Nam tử cầm kiếm kia thấy Dương Phàm hỏi Liễu Quân Phan, nắm lấy trường kiếm sáng loáng đứng bên cạnh Dương Phàm, lại bị hắn coi như không khí, không khỏi giận tím mặt:
- Rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt!
Nói xong bổ kiếm về phía Dương Phàm.
Vừa rồi y không lập tức hạ sát thủ với Dương Phàm chỉ vì lo hắn mang theo thứ gì đó quý trọng trên người, hiện giờ Dương Phàm chọc giận y, sao còn mong y lưu tình.
Ở cái nơi như thế này, giết người còn dễ hơn giết một con chó. Giết người xong quăng ra vùng đất hoang, quan không truy, dân bất lực, không có bất kỳ hậu hoạn nào.
Nam tử cao gầy vừa giơ kiếm lên thì một nắm đấm to bay tới, bình một tiếng, mũi y trúng một đấm, ù ù không biết gì nữa.
Mấy người kia thấy Dương Phàm vừa khoát tay, người đàn ông cao gầy kia đã ngã xuống, mặt đầy máu tươi, xương mũi gãy vụn, hình dạng rất khó coi, không khỏi vừa sợ vừa giận. Lập tức có một người xông lên, thủ thế hắc hổ đào tâm, lách xuống dưới tay Dương Phàm, hạ thân xuống, hô một tiếng quét cước về phía Dương Phàm.
Dương Phàm thấy được đòn gió của gã, không nhịn nổi cười, không cần di chuyển, chỉ khuỵu đầu gối xuống một chút, thân mình trầm xuống, người nọ quét chân vào đùi Dương Phàm, thấy cứng như thiết trụ, đau đến kêu thảm, ôm chân co quắp. Lần này gã dùng sức không nhỏ, nhìn bắp chân sợ là đã bị gãy rồi.
Lúc này một người khác lấy dao nhọn từ trong tay áo ra, hung hăng xông tới đâm một dao vào ngực Dương Phàm. Hắn nghiêng người tránh, chân trái nâng lên, đá nghiêng, mũi chân đá trúng xương sườn của người nọ. Rắc rắc rắc, xương sườn gã đó gãy mất ba cái, máu tươi phun bắnvào bụi cỏ.
Còn lại hai người là Liễu Quân Phan và nam nhân thấp lùn thấy Dương Phàm lợi hại như vậy không khỏi hơi giật mình, Liễu Quân Phan chần chờ không dám tiến lên, nam tử béo lùn bị Dương Phàm liếc một cái, liền vung kiếm trong tay lên, kiếm quang sắc bén rít gào, hung hăng chém tới vai cổ Dương Phàm.
Kiếm quang bất ngờ xẹt tới, Dương Phàm có vẻ như không kịp né tránh, chỉ thấy kiếm quang lóe lên, chém thắt lưng của hắn thành hai đoạn. Liễu Quân Phan thấy vậy lòng mừng rơn, lại hơi tiếc nuối, trong mắt y, Dương Phàm hút chết như vậy đã là may mắn cho hắn, Liễu Quân Phan vẫn còn nhiều độc kế chưa cho hắn nếm thử đâu.
Nhưng người ra kiếm chậm hơn ảnh kiếm, huyết quang còn chưa bắn ra, tàn ảnh của Dương Phàm đã biến mất, thân hình hắn hiện ra cách xa hơn một trượng, lẳng lặng đứng đó. Tên mập lùn như thấy quỷ, sợ đến điên cuồng hét lên một tiếng, không lùi mà tiến tới, liều mạng vung kiếm, dồn hết can đảm chém từng nhát.
Dương Phàm lui lại, lui nữa, thở dài nói:
- Cái tên gàn bướng này, cái mạng của ngươi chỉ như nắm rau cải thối!
Kiếm trong tay gã mập lùn chợt lóe sáng, Dương Phàm đứng trên ngọn cỏ lau lao tới, bổ mạnh một chưởng lên cổ quả bí lùn. Một chưởng này Dương Phàm hạ thủ không chút lưu tình, cổ của quả bí lùn này gần như cái đầu nữa, ngắn tròn và béo, nhưng một chưởng này của Dương Phàm chém xuống, lại như khoái đao cắt dưa chuột, “rắc” một tiếng giòn vang, đầu quả bí lùn vẹo sang một bên, xương cổ của gã đã bị một chưởng này chặt đứt.
- Cứu mạng! cứu mạng!
Tiếng kêu gào thảm thiết vang xa tới hơn hai trượng, chỉ thấy bụi cỏ lay động kịch liệt, từng túm hoa cỏ lau bay lên, một đạo lãng tuyến trên bụi cỏ lau nhanh chóng lướt về hướng con sông.
Liễu Quân Phan bị dọa sợ phát điên rồi, ngàn vạn lần y không ngờ Dương Phàm lại có thể lợi hại như vậy. Y lừa gạt tìm được một con dê béo, tụ tập được mấy tên đồng bọn, vốn muốn mượn tay bọn chúng giết chết Dương Phàm, lại không nghĩ rằng tất cả huynh đệ đều bị người này chém đứt như bí gặp dao, thật sự là bị dọa sợ vỡ mật.
Liễu Quân Phan biết rõ kêu cứ ở đây sẽ không có ai, nhưng vẫn không kìm nổi kêu khóc, liều mạng chạy về hướng bờ sông. Nơi này cỏ lau cao hơn thân mình, phía trước um tùm cái gì cũng không thấy, chỉ có thể nghe tiếng nước chảy ào ào, y dùng hết sức bình sinh lao tới, cỏ lau quật vào mặt cào xước ngang dọc, y cũng chẳng quan tâm.
Liễu Quân Phan chạy trốn với tốc độ nhanh nhất có thể, hai chân như bánh xe, đạp lên bụi cỏ mở đường, chạy tới bờ sông lớn, chạy thêm bốn bước trên mặt nước rồi mới chìm xuống, bơi xuống hạ du theo dòng chảy xiết.
Dương Phàm đuổi tới bờ sông, nhìn bóng hình chìm nổi phía xa xa, đành từ bỏ. Hắn không thể đuổi nữa, thậm chí hắn cũng không có thời gian cứu người vừa bị đánh ngất để hỏi khẩu cung. Hắn không biết lần này Hoàng Cảnh Dung mang binh vào núi có thể ngang nhiên hạ lệnh tàn sát không, nếu trì hoãn thêm chút nữa, sợ rằng không kịp.
***
Đông Bình Ao giống như Đào Nguyên thôn, cũng là một thôn trang nhỏ các lưu nhân sống tập trung.
Quan viên tập trung lưu nhân triều đình đày tới ở đây để quản lý.
Những thôn trang nhỏ mà các lưu nhân tụ lại phần lớn đều ở nơi hoang vắng xa xôi, ngăn cách với thôn trang dân chúng bình thường, những nơi này không có phòng ốc đất đai cho bọn họ, nên chỉ có thể khai hoang chút ruộng, bới vài vườn rau, làm vài việc vặt, sản xuất đồ thủ công để đổi lấy vật dụng cần thiết trong cuộc sống.
Cuộc sống ở đây giống với thôn Đào Nguyên, nghèo khó mà trầm lặng, không có vinh hoa phú quý, nhưng cũng không có chuyện ngươi lừa ta gạt. Nhà tranh dựa vào thế núi hai bên mà dựng, cũng mang chút hơi hướm của thôn Đào Nguyên xưa kia. Nhưng hôm nay, sự thanh bình ở đây đã bị phá vỡ.
Một đám quan binh như lang như hổ vọt vào tiểu thôn, thô bạo đuổi các thôn dân ra khỏi phòng, khỏi sân, khỏi đồng ruộng, lùa đến tập trung trên mảnh đất trống trước thung lũng. Trong đám người có người già, có trẻ nhỏ, có phụ nữ, ít thấy nhất là nam tử thanh niên khỏe mạnh. Gia đình những người này đều mang tội mưu phản, trước khi sung quân, thanh niên trai tráng trong nhà đều bị chém đầu cả, những đứa bé năm đó giờ vẫn còn chưa lớn.
Quan binh cầm đao thương tới, như hung thần ác sát, La Thư Đạo đứng trên một tảng đá lớn trước cốc, hơi bất an xoa xoa hai tay, ngẩng đầu nhìn Hoàng Cảnh Dung đứng đằng trước, liếm liếm môi.
Trước thung lũng, các thôn dân ai nấy đều sợ hãi. Điều duy nhất bọn họ có thể làm là ôm chặt đứa con vào lòng, đem lại cho nó một tia an toàn le lói, nhưng ngay cả khuôn mặt bọn họ cũng lộ rõ vẻ hoang mang, không biết các quan binh đó muốn gì.
Bọn họ không biết đã có chuyện gì xảy ra, gia tộc của họ, hoặc cha anh họ, hoặc gia tổ, vì phản đối Thái hậu làm Hoàng đế mà đã bị chém đầu, cả nhà sung quân đày tới nơi đây. Bọn họ cho rằng mình đã sớm bị thế nhân quên lãng, chỉ có thể ở đây tự sinh tự diệt. Hiện giờ các quan binh đó tới đây làm gì?
Có vài người thông minh đã nghĩ đến Thái tử Lý Hiền. Lý Hiền đã bị chính mẫu thân đày đi sung quân ở Ba Châu, vài năm sau bà ta lạiphái Khâu Thần Tích tới ép phải tự sát. Chẳng lẽ chuyện này cũng xảy ra với mình sao? Huyết án Lĩnh Nam đó, trong tiểu sơn thôn này không ai biết, nhưng bọn họ đều cảm thấy sợ hãi.
Ngoài cửa cốc, mấy trăm người phụ nho lão ấu đều im lặng không dám phát ra tiếng động nào, gió thổi qua, tay áo lưu nhân phất phơ, sao thật giống cánh hoa trước gió.
Hoàng Cảnh Dung rất hài lòng với tình cảnh trước mắt, cho dù là ở thởi điểm phong quang nhất của Ngự sử đài, y cũng chưa từng có ý niệm nắm giữ sinh tử mấy trăm người. Cảm giác này thật quá mỹ diệu. Đây là quyền lực, là thứ quyền lực yêu kiều, quyến rũ người ta! Khó trách, Nữ hoàng giết cả con ruột vì ngai vàng. Đổi lại là y, y cũng nguyện ý.
Hoàng Cảnh Dung chắp hai tay sau lưng, ngạo nghễ đứng bên tảng đá, hưởng thụ sự sợ hãi, ánh mắt kính ngưỡng của mấy trăm người, ngây ngẩn một hồi mới ho khan một tiếng, nói:
- Các ngươi đều thân mang trọng tội mà bị sung quân. Vốn dĩ, tội của các ngươi đều đủ mất đầu, nhưng Thánh Thượng nhân từ mới mở một mặt lưới. Nhưng hiện tại có người tà tâm không chết, âm thầm cấu kết, kích động hương dân vô trí, có ý đồ tạo phản…
Cả đám người xôn xao, Hoàng Cảnh Dung đập hai tay, lạnh lùng nói:
- Yên lặng! Việc này bản quan đã nắm được chứng cứ xác thực. Bản quan còn biết, phản nghịch sắp động binh! Trong các ngươi có đồng đảng với bọn chúng! Vì kẻ phản nghịch đó, nên phải bắt các ngươi đi, trông coi giám sát. Đợi bản quan nhìn rõ mọi việc, không oan không sót, trong số các ngươi ai vô tội, bản quan sẽ phóng thích sau khi kiểm chứng…
Nghe Hoàng Cảnh Dung nói vậy, đám người lập tức an định lại. Không ai nghĩ triều đình sẽ giết một đám người già, phụ nữ, trẻ con một cách thẳng tay như thế, không ai nghĩ tới khâm sai triều đình phái tới sẽ nói láo.
Trong lòng Hoàng Cảnh Dung cười thầm, không phải y không muốn lập tức giết sạch đám lưu nhân này. Tuy nhiên, một vài quan viên địa phương và thủ lĩnh thổ ty còn chưa đưa đủ hiếu kính, y còn chưa vội đi. Còn nữa, thảm án Ngọc Sơn đã chấn động cả triều dã, hiện giờ điều tra án này, không thể không giả bộ. Nhìn một đàn dê đang đợi làm thịt, nụ cười của Hoàng Cảnh Dung càng thêm hòa ái.
Trên sườn núi, hai bóng dáng nho nhỏ nằm sấp. Chính là hai tỷ muội vừa trốn ra từ trong đám lau sậy. Bọn chúng nằm đó, kinh ngạc nhìn bà con bị vây trong thung lũng như một đàn dê, cố gắng tìm cha mẹ của mình trong đó.
- A nương, đệ thấy a nương rồi!
Tiểu hài tử đột nhiên chỉ vào đám người hô lớn, cái mông nhỏ nhún nhún, đứng lên chạy xuống núi.
- Hoán Hoán! Đừng cử động!
Tỷ tỷ kéo nó lại, ấn xuống, thấp giọng dặn dò:
- Không được xuống. Tỷ thấy quan binh này không giống người tốt.
Tiểu hài tử kinh ngạc hỏi:
- Vì sao? Bọn họ là quan binh, không phải cường đạo.
Tiểu tỷ tỷ nghiêm túc nói:
- Nếu quan binh tới phá phách còn đáng sợ hơn cả cường đạo! Trước kia, chúng ta ở trong một tòa nhà thật lớn ở trong Kinh thành, chính là bị quan binh đưa tới đây. Hiện giờ bọn họ không duyên không cớ vây người cả thôn lại, nhìn thế nào cũng là chuyện không tốt.
Hoán Hoán, đệ ngoan ngoãn nằm sấp ở đây, ngàn vạn lần không được nhúc nhích. Tỷ tỷ xuống đó tìm cha mẹ, nếu không có chuyện gì sẽ gọi đệ xuống. Nếu có chuyện gì, ngàn vạn lần đệ phải thoát ra. Thủy Mộc gia gia thợ săn sau núi rất quý đệ, nếu chúng ta bị người ta bắt đi, đệ phải đi tìm Thủy Mộc gia gia.
Tiểu tỷ tỷ nói dứt lời, đứng dậy chạy xuống núi. Bất ngờ một bàn tay lớn đặt lên vai nó, ấn nó nằm xuống.
Một giọng nói vang bên tai chúng:
- Cháu nói không sai, bọn họ là quan binh, nhưng đôi khi quan binh còn đáng sợ hơn cả cường đạo. Ít nhất khi không có lợi với chúng, cường đạo sẽ không giết người bừa bãi. Cường đạo sẽ không dễ dàng giết người nuôi mình! Cháu biết rõ như vậy, vì sao còn muốn xuống đó?
Phủ Lý Chiêu Đức đầy khách quý, họ đều là những học giả uyên thâm hoặc quan lại hiển đạt.
Tiếng đàn sáo hai bên nghe rất vui tai, Lý Chiêu Đức ngồi bên trên, mọi người chúc tụng nhau, rượu vào cùng những lời a dua nịnh hót, Lý Tể Tướng đã có phần ngà ngà say.
- Tướng công!
Một người đang cầm chén rượu đến trước mặt, Lý Chiêu Đức vuốt râu, thu đôi mắt say lờ đờ đang lướt trên người mấy vũ nữ đang nhảy múa như chim công kia lại, liếc nhìn lão, thấy bằng hữu tốt Nghiêm Thiện Tư liền nâng chén vừa cười vừa nói:
- Ha ha, lão Nghiêm, tửu lượng của lão vốn không khá mà hôm nay cũng uống đến mức hưng phấn như vậy, nào, tới ngồi cạnh ta, chúng ta cùng nhau uống một chén.
Nghiêm Thiện Tư là Quyền Hữu thập di, phụng sự trong nội cung, mặc dù là cận thần của Thiên Tử nhưng chức quan không cao, một gián quan dường như không có đất dụng võ trước mặt Thiên Tử uy phong như Võ Tắc Thiên. Tuy nhiên tài năng và học vấn của lão cực kỳ xuất chúng, trị kinh dụng điển, học thức uyên bác, vì thế mà giao du với Lý Chiêu Đức.
Nghiêm Thiện Tư ngồi xuống cạnh Lý Chiêu Đức, nhưng lão không vội uống rượu mà nói nhỏ vào tai:
- Tướng công, Thiện Tư nghe nói Ngự Sử Đài ở Lĩnh Nam đã tạo ra một vụ huyết án, giết hại hơn ba trăm nhân khẩu. Bọn chúng còn tâu với Hoàng Đế gì mà Lĩnh Nam có lời đồn “đại võ giả lưu”, tức là kẻ uy hiếp ngôi vị Hoàng đế chính là đám lưu nhân này, khiến cho Hoàng Đế rất sợ hãi, hiện giờ đám Ngự Sử Đài…
Lý Chiêu Đức giơ tay ra ngăn lão lại, cười nhạt một tiếng:
- Thiện Tư không cần phải nói, tại hạ đã biết rồi.
Lý Chiêu Đức hớp một ngụm rượu, nói với giọng căm giận:
- Đám người Ngự Sử Đài làm điều ngang ngược, tán tận lương tâm, những việc bọn chúng đã làm đúng là đều khiến dân chúng và quần thần cùng phẫn nộ! Khi tại hạ nghe được những việc làm độc ác của bọn chúng ở Lĩnh Nam đã không kiềm được cơn giận! Tuy nhiên lão không phải lo, bọn chúng gây ra tội ác đầy rẫy thì sẽ tự rước lấy cái chết mà thôi, tại hạ muốn xem bọn chúng còn hoành hành được bao lâu!
Nghiêm Thiện Tư lo lắng nói:
- Bọn chúng tạo thế như vậy, chỉ sợ Lai Tuấn Thần cũng sẽ tái nhậm chức ấy. Hoàng đế ở tít cung Cửu Trọng, tình hình dân chúng thế nào hoàn toàn dựa vào kẻ khác bẩm báo. Hoàng đế vẫn luôn sợ bóng sợ gió bọn mưu phản, giờ Lai Tuấn Thần làm cho khắp Lĩnh Nam đâu đâu cũng là phản tặc, rất khó bảo đảm rằng Hoàng đế sẽ tái bổ nhiệm y.
Lý Chiêu Đức cười ngạo nghễ:
- Vậy thì sao chứ? Phượng hoàng rụng lông không bằng chim, lão cho rằng Lai Tuấn Thần hiện giờ còn uy phong như trước kia sao? Hừ, án oan bọn chúng gây ra trong thiên hạ ngày càng nhiều thì những lời oán than của dân chúng càng lớn, Lai Tuấn Thần sống tạm ở Đồng Châu còn được, chứ nếu y tái nhậm chức thì vừa hay một mẻ hốt gọn!
Nghiêm Thiện Tư nhướn mày nói:
- Tướng công không được sơ suất, hành động này e rằng như đùa với lửa!
Lý Chiêu Đức đáp lại với giọng không vui vẻ lắm:
- Tại hạ tự sẽ suy xét!
Nghiêm Thiện Tư thấy thế đành im lặng không nói gì.
Phủ đệ của Lý Chiêu Đức nằm ở phường Lập Đức, bốn phía của phường bao quanh là nước, Dương Phàm đi từ Hoàng thành ra, men theo con đê dài Lạc Hà đi về phía bắc, vượt qua một chiếc cầu là tới phường Lập Đức.
Phủ đệ của Lý Chiêu Đức được sửa chữa lại sau khi lão nhậm chức Tể tướng, đó là một trạch viện môn đình rộng lớn, khí thế không hề tầm thường, chỉ cần bước vào phường Lập Đức, dò hỏi một chút thì không có ai là không biết phủ Lý Tể tướng ở đâu.
Giữa đường Dương Phàm bị Thái Bình công chúa ngăn lại, mặc dù hắn vẫn khăng khăng muốn tới Lý phủ nhưng đã bình tĩnh hơn rất nhiều, không còn điên cuồng chạy tới Lý phủ như lúc đầu, thấy trước cửa có rất nhiều xe ngựa đỗ ở đó, Dương Phàm cũng không nói gì, chỉ chăm chăm buộc ngựa vào cọc rồi sải bước lên bậc thềm, nắm lấy chiếc cốc đồng hình đầu thú ra sức gõ vào cửa.
- Thình thịch, thình thịch!
Dương Phàm gắng sức gõ, sau mấy tiếng gõ lớn bèn có người la ầm lên phía sau cửa:
- Ai đấy! Gõ mạnh như vậy đập bể cửa nhà người ta, ngươi có đền được không?
Cùng với giọng nói đó, cánh cửa hé mở, một khuôn mặt bực bội thò ra dò xét Dương Phàm từ trên xuống dưới, thấy gã còn trẻ tuổi, ăn vận cũng bình thường, không giống con nhà quyền quý gì cả liền tỏ vẻ kiêu căng, lười biếng giơ một tay ra nói:
- Lấy ra!
Dương Phàm trầm giọng nói:
- Lấy cái gì ra?
Tên đó không thèm đáp định đóng cửa, Dương Phàm giơ tay ra chống lại và quát:
- Ngươi làm gì đó?
Tên đó trợn mắt nói:
- Ngươi thẻ bài cũng không có, còn muốn vào phủ nhà ta? Đây là phủ Tể tướng, ngươi nghĩ là nhà nhỏ của kẻ nghèo hèn sao? Ngay cả thiệp bài cũng không có còn muốn gặp gia lang nhà ta, thật là nực cười! Mau cút đi, nếu không ta sẽ lôi đến nha môn cho ăn đòn.
Dương Phàm không giận mà còn cười nói:
- Tể tương môn tiền thất phẩm quan, quả thế. Dù gì bản quan cũng là quan ngũ phẩm đương triều, Hình bộ ti, ngươi dù có Thất phẩm thì cũng chẳng là gì, mau tránh ra.
(Tể tướng môn tiền thất phẩm quan: ý nói người trông cửa của nhà tể tướng có địa vị ngang với quan thất phẩm.)
Dương Phàm đưa tay đẩy, hai cánh cửa theo đó mở ra, tên môn tử bị cửa đẩy ngã lăn lông lốc, Dương Phàm sải bước đi vào, đám người hầu thị vệ và đám chăn ngựa của những quan lại đứng chờ trước cửa đều tròn mắt nhìn.
- Người đâu! Mau, có người xông vào phủ Tể tướng, coi trời bằng vung..
Tên môn tử nằm lì dưới đất không dậy, chỉ gào to khiến cho rất nhiều gia đinh nô bộc nghe thấy vội chạy ra, Dương Phàm cất giọng nói:
- Bản quan là Lang trung hình bộ Dương Phàm, có việc đại sự liên quan đến thiên tử muốn gặp Lý Tể tướng, ai dám cản ta!
Nói xong Dương Phàm giơ thẻ bài ra.
Ngư phù là vật chứng nhận thân phận của các quan lại, nhưng sau này không biết kẻ nào đã chạy đến trước mặt Võ Tắc Thiên ton hót rằng Võ thị đương triều, người luyện võ Huyền Vũ, tức là rùa trong Tứ tượng, vì thế đã bỏ Ngư phù và cho đúc Quy phù, khi đó rùa vẫn là một trong Tứ linh, là cát thú và thần thú trong truyền thuyết, không phải lời mắng chửi, vì thế thắt lưng mà các quan viên vẫn dùng đã đổi thành hình con rùa.
Đám hạ nhân trong phủ Tể tướng nghe nói hắn là quan viên Hình bộ, lại thấy thẻ bài nên biết thân phận hắn không phải là giả, hơn nữa còn nghe hắn nói nguy cấp như vậy cũng không dám cản, thế nhưng lại sợ tự ý để cho hắn vào sẽ khiến gia lang tức giận, vì thế đành phải như ong vỡ tổ lao theo hắn đi về phía nhà sau.
- Tướng gia, Vạn Vinh kính người một chén rượu.
Đám khách ở trong sảnh nhà sau, người thì làm thơ, kẻ giành lấy nhạc cụ trong tay các nhạc công để gảy, còn có người uống đến cao hứng, vừa múa vừa hát đi lên trên bục nhảy múa với đám ca kỹ, một đại hán khôi ngô cầm bát rượu tới trước mặt Lý Chiêu Đức đang vuốt râu vừa xem vừa cười.
Người này tên là Tôn Vạn Vinh, ăn vận và giọng điệu không khác gì người Hán, nhưng hắn ta lại là người Khiết Đan. Trước đây hắn ta từng lấy thân phận Đại Hạ Thị của Bộ tộc Thị Tử Khiết Đan tới Đại Đường làm chất tử , sinh sống trong thời gian dài ở Trường An và Lạc Dương, vì thế nói tiếng Hán rất tốt.
Hắn ta đã trở thành thủ lĩnh Đại Hạ Thị của Khiết Đan, được Đại Đường phong làm Hữu Ngọc Căng Vệ tướng quân, quy thành Châu Thứ sử, phong tước Vĩnh Lạc huyện công, là nước chư hầu của Đại Đường. Lần này hắn ta tới Lạc Dương bái cống, sau khi tiến cống sau đã cố ý đến chào Lý Chiêu Đức, muốn bái môn hạ Tể tướng, quan hệ một chút để thăng tiến trên con đường quan lộ.
Tôn Vạn Vinh ở Trung Nguyên nhiều năm như vậy cũng chẳng hề uổng công, sau khi hắn ta quay về bộ lạc và trở thành tù trưởng, hắn đã vận dụng những kiến thức đã học được ở Trung Nguyên để đưa Đại Hạ Thị ngày càng lớn mạnh, hiện đã có thực lực cạnh tranh vị trí cao nhất của Liên minh bộ lạc Khiết Đan.
Tù trưởng các bộ lạc của Khiết Đan đa số đều từng nhận qua chức quan từ Đại Đường lúc đầu hoặc Đại Chu Hoàng đế hiện giờ, phẩm cấp quan chức của các tù trưởng bộ lạc đều tương tự nhau, nếu hắn ta tiếp tục thăng quan, như vậy có thể chấn áp thủ lĩnh các bộ lạc khác, cơ hội giành được chức vị cao nhất trong Liên minh bộ lạc cũng sẽ tăng lên.
Khiết Đan là một nơi nghèo khó, không so được với Lâm Hạt của Hắc Thủy ở phía đông (Nữ Chân) có nhân sâm, lông chồn, đông châu v.v…, cũng không bì được Đột Quyết và Tây vực có các sản vật như châu báu nhiều màu sắc, vàng. Lần này nhân cơ hội tiến cống, để lấy lòng Lý Chiêu Đức, hắn ta đã chạy đông chạy tây để thu thập về mười con ngựa tốt, một trăm lĩnh da cáo, còn có một bộ áo giáp và yên ngựa bằng vàng làm từ Triều Tiên, một trăm viên đông châu vơ vét từ Lâm Hạt – Hắc Thủy và năm mươi gốc nhân sâm trên trăm tuổi.
Nhân sâm đã được nhân dân trong nước dùng từ lâu, trong chữ khắc trên đồ bằng đồng xanh của thời kỳ Ân Thương đã nhắc tới nó, khi ấy vật được đúc trên các dụng cụ thì có thể thấy được tầm quan trọng đối với mọi người thời đó. Trong “Thần Nông Bách Thảo kinh” cuối thời Chiến Quốc, nhân sâm cũng được kê là thuốc bổ thượng phẩm, Lý Chiêu Đức tuổi tác đã cao, các vật phẩm khác lão không để ý lắm, mà năm mươi gốc nhân sâm già này mới khiến lão thích thú.
Vừa thấy Tôn Vạn Vinh nâng chén rượu tới gần, nhìn lão bằng ánh mắt mong đợi, Lý Chiêu Đức đã hiểu ý của hắn ta liền cười nói:
- Đại Hạ Thị từ sau khi ngươi làm thủ lĩnh hàng tháng đều đến bái triều, năm nào cũng tiến cống, hữu hảo với Đại Chu ta, là tấm gương cho các bộ lạc khác, triều đình rất ngợi khen.
Những việc ngươi đã xin cứ yên tâm đi, bổn tướng sẽ tấu lên thánh nhân.
Tôn Vạn Vinh vui mừng khôn xiết, luôn miệng cảm tạ, nâng chén rượu nói:
- Vạn Vinh kính Tướng gia, chúc Tướng gia khỏe mạnh an khang, thọ tỉ Nam Sơn!
Lý Chiêu Đức cười ha hả, nâng chén rượu lên vừa định nhấp một ngụm thì nghe thấy những tiếng ồn ào hỗn loạn, đám ca kỹ đang múa hát trong sảnh và khách mời đều ngạc nhiên dừng lại, quay đầu ra nhìn. Lý Chiêu Đức nhướn mày, đặt chén rượu xuống với vẻ khó chịu, giận dữ quát:
- Chuyện gì mà hoảng sợ thế?
Đám đông trong sảnh rẽ sang hai bên, nhường chỗ cho một người đang đứng trước sảnh, đám đầy tớ trong phủ Tể tướng chần chừ không dám lại gần, chỉ có một tên lấy can đảm bẩm báo:
- A lang, người này tự xưng là Lang trung Hình bộ, có việc quan trọng bẩm báo A lang, không để cho tiểu nhân thông báo đã tự tiện xông vào.
Lúc này Dương Phàm mới chắp tay về phía lão, cương nghị nói:
- Lý Tể tướng, hạ quan có chuyện quan trọng bẩm báo, tới hơi gấp gáp, xin thứ tội cho hạ quan đã mạo phạm.
Lý Chiêu Đức mặc dù ngà ngà say nhưng tâm trí lại cực kỳ tỉnh táo, thấy Dương Phàm đứng sừng sững trong sảnh, hai đầu lông mày nhíu lại giận dữ, lão đã đoán được vì sao hắn tới, Lý Chiêu Đức xua tay nói với người hầu:
- Các người lui ra đi.
Sau đó lão từ từ đứng dậy, vừa cười vừa nói với đám đông khách khứa:
- Chư vị bằng hữu cứ ăn uống thỏa thê, chớ để mất hứng. Dương lang trung này đến có việc bàn bạc với tại hạ, tại hạ phải tới thư phòng, lát nữa sẽ lại tới nâng ly cùng chư vị bằng hữu.
Các vị khách của phủ Tể tướng lúc này mới chợt hiểu ra, mọi người đã vui vẻ thoải mái như trước, rối rít chắp tay, hùa nhau nói:
- Tướng công hôm nay nghỉ ngơi mà vẫn nhớ tới quốc sự, đúng thật là tấm gương mẫu mực. Tướng công cứ đi đi, không cần để ý tới bọn tại hạ.
Lý Chiêu Đức cười mỉm chắp tay với các vị khách rồi cất bước đi ra khỏi phòng, Dương Phàm cũng không nhiều lời, chỉ đi sát phía sau lão. Lý Chiêu Đức dẫn hắn rời khỏi hoa uyển, đi vào thư phòng, vừa bước vào lão đã đổi sắc mặt, vỗ bàn quát to:
- Dương Phàm! Ngươi thật to gan, hết lần này đến lần khác coi thường bổn tướng, mạo phạm cấp trên, ngươi nói xem lão phu không trị được ngươi sao?
Lý Chiêu Đức giận dữ nhưng không dọa được Dương Phàm, hắn đứng sừng sững ở đó, trầm giọng nói:
- Lý Tể tướng say rồi!
Lý Chiêu Đức giật mình, tức giận nói:
- Lão phu say hay không, liên quan gì tới ngươi?
Khóe mắt Dương Phàm ánh lên vệt máu căm hận, hắn gằn từng câu từng chữ:
- Uống máu người cũng say sao?