như thế nào. Nghe nói chỉ một cánh cửa trong cung kia thôi cũng hao tổn rất nhiều sức lực của kiến trúc sư, được chế tác độc đáo với đủ cách phong cách khác nhau, trên cửa trúc hình núi, chim, muông thú ở Phong Quốc được khắc hoạ sống động như thật.
Từng điểm đều khắc hoạ toàn cảnh Phong Quốc. Mõi cánh cửa đã hao tốn nhiều tinh lực như thế, mức độ tinh xảo của cả toàn Phong cung bằng trúc này không cần nói cũng biết được. Có thể nói, trí tuệ và mồ hôi của toàn bộ thợ lành nghề của Phong Quốc đều thu lại trong một hình ảnh văn hoá nhỏ mà tinh xảo này.
Thánh đàn cách Phong cung chưa đến mấy dặm thần bí hơn rất nhiều.
Phong cung là nơi ở của tù trường, thường xuyên có các loại hội nghị họp hành, tuy rằng là nơi được canh gác nghiêm ngặt nhất ở Phong Quốc, nhưng dù sao người biết cũng rất nhiều.
Điểm khác nhau rất lớn giữa Thánh đàn và Phong cung chính là ngay cả giới quý tộc Phong Quốc cũng không có mấy người được đi vào Thánh đàn, nói gì đến người dân trong nước.
Thánh đàn là nơi ở của Đại Tế Ti ở Phong Quốc. Đại Tế Ti là người phát ngôn của xà thần ở trần gian. Trách nhiệm của Đại Tế Ti chính là truyền lại những thần dụ của xà thần cho mọi người.
Phong Quốc là một quốc gia đầy tín ngưỡng. Địa vị của Đại Tế Ti chắc chắn không hề thấp hơn tù trưởng, thậm chí trong lòng mọi người, quyền uy của Đại Tế Ti còn cao hơn tù trưởng.
Mỗi khi có một vị tù trưởng lên ngôi đều cần Đại Tế Ti ra mặt chủ trì nghi thức, đích thân dâng lên thánh vật bát giác của Phong Quốc.
Chỉ có người trải qua nghi thức bát giác mới có thể chính thức trở thành tù trưởng Phong Quốc.
Bát giác là dược liệu thần kỳ hiếm có của Phong Quốc, nghe nói năm đó xà thần nhờ ăn được bát giác mới biến được thành người, kết hợp với nữ nhân trần thế, sinh ra tổ tiên người Phong Quốc.
Bát giác tương tự với tuyết liên trên đỉnh núi Thiên Sơn quanh năm tuyết trắng bao phủ, vô cùng quý giá, rất khó thấy được.
Bên trong Thánh đàn có trồng một cây bát giác, ba năm mới kết trái một lần. Có lẽ chính vì nguyên nhân này, vị trí tù trưởng Phong Quốc ba năm mới đổi một lần, bởi phải chờ đến khi bát giác đơm hoa kết trái, được Đại Tế Ti hái xuống, vị tù trưởng mới lên ngôi mới được người Phong Quốc chấp nhận là đại thủ lĩnh chân chính.
…
Hàn Mạc và Hồng Tụ cải trang thành tiểu nhị mậu dịch, đến thành Thần Sơn lúc trời đã hoàng hôn. Trước đó, Quan Mộ đã nói sơ qua một số việc cần chú ý cho Hàn Mạc, nên vừa đến bên ngoài thành Thần Sơn, hai người liền mang ra Mộc phụng ti bài.
Quân thủ vệ trong thành dĩ nhiên nhận ra Mộc phụng ti bài, nhưng chưa cho hai người vào thành ngay mà cầm Mộc phụng ti bài vào thành bẩm báo trước.
Quân Hồng thủ lĩnh chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, hơn nữa trong thời gian ngắn gần đây, thành Thần Sơn liên tục xuất hiện rất nhiều vấn đề, khiến việc bảo vệ thành càng thêm nghiêm mật. Cho dù Mộc phụng ti bài này không có vấn đề, nhưng để cho an toàn tốt nhất nên để Phụng ti trong thành ra ngoài nói chuyện rồi mới cho người vào thành. T.r.u.y.ệ.n.Y.Y.com
Đây là lần đầu tiên Hàn Mạc nhìn thấy thành Thần Sơn, trong tay hắn hiện đang cầm theo một cái rương gỗ, bên trong đầy trân châu. Hồng Tụ mặt không chút biểu cảm, cầm hai hộp gấm trong tay, bên trong cũng là hành hoá đưa tới lần này.
Trong mắt Hàn Mạc, thành Thần Sơn so với kinh thành Yến và thành Đông Hải thì nhỏ bé đến đáng thương, nhưng hắn thật tâm không hề dám khinh thường, bởi, ở giữa sườn núi có thể xây dựng một thành trì quy mô như vậy đã là bản lĩnh vô cùng khéo léo rồi. Nếu không tận mắt nhìn thấy, hắn khó có thể tưởng tượng được trong rừng rậm bạt ngàn như thế này, giữa một ngọn núi lớn hiểm trở này, lại có một toà thành kỳ diệu như vậy.
Đây là thánh thành trong suy nghĩ của người Phong Quốc, là nơi quyết định các sách lược của Phong Quốc. Thành Thần Sơn này là đại não của Phong Quốc.
Hồng Tụ tuy rằng vẻ mặt vẫn hờ hững nhưng tinh thần nàng vô cùng tốt, ngập tràn ý chí chiến đấu.
Nàng là nhân sĩ hắc ám hạng nhất, nàng biết khi nào cần nghỉ ngơi dưỡng sức, khi nào phải che giấu sự sắc sảo của bản thân, càng biết được khi nào thì nên nắm lấy thời cơ, ra tay bất chợt.
Những thành viên hắc ám đều là những cỗ máy vô cùng đáng sợ, bản thân bọn họ cũng rõ ràng, từng thành viên trong bọn họ đều phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh suy nghĩ mới có thể dựa theo ý chí bản thân để có hành động chính xác.
Cho nên cho tới bây giờ, bọn họ luôn có phương pháp giữ gìn thể lực và sinh lực dồi dào, thường xuyên nhân lúc rảnh rỗi, luyện tập thân thể và đầu óc, sẵn sàng hành động bất cứ lúc nào.
Hàn Mạc nhìn bức tường thành thành Thần Sơn, thầm cảm thán, hắn thực sự phải công nhận thành Thần Sơn này là một thành luỹ vững chắc. Muốn khởi binh đao, muốn phá toà thành trì nhỏ bé này còn rất nhiều khó khăn.
Chờ đợi chưa được bao lâu, Phụng ti trong Thánh đàn La Nhật Húc đã vội vàng chạy đến, nhìn thấy hai người Hàn Mạc, y gật đầu, dặn dò thủ vệ một chút rồi dẫn hai người vào thành.
Ngoài thành và trong thành cách nhau rất ngắn, bọn họ vừa đi được một lát đã tới cửa thành trong. Tường thành bên trong thấp hơn bên ngoài không ít nhưng quân canh gác vô cùng nghiêm ngặt. Trên tường thành cứ cách vài bước lại có một gã võ sĩ đứng sừng sững, nghiêm trang nhìn chăm chú nhất cử nhất động dưới chân thành.
Phong cung nằm ở phía đông bên trong thành. Thánh đàn nằm ở phía tây.
Ngoài rất nhiều dũng sĩ nhanh nhẹn bảo vệ bên trong thành ở hai nơi trọng yếu này ra, còn có một đám dũng sĩ hộ vệ tinh ranh hơn phụ trách bảo vệ Phong cung, là bạch xà, và hắc xà phụ trách bảo vệ thánh đàn.
La Nhật Húc dẫn hai người tới Thánh đàn, Hàn Mạc mới kinh ngạc nhận ra, cái gọi là Thánh đàn chính là bên trong thành lại có thành. Thánh đàn rộng đến mấy dặm, bên ngoài có một con kênh vòng tròn bao quanh, trong kênh chứa đầy nước, tựa như sông đào bảo vệ thành trì, nhưng so với những con sông đào bảo vệ thành, quy mô của con kênh này khiến người ta phải kinh ngạc.
Một vòng kênh nước bao quanh, tách biệt Thánh đàn. Trên kênh có một cây cầu xây bằng ngọc trắng bắc ngang qua, nước kênh trong suốt soi bóng cây cầu, hình ảnh vô cùng mỹ lệ.
Trong lòng Hàn Mạc biết, nước trong kênh này dĩ nhiên do người đổ đầy, công sức hao tổn không ít.
-Có bốn cây cầu ngọc như thế này!
La Nhật Húc biết Hàn Mạc là cháu trai Quan Mộ. Hôm qua hắn đã nghe Quan Mộ nói qua, vốn nghĩ rằng hai người Hàn Mạc muốn đến thành Thần Sơn mở mang tầm mắt một chút:
-Bốn phương mỗi phương có một cây cầu, nhưng nếu không được phép, không ai được đến gần nó!
Hắn đã được hưởng lợi rất nhiều từ Quan Mộ, giờ lão có lời nhờ vả, tuy rằng thành Thần Sơn canh gác cẩn mật, người không phận sự không thể đi vào, nhưng chung quy dù sao hắn vẫn là Phụng ti phụ trách mua đồ ăn trong Thánh đàn, muốn đưa hai người đi vào nhìn một cái cũng không phải việc khó. Hơn nữa, người nọ vốn là làm việc theo tiền tài, đã cầm bạc của Quan Mộ, dĩ nhiên cũng nên hết sức giúp đỡ hai người, cho hai người được vài nhìn một cái.
Hàn Mạc tán thưởng, tựa như một người quê mùa lần đầu nhìn thấy rất nhiều thứ mới mẻ, mắt sáng rỡ. Vẻ mặt của hắn như vậy khiến La Nhật Húc hài lòng, đắc ý nói:
-Khánh Quốc các ngươi có thể có nơi nào như vậy không?
-Không có!
Hàn Mạc liên tục lắc đầu:
-Thánh đàn là nơi vô cùng hiểm yếu, không ngờ lại tinh xảo đến vậy. Thật sự được mở mang tầm mắt, mở mang tầm mắt a!
Hắn cảm thán, liếc mắt nhìn bên ngoài Thánh đàn, vài tên hộ vệ áo đen giản dị đứng canh gác, trang phục toàn một màu đen, lưng đeo bội đao, chân đi giày da, đầu quấn khăn đen, chắc hẳn đó là hắc xà của Phong Quốc.
Mấy người hắc xà này tựa như nước chảy, cứ được một lúc, lại có mấy người đi tuần ngang qua, từ đó có thể thấy được nơi nay phòng bị vô cùng nghiêm ngặt. Nếu muốn lặng lẽ vào trong Thánh đàn, không gây một chút tiếng nào thật sự vô cùng khó khăn, một khi bị phát hiện, e rằng không còn cơ hội thoát ra.
-Tới đây là đủ rồi!
La Nhật Húc thấp giọng nói:
-Các ngươi không thể vào Thánh đàn, những thứ đồ kia giao cho mỗ, mộ đích thân mang vào.