Phạm Ung hừ lạnh một tiếng, nhíu mày thầm nghĩ: “Địch Thanh chẳng qua chỉ là một võ phu, sao hiểu được việc lớn quân sự nước nhà chứ?” Ông ta cảm thấy sự kinh hoàng vừa rồi của mình đã bị Địch Thanh nhìn thấy, Phạm Ung hơi xấu hổ che giấu nói:
- Không phải bản phủ sợ, chẳng qua là phải suy nghĩ cho thấu đáo, Địch Thanh, ý kiến của ngươi không ổn thỏa.
Quay đầu sang nhìn Hạ Thủ Vân, Phạm Ung khẽ ho một tiếng rồi khách khí nói:
- Đô Bộ Thự, không ngờ Nguyên Hạo đã xuất binh rồi, ngươi thấy việc này thế nào?
Hạ Thủ Vân bình tĩnh nói:
- Phạm đại nhân không cần quá lo lắng, Nguyên Hạo dám khởi binh, ta sẽ đón đầu đánh y một trận là được rồi.
Phạm Ung thở phào vui mừng nói:
- Đô Bộ Thư bày mưu tính kế, kiến thức không tầm thường, bản phủ nguyện nghe theo.
Địch Thanh thầm nghĩ: “Điều này có khác gì lời ta vừa nói đâu chứ? Nếu thực sự có khác biệt thì chỉ là một bên là Đô Bộ Thự nói còn một bên là Chỉ huy sứ nói.
Hạ Thủ Vân nhìn mọi người xung quay một cái cẩn thận nói:
- Phạm đại nhân, đây là quân cơ phải làm chu đáo bí mật.
Phạm Ung hiểu được tán thưởng nói:
- Không tồi, Địch Thanh, ngươi mời những người trong quan nha này ra ngoài hết, Bản phủ cùng với Đô Bộ Thự phải thảo luận quân tình, Hạ Tùy, ngươi cũng ở lại.
Nhìn Địch Thanh một cái, Phạm Ung lại đang suy nghĩ không biết có nên cho hắn tham gia không thì Hạ Thủ Vân đã nói:
- Địch Thanh chỉ là một Chỉ huy sứ, chức vị hèn mọn, chỉ cần nghe chỉ đạo là được rồi không thích hợp tham dự vào việc này.
Địch Thanh thấy Phạm Ung nhìn sang, biết điều nói:
- Vậy ty chức xin được cáo lui trước.
Đợi sau khi Địch Thanh và những người khác ra khỏi quan nha, Phạm Ung mới nóng lòng hỏi:
- Đô Bộ Thự, Nguyên Hạo xuất hàng vạn binh tấn công An Bảo Quân, ta đang chờ xem phải đối phó thế nào đây.
Ngoài miệng thì hỏi vậy, trong lòng lại đang nghĩ: “Nguyên Hạo xâm phạm biên giới, rốt cuộc là đánh thực sự hay chỉ là muốn mượn chiến tranh để vơ vét chút lợi ích? Bản thân mình phải trấn an người Đảng Hạng trước hay là chiến đấu trực tiếp với Nguyên Hạo đây? Nếu như mà xuất binh không hợp ý triều đình, cho dù có thằng chỉ e cũng có sai lầm. Nhưng nếu không xuất binh cũng không ổn thỏa, việc của đám gia nô được ban thưởng họ này phải làm sao cho đúng mực được đây?”
Tên gia nô được ban thưởng họ chính là Nguyên Hạo – Triệu Nguyên Hạo.
Mấy năm nay, Nguyên Hạo sớm đã không dùng tên họ mà Vương triều đường của Trung Nguyên ban tặng cho, cũng chính là không phải họ Lý, không phải họ Triệu mà là họ Ngụy Danh, đồng thời tự xưng là Ngột Thốt, ý là Thanh Thiên Tử. So với Hoàng Thiên Tử của Đại Tống có khác nhau, dã tâm xưng đế đã rõ rành rành nhưng Phạm lão phu tử vẫn coi thường Nguyên Hạo, đó là một loại đầu óc ưu việt và miệt thị.
Hạ Thủ Vân không chút hoang mang uống một ngụm trà rồi đặt chén trà xuống mới nói:
- Bảo vệ An Bảo Quân là việc của Tuần Kiểm biên thùy Vương Tín.
Phạm Ung nói:
- Nói rất đúng.
Trong lòng lại nghĩ: “Ngươi nói vấn đề chẳng phải vô ích sao?”
Hạ Thủ Vân lại nói:
- Quân ta tới nay đã đóng ở ba nơi là Khảo Lão Thành, Đức Tĩnh Trại, Viên Lâm Bảo thuộc Bảo An Quântuy tổng số không quá bảy ngàn, chia đều ba khu vực. Vương Tín hữu dũng hữu mưu, trước mắt Khảo Lão Thành sẽ không việc gì cả, quân phòng thủ ở Đức Tĩnh Trại và Viên Lâm Bảo thì hơi yếu, có thể phải phái binh tới hỗ trợ. Nhưng đội quân đi hỗ trợ này rất quan trọng, lại phải đề phòng Nguyên Hạo dương đông kích tây.
Phạm Ung run lên vội hỏi:
- Dương đông kích tây thế nào?
Sắc mặt Hạ Thủ Vân thận trọng, chậm rãi nói:
- Ta chỉ sợ Nguyên Hạo đánh nghi binh An Bảo Quân để dụ chúng ta điều quân tới An Bảo Quân phòng thủ, khi việc phòng thủ ở hậu phương trống không thì tấn công thành Duyên Châu.
Sắc mặt Phạm Ung đã thay đổi, một lúc sau mới nói:
- Những lời Đô Bộ Thự nói rất có lý, vậy chúng ta phải làm thế nào đây? Vừa nãy chẳng phải ngươi nói là sẽ đánh đón đầu sao?
Hạ Thủ Vân khẽ mỉm cười nói:
- Vừa rồi ta ở trước mặt mọi người nói như vậy chẳng qua chỉ là kế thật thật giả giả thôi, trước mắt phải lấy việc bảo vệ thành Duyên Châu là việc quan trọng nhất.
Phạm Ung liên tục gật đầu nói:
- Đúng vậy, đúng vậy, nhưng cụ thể thì phải bảo vệ thế nào đây?
Hạ Thủ Vân ho nhẹ một tiếng, cuối cùng cũng nói ra phương pháp phân công bố trí:
- Tuần Kiểm Duyên Châu là Quách Tuân là người dũng mãnh đa mưu, có thể lệnh cho y canh giữ nghiêm mật sự an toàn phòng tuyến tây bắc Duyên Châu . Nếu người Đảng Hạng vòng qua Bảo An Quân tấn công Duyên Châu thì Quách Tuân có thể bảo vệ tuyến đầu tây bắc không sơ xuất gì. Binh Mã Kiềm Hạt Hứa Hoài Đức có cái dũng mà vạn người không bằng, có thể đi tuần Thổ Môn, phòng ngừa Nguyên Hạo cho quân đánh từ phía này. Đô Tri Huy Chu Mỹ là người lão luyện,có thể dẫn bản bộ làm du kỵ hỗ trợ hai lộ Quách Tuân, Hứa Hoài Đức bất cứ lúc nào. Dù cho Nguyên Hạo có a khỏi Hạ Lan Nguyên lên phía Bắc tvòng xuôi xuống phía nam cũng có Kim Minh trại trụ vững chống lại sự tấn công của người Đảng Hạng . Kim Minh trại phòng bị dày đặc, ta nghĩ Nguyên Hạo cũng không có gan đánh Kim Minh trại, lúc đó Duyên Châu sẽ không tổn thất gì.
Phạm Ung thở dài nói:
- Lời Đô Bộ Thự nói rất đúng.
Bỗng nhiên nhớ tới gì đó ông ta lại nói:
- Vậy Bảo An Quân thì sao, chẳng lẽ mặc kệ cho người Đảng Hạng đánh sao?
Hạ Thủ Vân cười nói:
- Đương nhiên là không phải, chúng ta phải rút binh lực ở các trại phía Đông Duyên Châu để trợ giúp Bảo An Quân. Ví dụ như Tân trại có thể xuất vài trăm quân đi hỗ trợ Bảo An Quân, chỉ cần Vương Tín cố thủ không đánh, người Đảng Hạng xuất binh không nhiều, không có kiên nhẫn, rất mau sẽ lui quân thôi.
Phạm Ung thấy lạ nói:
- Đô Bộ Thự phái binh, tại sao lại bỏ gần tìm xa làm gì chứ?
Bởi vì Bảo An Quân ở phía tây bắc Duyên Châu, đội trợ giúp nhanh nhất đương nhiên là xuất binh tại các trại ở Tây Duyên Châu.
Hạ Thủ Vân nói:
- Ý địch chưa rõ, các trại tây lộ đều trong phạm vi tấn công của người Đảng Hạng, không được dễ dàng để trại trống.
Phạm Ung rất thán phục nói:
- Đô Bộ Thự dùng binh cao minh, không phụ lòng kỳ vọng của triều đình, nhưng loại xuất binh phân tán này, có thể tụ tập được bao nhiêu người?
Hạ Thủ Vân nói:
- Nếu Phạm đại nhân vẫn chưa yên tâm, vậy có thể mời Trương Sùng Tuấn Tri châu Khánh Châu phái binh hỗ trợ Bảo An Quân, không biết ý Phạm đại nhân thế nào?
Hai mắt Phạm Ung sáng rực lên, cười nói:
- Đây đúng là diệu kế.
Trong lòng lại nghĩ: “Nguyên Hạo xuất binh ra Hoành Sơn tấn công, Bảo An Quân, Khánh Châu, Duyên Châu đều nằm trong phạm vi tấn công của y. Bất luận thế nào Khánh Châu cũng phải xuất binh, như vậy vừa không phải tản mỏng binh lực Duyên Châu, nếu thực sự có chuyện gì đi nữa thì vẫn có thể gánh vác trách nhiệm cùng Trương Sùng Tuấn. Loại diệu kế này cũng chỉ có mỗi Hạ Thủ Vân nghĩ ra được thôi, Địch Thanh hữu dũng vô mưu, nhất định sẽ không nghĩ ra cách tốt như thế này được.
Địch Thanh lui ra khỏi quan nha của mình, có một cảm giác giống như chim khách bị tu hú chiếm tổ vậy.
Hai đại quan nhân Thiểm Tây mượn chỗ của hắn thảo việc quân cơ, nếu như đa số người ngoài đều cảm thấy vinh hạnh vô cùng thì Địch Thanh lại buồn bực, thầm nghĩ cha con Hạ gia rất có ác ý với hắn, lần này xuất chiến, hơn nửa là sẽ không cho Địch Thanh hắn tham gia.
Kiếm bừa một chỗ sạch rồi ngồi xổm xuống, Địch Thanh nhặt một cành cây khô nguệch ngoạc vẽ vài đường cong xuống đất, nghĩ: “Nếu Địch Thanh ta mà là Đô Bộ Thự của Duyên Châu thì phải chống cự thế nào khi Nguyên Hạo xuất binh đây?
Hắn đã ý thức được lời nói thâm ý sâu sắc của Quách Tuân năm đó, Địch Thanh hắn mà muốn trở thành anh hùng thiên hạ vô song nhất định phải có cơ hội.
Mà cơ hội này không phải từ trên trời rơi xuống.
Địch Thanh hắn lại không muốn bỏ qua bất cứ một cơ hội nào.
Cúi đầu nhìn xuống đường cong kia, Địch Thanh lại điểm năm điểm trên đầu đường cong, vẽ một mũi tên, trong lòng nghĩ tới, biên thùy tây bắc của Đại Tống thật ra chính là U Vân mười sáu châu thứ hai của Đại Tống. Nguyên Hạo đã khống chế Hoành Sơn, giống như là Khiết Đan khống chế U Vân. Người Đảng Hạng và người Thiết Đan đều ỷ vào ngựa nhanh quân khỏe, nói tấn công là tấn công Đại Tống, Đại Tống bị hai bên này đánh qua đánh lại.
Quân lộ Vĩnh Hưng thuộc phía đông Hoành Sơntừ phía tây nam tới đông bắc, nơi quân Tống phòng ngự chủ yếu là Hoàn Châu, Khánh Châu, Bảo An Quận, Duyên Châu và Thủ Môn, vv… Năm nơi này cong cong như hình cung tên, mũi tên chỉ vào Hoành Sơn.
Duyên Châu chính là đích của mũi tên đó còn Bảo An Quân chính là mũi tên, muốn đánh người Đảng Hạng thì phải đánh vào tụ lực của mũi tên này là tốt, nhưng phải đối diện với ngàn dặm Hoành sơn nguy nga.
Những năm gần đây, Nguyên Hạo thừa dịp lúc Lưu Thái Hậu đương quyền, đâm một đao vào tuyến phòng ngự ở đây. Mấy năm trước, Nguyên Hạo xuất binh ra Hoành Sơn, tới giữa lãnh địa Khánh Châu và Bảo An Quân, dựa vào sơn kề thủy dựng lên một Bạch Báo Thành.
Một đao này rất thâm, nhưng sau khi Tống triều biết được lại ngầm thừa nhận sự tồn tại của Bạch Báo Thành.
Địch Thanh nghĩ đến đây có chút thở dài, một năm trở lại đây hắn làm việc không ngừng nghỉ, mặc dù chức quan cũng không tăng, nhưng nhận thức đã được mở rộng, hiểu biết nhạy bén. Mặc dù đao này của Nguyên Hạo tuy không phải là trí mạng nhưng đã tạo ra một khe hở tuyến phòng ngự tây bắc của Đại Tống.
Bạch Báo Thành xé rách tuyến phòng ngự tây bắc của Đại Tống, cũng cắt đứt liên hệ giữa Khánh Châu và Bảo An Quân, nó khiến cho một đường cong phòng ngự vốn hoàn mỹ kia có không ít vấn đề.
Sau khi Nguyên Hạo có được thành quả này thì bắt đầu bành trướng mở rộng khu vực xung quanh Bạch Báo Thành, xây dựng một Hậu Kiều trại ở trước Bạch Báo Thành, các góc cạnh mọc ra nhọn hoắt, sau đó xây dựng Kim Thang Thành ở phía đông nam Lạc Thủy.
Kim Thanh Thành đã ở bên trong Bảo An Quân rồi!
Địch Thanh lại vẽ một hình tam giác ở góc trái trên cùng của cánh cung, hình tam giác đó đại diện cho ba nơi, Bạch Báo Thành, Kim Thang Thành và Hậu Kiều Trại. Đây vốn dĩ đều là địa bàn của Đại Tống nhưng bây giờ đã bị người Đảng Hạng chiếm cứ đóng đinh ở đó rồi.
Nguyên Hạo xuất binh đi Bảo An Quân, có thể tiến và cũng có thể lui, vì y đã sớm phái hai người Dã Lợi Vượng Vinh, Dã Lợi Ngộ Khất dẫn quân khống chế ngàn dặm Hoành Sơn rồi, lấy Hoành Sơn làm bức thành che chở để đối kháng với quân Tống.
Dã Lợi Vượng Vinh, Dã Lợi Ngộ Khất là huynh đệ, đều là người trong bát bộ, cũng là hai Vương trong Long Bộ Cửu Vương.
Long Bộ Cửu Vương, nghe nói đã từng trải qua cả trăm trận chiến, có khả năng phi phàm, ở trong người Đảng Hạng đều là những nhân vật chỉ đứng sau Nguyên Hạo.
Nguyên Hạo phái hai người này trấn thủ Hoành Sơn, dĩ nhiên là cực kỳ coi trọng Hoành Sơn.
Mà phía Tây bắc của Đại Tống lại ở phía dưới của dãy Hoàng Sơn, muốn giữ được tuyến phòng ngự hình cung này phải mất rất nhiều lực. Bởi vì Bảo Trại dù sao cũng có hạn, phòng ngự Duyên Châu xung quanh đều có kẽ hở.
Nguyên Hạo tấn công Bảo An Quân, nếu như tiến thêm một bước nữa có thể xuống phía nam tấn công Khánh Châu, Bắc Thượng chiếm Thổ Môn, sang phía đông xâm đánh Duyên Châu…
Đang chìm trong suy nghĩ thì đột nhiên cảm thấy có người đang tới gần, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn sang nhìn thấy hai ngón chân cái to thò ra ngoài đôi giày cỏ.
Địch Thanh ngẩng đầu nhìn lên, nhíu mày, người đang tới kia thì ra là lão già vô lại Chủng Thế Hành!
Chủng Thế Hành nhìn Địch Thanh cười hì hì, thấy Địch Thanh nhìn sang Chủng Thế Hành liền hỏi:
- Địch chỉ huy, không ngờ ngươi còn có khả năng hội họa nữa, cái cung tên này cũng đẹp đấy chứ.
Lão khoanh chân ngồi xuống, cũng không thèm quan tâm xem trên mặt đất có gì không.
Địch Thanh nhìn Chủng Thế Hành một lúc lâu sau đột nhiên nói:
- Ta vẽ cũng không được tốt lắm, ông có ý kiến gì không?
Hắn đưa cành củi khô trên tay cho Chủng Thế Hành, ánh mắt sáng rực.
Chủng Thế Hành nhận lấy cảnh củi cười nói:
- Lão già ta không biết vẽ nhưng ta sẽ nói cho ngươi biết một đạo lý đơn giản, nếu ngươi vẽ một cung tên thì vốn không có hình tam giác kia.
Lão giơ một chân ra xóa mất hình tam giác mà Địch Thanh vẽ ra.
Địch Thanh lẳng lặng xem, trong mắt hiện lên vài phần kinh ngạc, hồi lâu mới nói:
- Ông nói rất đúng.
Trong lòng thầm nghĩ: “Về lâu dài mà nói, nếu đánh người Đảng Hạng thì nhất định phải nhổ bỏ ba nơi Bạch Báo, Kim Thang và Hậu Kiều trước, mới có thể toàn lực tấn công đối thủ. Chẳng lẽ lão vô lại này biết mình đang nghĩ gì sao? Cứ coi như là ông ta biết đi nhưng sao lại đưa ra chủ ý này chứ? Hay là ông ta chẳng qua nói bừa nên trúng thôi?”
Đang lúc trầm tư Chủng Thế Hành lại vẽ một đường dây cung từ trên xuống, lẩm bẩm nói:
- Ngươi đúng là không có kiến thức, một cây cung mà không có dây thì sao mà được chứ? Cánh cung kéo như vậy không có lực, chẳng phải để thiên hạ chê cười sao?
Địch Thanh hơi chấn động, trong lòng nghĩ: “Chủng Thế Hành nói không sai, người Đảng Hạng thế dày, nếu thực sự tấn công người Đảng Hạng, tuyệt đối không thể chỉ trông cậy vào một mũi tên Bảo An Quân. Nguyên Hạo có thể xen vào Đại Tống đóng một cái nêm vậy tại sao chúng ta lại không thể đóng sang đó chứ? Dây cung hướng sang Tây nam có thể xuất binh Hoàn Châu, dây cung hướng sang phía tây bắc có thể lấy Tuy Châu của người Đảng Hạng. Nếu lấy được Tuy Châu có thể uy hiếp được Hạ Châu, Ngân Châu và Thạch Châu của người Đảng Hạng. Như vậy sở dĩ Đại tống lấy trứng trọi đá, đâu đâu cũng bị động cũng bởi vì trước sau không tạo được uy hiếp đối với người Đảng Hạng.”
Nghĩ đến đây Địch Thanh hỏi:
- Chủng lão trượng…
Hắn cảm thấy Chủng Thế Hành có chút kiến thức mới định hỏi, đột nhiên lại phát hiện Chủng Thế Hành đã biến mất.
Hóa ra lúc Địch Thanh trầm tư thì Chủng Thế Hành đã đứng dậy đi mất.
Chủng Thế Hành chợt đến chợt đi thật sự khiến mọi người không thể đoán nổi, Địch Thanh sửng sốt chậm rãi đứng lên nhìn xung quanh. Đột nhiên nhìn thấy ở phía tây cách đó không xa có một đám khói nghi ngút, hắn giật nảy mình cho rằng trong trại có đám cháy vội vàng chạy tới.
Mới chạy được một đoạn không xa thì thấy không ít người cũng chạy vội sang hướng đó, đám người đó nhìn thấy Địch Thanh vội vàng tránh sang hai bên, đợi sau khi Địch Thanh chạy qua mới tiếp tục chạy theo sau hắn.
Những người đó mặc dù không biết Địch Thanh nhưng trong mắt cũng có ý tôn kính.
Địch Thanh không hiểu chuyện gì đã xảy ra, chạy thẳng tới chỗ có khói phát ra, phát hiện nơi đó chỉ là một đình viện đơn sơ, bên trong chen chúc đứng rất nhiều người đều nhìn sang một phía.
Không biết ai kêu lên một tiếng:
- Địch chỉ huy đến rồi.
Mọi người xoay người xôn xao tản ra, Liêu Phong tiến ra phía trước nghênh đón, đi theo sau là đám người Cát Chấn Viễn, Tư Mã Bất Quần. Liêu Phong thấy Địch Thanh liền cười nói:
- Địch chỉ huy, hiếm thấy ngươi có lòng tới đây, mọi người đều thấy ngươi bận nên bái tế Đinh chỉ huy cũng không tìm ngươi.
Liêu Phong và Địch Thanh tuy cũng chỉ gặp mặt vài lần nhưng rất quen thuộc giống như người thân.
Địch Thanh nhìn thấy phía trước có một chậu than, bên trong làn khói giấy bụi bay ngút trời, lúc này mới tỉnh ngộ thì ra mọi người đang tế Đinh Thiện Bản.
Hung thủ Tiền Ngộ Bản đã chết, mặc dù Địch Thanh không điều tra được sâu hơn nhưng trong lòng binh sĩ Tân Trại đã cảm thấy mãn nguyện, vô cùng cảm kích Địch Thanh.
Địch Thanh cũng không giải thích, lập tức đi tới trước linh vị của Đinh Thiện Bản.
Có một phụ nữ mặc đồ tang trắng dẫn theo một đứa nhỏ tiến lên nghẹn ngào nói:
- Địch chỉ huy, người đã báo thù lớn cho nhà ta lại còn tới viếng Thiện Bản, ta vô cùng cảm kích.
Nàng hơi cúi đầu xuống, Địch Thanh biết người này là quả phụ của Đinh Thiện Bản, vội vàng đáp lễ nói:
- Ngươi khách khí quá, đây chẳng qua chỉ là bổn phận của tại hạ.
Người phụ nữ đó nói với đứa bé bên cạnh:
- Niệm Thân, khấu đầu trước Địch chỉ huy đi.
Đứa bé kia rất nghe lời mẹ nó liền tiến lên quỳ xuống trước mặt Địch Thanh, Địch Thanh đưa tay ra đỡ nó, đứa bé rưng rưng nước mắt nói:
- Địch chỉ huy, cảm ơn người đã báo thù cho cha cháu, cả đời này cháu sẽ ghi nhớ đại ơn này.
Đứa bé tuy còn nhỏ nhưng lời nói lại chắc như đinh đóng cột, mọi người thấy cảnh mẹ góa con con này đều không khỏi chua xót.
Địch Thanh xoa xoa đầu đứa bé thấp giọng nói:
- Cháu không cần nhớ ơn tình của ta đâu, cháu chỉ cần nhớ một điều, lúc người khác hoạn nạn thì giúp đỡ họ, như vậy đã là trả ơn cho ta rồi.
Đứa bé nửa hiểu nửa không gật gật đầu, Địch Thanh buông đứa bé ra, nhận lấy nén hương Liêu Phong đưa cho, sau khi đốt thì hướng về linh vị của Đinh Thiện Bản nói:
- Đinh chỉ huy, nói thật ta với ngươi chưa từng gặp nhau, ta vốn không biết ngươi là người thế nào. Nhưng cho đến hôm nay, phát hiện ngươi có thể làm cho những hảo hán như Liêu Phong, Tư Mã Bất Quần và Cát Chấn Viễn liều mạng vì ngươi, lại khiến cho những người này lưu luyến nhớ thương. Thì ta đã biết, ngươi tuyệt đối xứng đáng nhận của Địch Thanh ta đây một lạy, ngươi yên tâm mà đi, có Địch Thanh ta ở đây, có những người có lòng của Tân Trại ở đây, thì ngươi không cần phải lo lắng gì nữa.
Hắn thi lễ, mọi người phía sau nước mắt rưng rưng.
Dù bọn họ chỉ gặp mặt Địch Thanh một lần nhưng đều biết rằng Địch Thanh mới tới Tân Trại, vì một Đinh Thiện Bản không quen biết mà kìm nén áp lực không ngại đắc tội với Đô Bộ Thự, nhất định phải chém đầu Tiền Ngộ Bản, bọn họ đã sớm coi Địch Thanh là người thân.
So với người thân còn thân hơn.
Người thắng được tôn kính, vốn dĩ đơn giản như vậy nhưng lại là một sự việc gian nan như thế!
Sau khi Địch Than tế bái Đinh Thiện Bản xong, liền gọi đám người Liêu Phong sang một bên, hắn cảm thấy lúc này chiến tranh đã nổi lên, cần phải dặn dò mọi người tăng cường phòng bị, đến đây đột nhiên hỏi:
- Các ngươi có biết người tên Chủng Thế Hành này không?
Liêu Phong nói:
- Đương nhiên là biết rồi, đó là một tên vô lại.
Tư Mã Bất Quần lắc đầu nói:
- Lão Liêu, ngươi nói nặng lời quá, Chủng Thế Hành không phải tên vô lại, nên nói là một người kinh doanh. Ta nghe nói gần đây công việc kinh doanh của y cũng khá, nhưng bản chất keo kiệt, luôn thích được ăn uốngcủa người khác, hình như y cũng đã từng ăn một bữa cơm của Đinh chỉ huy rồi.
Cát Chấn Viễn nói:
- Các ngươi nói đều sai hết, Chủng Thế Hành thực ra là một ông quan tốt, trước đây ông ta làm tri huyện, thông phán, nghe nói đắc tội với người của triều đình nên mới bị lưu đày tới tây bắc đấy. Ông ta mặc dù keo kiệt nhưng là người tốt, sau khi Đinh chỉ huy bị hại, ta nghe Đinh phu nhân nói, ông ta còn lặng lẽ đưa cho nàng hai lượng bạc để sống qua ngày.
Địch Thanh tìm được câu trả lời, sau một lúc mới nói:
- Không nói đến Chủng Thế Hành nữa, mọi việc các ngươi làm đều rất tốt, lần này nếu không có các ngươi, ta e là chưa đánh đổ được Tiền Ngộ Bản đâu.
Trên mặt Tư Mã Bất Quân lộ ra nét vui mừng, giơ ngón tay cái lên nói:
- Nhưng nếu không có Địch chỉ huy thì ba người chúng ta có chồng lên nhau cũng không đánh đổ được Tiền Ngộ Bản.
Liêu Phong kêu lêm:
- Tư Mã, ngươi vẫn còn mặt mũi mà nói à, vừa nãy ta còn bận chưa có thời gian nói ngươi, lúc Địch chỉ huy khó khăn nhất sao ngươi không cùng Hoa Đà đứng ra chứ?
Tư Mã Bất Quần mỉm cười nói:
- Tên quê mùa ngươi thì biết gì chứ, Địch chỉ huy không cho chúng ta đứng ra, vì hắn biết cho dù Hoa Đà có đứng ra làm chứng đi nữa thì cũng không đủ, vì thế mới dùng kế ép Thiết Lãnh, làm ma dọa Tiền Ngộ Bản. Nhưng Địch chỉ huy là người đầu đội trời chân đạp đất giả ma cũng khá là giống, suýt chút nữa thì ta cũng tưởng là hồn mà nhập vào thật chứ.
Lúc này Liêu Phong mới hiểu ra, hỏi lại:
- Nhắc tới giả ma … đúng rồi Chấn Viễn, vậy chiếc áo đẫm máu kia là thế nào?
Cát Chấn Viễn cười ha hả:
- Đó đương nhiên cũng là diệu kế của Địch chỉ huy rồi, hắn nói thời gian cấp bách, tạm thời không thể đi đào thi thể của Đinh chỉ huy lên được nên bảo làm giả đồ vật gì đó trên người Đinh chỉ huy. Trùng hợp là ta lại biết bắt chước nét chữ của Đinh chỉ huy, lại nhớ ra lần cuối cùng Đinh chỉ huy ra ngoài mặc chiếc áo màu xanh, lúc đó mới tạo ra tấm vải viết bằng máu đó. Tư Mã âm thầm phối hợp với ta diễn trò, lão Liêu không phải là ngươi thực sự cho rằng là có ma đấy chứ?
Liêu Phong cười khổ nói:
- Nếu ngươi không nói ra, ta thực sự cho rằng đã gặp ma đấy, hai tên tiểu tử nhà ngươi tâm địa gian xảo, làm ta mặc cảm quá.
Cát Chấn Viễn cười nói:
- Nếu nói về tâm địa gian xảo không ai có thể so sánh được với Địch chỉ huy cả.
Tư Mã thấp giọng nói:
- Lão Cát, chớ nói bừa.
Địch Thanh đang trầm tư thấy ba người họ cười nói như vậy cũng mỉm cười nói:
- Cát Đô Đầu nói không sai, đối phó với địch, tâm địa gian xảo càng nhiều càng tốt. Nhưng đối với bạn bè thì thẳng thắn thành thật là được.
Hắn vừa nói xong thì nhớ tới tình hình biến đổi trong cung năm ó quỷ dị vượt xa hôm nay., Tình hình trong cung năm đó thực sự là có ma, hay do con người làm ra ?
Cát Chấn Viễn kêu lên:
- Tư Mã, ta đâu có nói sai, Địch chỉ huy là một hảo hán đầu đội trời chân đạp đất, sẽ không trách ta nói sự thật đâu.
Địch Thanh nói:
- Lời nói thật tất nhiên phải nói rồi…
Hắn chưa nói xong đã cảm thấy có gì đó, quay đầu lại nhìn thì thấy Hạ Tùy từ xa đi tới. Địch Thanh lẩm bẩm:
- Nhưng đối với loại người này đến nói chuyện ta cũng không muốn.
Hạ Tùy đi tới trước mặt Địch Thanh, cũng không biết có nghe được lời Địch Thanh nói không, thái độ kiêu căng nói:
- Địch Thanh, Phạm đại nhân lệnh cho ngươi, chọn một số binh sĩ của Tân Trại lập tức tới trợ giúp Bảo An Quân!
Bọn người Liêu Phong kinh hãi, Địch Thanh nhìn Hạ Tùy trầm ngâm suy nghĩ một lúc sau mới nói:
- Ta dẫn quân đi trợ giúp Bảo An Quân sao? Được.
Trời đầy mây, đất đầy lá vàng rơi, sương hoa thu tràn lối.
Địch Thanh tiễn Phạm Ung ra khỏi Tân Trại, trên đường quay lại lòng đầy tâm sự. Hắn không ngờ tới vừa đến Tân Trại đã bị phái đi trợ giúp Bảo An Quân.
Trong lòng Hạ Thủ Vân rốt cuộc đang tính toán chuyện gì đây?
Lúc Phạm Ung ra khỏi nha đã có chút hả lòng hả dạ nhưng không quên nhắc nhở Địch Thanh một câu: “lần này đi đánh trận, phải biết làm việc tùy theo hoàn cảnh ” Nói xong còn nháy mắt với Địch Thanh vài cái, hy vọng Địch Thanh có thể hiểu được ý của ông ta.
Phạm Ung và Hạ Thủ Vân không chậm trễ nữa vội đi Kim Minh Trại, nhưng Địch Thanh lại thầm nghĩ: “Mặc dù trong lòng ta vẫn muốn tự mình chống cự với người Đảng Hạng xâm lấn nhưng Tân Trại ở hậu phương lâu rồi, có bao nhiêu năng lực chiến đấu chứ? Lần này là đi chiến trận, mà đi chiến trận thì sẽ có thể chết chứ không phải trò đùa, rốt cuộc phải dẫn bao nhiêu người đi đây?” Hắn vừa nhìn thấy mẹ góa con côi nhà Đinh chỉ huy, không muốn sau trận chiến này, Tân Trại có thêm nhiều góa phụ và con côi nữa.
Nghĩ tới đây, Địch Thanh nhìn thẳng vào một con đường dài, đột nhiên ghìm cương ngựa không tiến nữa , trong mắt hiện lên vẻ kinh dị.
Hai bên của con đường dài đã đứng chật kín dân chúng quân tốt, Tân Trại có gần ngàn binh sĩ bày trận ra hai bên đường, lặng lẽ nhìn Địch Thanh.
Lá rụng kinh sợ ý thu, tản ra rồi lại tụ vào theo làn gió.
Hoàng hôn cuối thu, lá vàng rơi khắp trên con đường dài, nhìn qua giống như hoa gấm rực rỡ ở Kinh Thành, đang diễn tấu nhạc khí, có một không khí bi thương không nói lên lời.
Tôn Tiết đứng ra, khuôn mặt hiền lành không biết có phải bị ý thu truyền nhiễm cho không mà trào dâng một nỗi niềm khó tả, y nói dõng dạc:
- Tôn Tiết phó chỉ huy Tân Trại biết được Địch chỉ huy phải xuất binh đi đánh trận nêncố ý sắp xếp để ba trăm trại quân ở lại bảo vệ trại, ngoài ra còn lại người đều đã mang tới đây, mời Địch chỉ huy điểm binh.
Liêu Phong, Tư Mã Bất Quần, Cát Chấn Viễn sóng vai đứng ra cao giọng nói:
- Mời Địch chỉ huy điểm binh!
Tất cả binh lính Tân Trại đều đồng thanh nói:
- Mời Địch chỉ huy điểm binh!
Âm thanh vang dội, tràn đầy quyết tâm, xông thẳng trời cao, kích động tới ánh nắng chiều.
Địch Thanh nhìn một đoàn nam nhi đầy nhiệt huyết, trong lòng cảm kích, lập tức chắp tay lại nói:
- Địch mỗ chẳng qua chỉ là làm một chút việc nhỏ mà đã nhận tấm lòng ưu ái của các huynh đệ. Quốc gia có nạn nam nhi phải đi đầu, nhưng nói thật trận chiến này, ta cũngkhông nắm chắc phần thắng.
Tình hình địch như thế nào? Bảo An Quân ra sao? Phạm đại nhân rốt cuộc là còn có kế hoạch gì khác nữa, Địch Thanh hoàn toàn không biết.
Hắn càng không biết Phạm Ung chẳng qua chỉ là muốn hắn chỉ đi lướt qua thôi mà.
Địch Thanh chưa từng dẫn binh nhưng cũng biết tới cách xuất trận này, lành dữ khó đoán, tâm ý của quân Tân Trại hắn cũng biết, nhưng sao hắn có thể nhẫn tâm dẫn những người này đi liều mạng chứ?
Tư Mã Bất Quần đứng ra nói:
- Địch chỉ huy, tục ngữ nói rất đúng, không có tướng quân nào luôn thắng, chỉ có những hào kiệt bất tử , quân Tân Trại không sợ chết, chỉ sợ không biết chết thế nào, có Địch chỉ huy ở đây, chúng ta không sợ!
Chỉ một câu nói này mà quân Tân Trại sục sôi nhiệt huyết, đều hô to:
- Tư Mã Đô Đầu nói không sai, chúng ta không sợ chết, Địch chỉ huy, người hạ lệnh đi.
Cát Chấn Viễn trong đám người kia bước ra kích động nói:
- Địch chỉ huy, tuy ngươi tới đây chỉ vẻn vẹn một ngày nhưng lúc ngươi vì Đinh chỉ huy báo thù, chúng ta đều biết được cách đối nhân xử thế của ngươi. Ngươi dẫn dắt quân thì chúng ta yên tâm, ngươi vì chúng ta mà ngăn chặn mưa gió, chúng ta không phải vì báo quốc mà chỉ là báo đáp Địch chỉ huy thôi.
Mọi người lần này không nói nhiều, cả phố dài im lặng.
Chúng ta không phải vì báo quốc mà chỉ vì báo đáp Địch chỉ huy!
Mọi người không nói gì nhưng chẳng phải trong lòng đều có âm thanh này sao? Địch Thanh ngăn chặn mưa gió cho người Tân Trại, đến bây giờ quân Tân Trại muốn cho người khác thấy, Địch chỉ huy không phải là tứ cố vô thân. Không ai được coi thường quân Tân Trại, quân Tân Trại không hèn nhát.
Khóe mắt Địch Thanh hơi ướt, chậm rãi xuống ngựa, đi từ đầu này của con đường dài, ánh mắt nhìn từng người, từng người một.
Rất nhiều người ngẩng đầu lên, cũng có một vài người cúi đầu xuống.
Có binh sĩ mặt xanh xao, có binh sĩ lấy xoong nồi làm lá chắn… binh Tân Trại tuy rằng những người có thể đến đã đến nhưng đã lâu không khai chiến rồi, những trang bị quân sự đều rách nát đáng thương.
Địch Thanh đi tới giữa con phố dài chắp tay vào hướng mọi người nói:
- Địch Thanh nhận được sự nâng đỡ của huynh đệ trong Tân Trại, trong lòng rất cảm tạ, lần này Bảo An Quân có cấp bách, việc mang quân đi hỗ trợ là không tránh khỏi. Các huynh đệ không sợ chết, Địch Thanh ta cũng không sợ chết, nhưng lần này đi rất nguy hiểm, đi rồi có thể không có khả năng quay về… Địch mỗ không hề nói để hù dọa mọi người, mà đó là sự thật.
Nói xong câu này lại nhìn vào mọi người một lượt.
Binh sĩ có người phấn chấn, có người xúc động, có người nhút nhát, sợ sệt…
Liêu Phong kêu lên:
- Chỉ huy sứ, người hạ lệnh đi, ai lùi bước người đó là tôn tử!
Địch Thanh đột nhiên hét lên:
- Ai muốn xuất trận cùng ta, tiến lên một bước!
Tất cả binh sĩ không ai ngờ rằng đột nhiên Địch Thanh lại tuyển binh như thế này, có người bàng hoàng, có người do dự, nhưng lại có người sớm đã chuẩn bị trước không chút do dự bước lên một bước.
Chỉ một bước mà con đường dài đã đứng hàng trăm binh sĩ, nói một cách tương đối cũng tới một phần tám binh trại rồi.
Có người thấy người bên cạnh đứng lên cũng có chút xấu hổ cũng đứng ra, trong phút chốc đã hơn người đứng ra, nhưng một bước đó thực sự là rất nặng nhọc, đâu có dễ dàng gì mà đứng ra?
Đám người Liêu Phong sắc mặt giận giữ chuẩn bị quát lên thì Địch Thanh đã nói:
- Được, đủ rồi, những người còn lại bảo vệ trại.
Địch Thanh thầm nghĩ rằng: “Binh ở Tân Trại lâu không chiến đấu, chỉ trong giây lát mà có hơn người đứng ra trợ giúp Bảo An Quân, đã là chuyện không dễ rồi, Địch Thanh ta sẽ toàn lực đảm bảo an toàn cho những binh sĩ này.” Thấy sắc mặt của những binh lính không đứng ra khỏi hàng kia có chút ngượng ngùng, Địch Thanh nói:
- Trách nhiệm cứu viện tuy rằng trọng đại nhưng nhiệm vụ bảo vệ trại cũng không nhẹ nhàng gì, Tôn Tiết ngươi dẫn quân thủ trại, không được để bất kỳ sơ suất nào.
Tôn Tiết định xin đi đánh trận thì Địch Thanh lại vỗ vỗ vai y và nói:
- Còn phải làm phiền ngươi ghi lại tên những binh sỹ hôm nay phải xuất chiến.
Tôn Tiết hiểu ra, chậm rãi nói:
- Được.
Ý của Địch Thanh không khó lý giải, dẫn binh đánh trận là chuyện của Địch Thanh, đảm bảo những người này không lo lắng gì là chuyện Tôn Tiết cần làm.
Liêu Phong chủ động đứng ra nói:
- Địch chỉ huy, đi đánh trận nhất định phải mang ta theo.
Tư Mã Bất Quần, Cát Chấn Viễn ở phía sau Liêu Phong cũng chẳng thèm nói lời nào, ý tứ cũng rất rõ ràng, ba người này là buộc cùng một chỗ.
Địch Thanh cười cười nói:
- Đương nhiên phải tính cả các ngươi chứ. Được rồi, cứu binh như cứu hỏa, những người xuất chiến nghỉ ngơi chuẩn bị vài giờ đồng hồ, đúng canh ba xuất phát! Giải tán.
Mọi người hưởng ứng đều lui về hết.
Mấy giờ đồng hồ cuối cùng nói là để chuẩn bị nhưng ai cũng đều biết là Địch Thanh để họ cáo biệt với người nhà.
Địch Thanh thì không có người để cáo biệt, chỉ đi theo con đường dài phía trước, ánh tà dương đỏ như máu kéo bóng dáng hiu quạnh kia ra thật dài. .
Có những người dân ở phía sau Địch Thanh bàn luận, đa số họ đều không hiểu, tại sao một Chỉ huy sứ tuấn lãng cứng rắn này, dù đang cười cũng mang theo khí tang thương không nói thành lời?
Địch Thanh cũng không ngại người bên cạnh chỉ chỉ chỏ chỏ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn dẫn binh đi chiến trận, hắn không kích động, chỉ còn lại sự bình tĩnh và quyết tâm.
Quyết tâm chiến đấu vì huynh đệ Tân Trại, quyết tâm chiến đấu vì bảo vệ biên giới, cũng quyết tâm chiến đấu vì lời hứa không bao giờ thay đổi đó!
Chắc Vũ Thường, cũng biết anh hùng vô song thiên hạ trong mắt ngươi nghĩ gìkhi chuẩn bị đi khai chiến?
Địch Thanh nghĩ đến đây chợt nhìn lên đám mây trên trời.
Ánh nắng chiều tà rực rỡ giống như khúc nghê thường, đám mây trong suốt lững lờ trôi, tựa như vũ y.
Âm thanh “Đinh đinh, đang đang” truyền đến.
Địch Thanh quay đầu lại nhìn, chỉ nhìn thấy ở phía trước không xa, chính là một nhà thợ rèn. Một ông lão đang vung mạnh cái búa sắt đập vào những công cụ đang được đốt lên đỏ rực, trong lòng Địch Thanh khẽ rung động, chậm rãi bước tới.
Khuôn mặt ông lão rèn sắt khắc khổ, trời mùa thu nhưng ông vẫn cởi trần để lộ bộ ngực như sắt của mình, thình thoảng có đốm lửa bắn lên người ông rồi tự nhiên tàn lụi.
Ông lão cảm thấy được ánh mắt Địch Thanh đang nhìn, cuối cùng cũng dừng tay búa lại ngẩng đầu nhìn sang phía Địch Thanh, nhìn thấy Địch Thanh ông có chút kinh ngạc hỏi:
- Vị này là Địch chỉ huy đúng không? Ngươi... Ngươi muốn làm binh khí gì?
Địch Thanh mới tới được hai ngày nhưng trên dưới trong Tân Trại đều truyền tụng cái tên truyền kỳ này, đến cả lão thợ rèn này cũng đã biết tới Địch Thanh.
Có một số người, chưa chắc đã là một truyền kỳ?
Địch Thanh bước vào trong lò rèn đơn sơ, nhìn qua những đao kiếm, ánh mắt dừng lại ở một cái mặt nạ bằng đồng xanh được đặt trên cái giá gỗ giữa nhà.
Địch Thanh muốn tìm chính là mặt nạ!
Hắn biết khuôn mặt mình tuấn tú, trên chiến trường không có sức nhiếp chúng, nhưng điểm đáng ghét nhất là nếu hắn tức giận thì cả mặt sẽ run lên, lông mi, khóe mắt thậm chí cả khóe miệng đều giật lên. Hắn không muốn binh sĩ thuộc hạ nhìn thấy tình cảnh này của hắn, càng không muốn binh sĩ cảm thấy hắn dường như đang sợ hãi, cho nên hắn muốn tìm một cái mặt nạ để che lấp.
Khi hắn vừa nhìn thấy chiếc mặt nạ kia thì trong lòng hơi rung động, hắn thích chiếc mặt nạ đó, thích ý chí bất khuất được thể hiện trên chiếc mặt nạ đó.
Bộ mặt nạ dữ tợn, khóe miệng còn có hai cái nanh, dưới ánh nắng chiều, cả chiếc mặt nạ tỏa ra một màu xanh nhạt.
Dù cho ánh chiều tà kia chiếu lên cũng không thể thay đổi được vẻ lạnh lẽo tiêu điều trang nghiêm của chiếc mặt nạ đó.
Địch Thanh nhìn chiếc mặt nạ đó, đôi mắt trống rỗng trên mặt nạ đó cũng đang nhìn hắn… Chiếc mặt nạ được làm một cách cực kỳ tinh tế, trông rất sống động, còn mang theo một ý chí chiến đấu bất khuất…
Không biết bao lâu sau Địch Thanh mới hỏi:
- Mặt nạ này là đại diện cho người nào vậy?
- Là Hình Thiên!
Một giọng nói trong trẻo như nước suối nhưng lạnh lùng thốt lên.
Địch Thanh nhìn sang phía giọng nói đó, thì nhìn thấy một đôi mắt đen láy. Trong lòng Địch Thanh chấn động, cả người lảo đảo, mới phát hiện ra có một cô gái đang ngồi ở góc xưởng rèn đó.
Hắn nhận ra cô gái đó .
Chính là cô gái sáng sớm nay đã giội cho hắn một chậu nước vào người, không ngờ lại có thể gặp được cô ấy ở đây.
Người con gái này ăn mặc quần áo đơn sơ, dung mạo bình thường, điểm đặc biệt duy nhất là nàng có thắt một dải lụa màu xanh ở bên hông.
Dải lụa màu xanh như nước biển, sạch sẽ.
Địch Thanh lúc này mới phát hiện cô gái này tuổi cũng không lớn, nhưng nàng luôn có vẻ lạnh băng lãnh đạm , khiến cho người khác không để ý đến tuổi tác của nàng, thậm chí cũng không để ý tới dung mạo của nàng.
Địch Thanh không hề biết, từ lúc hắn bước vào trong lò rèn này thì ánh mắt cô gái sáng như ánh nắng chiều này đã dừng lại trên người hắn. Hắn vốn không phải là người sơ ý như vậy, là cô gái đó quá mức yên lặng hay là cái mặt nạ kia làm cho tim con người ta đập loạn nhịp?
Địch Thanh nghĩ ngợi, quay đầu lại cười lẩm bẩm nói:
- Hóa ra là Chiến thần Hình Thiên… chả trách … Lão trượng đây tay nghề giỏi quá… Chiếc mặt nạ bằng đồng xanh này có bán không?
Cô gái đó lạnh lùng nói:
- Không bán.
Ông lão rèn sắt trách cứ:
- Phi Tuyết, không được vô lễ, Địch chỉ huy, nó nói đùa đấy, trẻ con không hiểu chuyện, nó bảo tôi rèn cái mặt nạ này cho nó, hôm nay tôi mới rèn xong. Phi Tuyết, nếu Địch chỉ huy đã thích thì bán cho hắn đi được không? Ngày mai ông nội sẽ rèn cho cháu một cái giống hệt như vậy?
Cô gái kia vẫn chỉ trả lời hai từ:
- Không bán!
Hai chữ chắc như đinh đóng cột, ai cũng có thể nghe ra ý kiên quyết của cô gái đó.
Ông lão hốt hoảng, chỉ nói được:
- Con bé này … con bé này … Địch chỉ huy, ngươi đừng trách nhé.
Địch Thanh thầm nghĩ: “Hóa ra cô gái này có tên là Phi Tuyết, không giống với tên của một cô gái thôn quê chút nào”, rồi cười nói:
- Không sao, ta chỉ hỏi thôi.
Hắn lại nhìn chiếc mặt nạ đó một cái rồi xoay người đi ra, tuy là hắn thích chiếc mặt nạ đó nhưng hắn sẽ không cướp đoạt những gì mà người khác thích.
Tuyết Phi thấy Địch Thanh phải đi, đột nhiên hỏi:
- Này … Địch Thanh, ngươi có biết Hình Thiên là ai không?
Địch Thanh dừng lại, sau một lúc lâu không nói, hắn đương nhiên là biết Hình Thiên là ai rồi, theo sử sách ghi lại: “Hình Thiên và Hoàng đế tranh giành thần, bị Hoàng đế tuyên chém đầu, chôn vùi trên núi Thường Dương, dùng hai bên ngực làm hai mắt, lấy rốn làm miệng.”
Hình Thiên không phải là người, mà là một vị thần đau khổ!
Hình Thiên mặc dù bị Hoàng đế chặt đầu, vẫn bất khuất thề sẽ tiếp tục đấu với Hoàng đế.
Địch Thanh biết mặt nạ kia đại diện cho Hình Thiên, cũng hiểu được tại sao mình lại thích mặt nạ đó đến thế, càng hiểu rõ hơn hàm ý chiến đấu bất khuất trên mặt nạ đó, cũng than thở về sự lột tả thần sắc của ông lão thợ rèn này.
Địch Thanh chỉ không hiểu vì sao cô gái kia lại hỏi vậy?
Phi Tuyết nói:
- Hình Thiên vung cán búa, chí lớn luôn mãi còn, ta thích Hình Thiên.
Địch Thanh xoay người nhìn về phía Phi Tuyết nói:
- Ta cũng rất thích Hình Thiên.
Hai tròng mắt Phi Tuyết sáng rực lên, giống như một ngôi sao băng hiện lên, nàng trịnh trọng lấy chiếc mặt nạ từ trên giá gỗ xuống, giọng điệu vẫn trong trẻo và lạnh lùng như trước nhưng trong đó lại hàm chứa sự chân tình:
- Đồ vật mà mình thích thì không nên bán, đúng không?
Địch Thanh gật gật đầu nói:
- Đúng vậy, nếu thực sự thích một vật gì đó thì dù bao nhiêu tiền cũng không bán, đồ vật mà mình thích không còn nữa thì sẽ mãi không bao giờ quay về cả.
Hắn có chút chua xót nhưng cũng là phát ra từ cảm xúc.