Nghe giọng nói dịu dàng của Dương Phàm, trái tim Cổ Trúc Đình lại run lên, nàng cắn môi, khẽ gật đầu, tựa như đóa “Dao dài Ngọc Phương” đang nở rộ trong viện kia yểu điệu trong gió.
- Vậy ngươi ngồi xuống trước nghỉ một lát, ta đi gọi người mang nước đến.
Cổ cô nương hơi lúng túng: - Ở…ở đây sao? Ta nghĩ cứ bảo dịch trạm chuẩn bị thêm một phòng nữa đi.
Dương Phàm nghĩ một lát, phản đối: - Như vậy không ổn! Chẳng ai biết trong dịch quán này có tai mắt của bọn họ không, ta và ngươi không thể làm bất kỳ việc gì có thể khiến họ nghi ngờ. Ta vừa nói với Lý quản sự rồi, bây giờ, để cho an toàn, ngươi cứ ở trong này đi.
Thấy sắc mặt nàng không được tự nhiên, hắn bật cười: - Có gì mà ngại, ngủ chung giường chúng ta cũng đã từng, nói gì đến cùng phòng?
Vừa dứt lời, hắn lập tức ý thức được mình lỡ miệng, vội vàng giải thích: - Khụ khụ. Ý ta là, ở đây, trong thư phòng cũng có một cái giường. Ta…ta sẽ ngủ ở đó.
Dứt lời, chẳng kịp để ý tới khuôn mặt đỏ như quả lựu của Cổ cô nương, hắn vội vàng đi ra ngoài. Tìm thấy một dịch tốt, hắn gọi y tìm người đến thu dọn bồn tắm, lại đổi nước ấm, dặn dò xong xuôi mới quay lại phòng khách, chỉ thấy Cổ Trúc Đình đang đứng bên cạnh bàn, tay cầm một cái tay gấu, hỏi: - Đây là tay gấu sao?
- Đúng thế. Ngươi chưa từng thấy bao giờ sao?
Nàng hơi hé miệng cười: - Mới chỉ thấy sau khi đã nấu lên thôi, chưa từng nhìn thấy đồ còn tươi. Nghe nói vật này là mỹ vị quý lạ, sao lại xấu thế này?
- Ăn ngon không chắc đã đẹp. Khi nào quay về Lạc Dương, ta sẽ kiếm một đầu bếp trứ danh nấu lên, cho ngươi nếm thử chút.
Cổ Trúc Đình thản nhiên cười: - A Lang hưởng với phu nhân đi thôi, nô tỳ cũng không dám phá hỏng quy củ. A, đây là cái gì?
Cổ Trúc Đình lại cầm thứ màu đỏ tím kia lên, hổ tiên dài như một con rắn lột da, tò mò hỏi: - Đây là rắn à?
Dương Phàm “A” một tiếng: - Là…là rắn, dùng để ngâm rượu, thông máu trừ hàn…
- Sao rắn không có đầu?
- Loài rắn này rất độc, chỉ cần dính một chút là chết ngay lập tức, nên phải bỏ đầu đi.
- Ở đây có thứ rắn kỳ quái đó ư? Sao trên này lại có nhiều móc câu như vậy?
Dương Phàm cười khan: - Thiên hạ to lớn, không gì là không thể. Nghe nói rắn này chỉ cần có được ngàn năm đạo hạnh là có thể hóa rồng, móc câu này sẽ biến thành vẩy rồng đấy. Ha ha, cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm đâu. Được rồi, mau cất đi.
Cổ Trúc Đình “Ồ” một tiếng, cầm hổ tiên như cầm kiếm, búng hai ngón tay nhỏ dài vào đôi ngọc hoàn, tự nhủ “Dài như vậy, thực tốn chỗ, chẳng còn chỗ nào cất rượu nữa” Dứt lời, nàng khẽ dùng lực, “rắc” một tiếng, hổ tiên đứt làm hai đoạn.
Dương Phàm lập tức thấy đau nhức hạ thân…
******
Quân phủ Đại Đường trải rộng khắp nước, khi nhiều nhất có tới hơn tám trăm phủ, ít cũng có hơn sáu trăm phủ, trong đó quan nội đã độc chiếm hai trăm sáu mươi mốt phủ, chiếm hơn ba phần trong tổng số phủ. Sau đó, Hà Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Lũng Hữu, các nơi khác cũng có quân phủ, giống như Giang Nam và Lĩnh Nam, tổng cộng cũng tới hai ba quân phủ. Bố cục như thế đã thể hiện ý đồ quân sự, chính trị “Cư trọng ngự khinh, cử quan trung chi chúng dĩ lâm tứ phương” của Đại Đường (Ưu tiên địa phương, rải rác, không ưu tiên tập trung)
Hà Nam Đạo là đông đô Đại Đường, cho nên, nơi này số lượng phủ quân gần bằng với Quan Trung, khi Võ Tắc Thiên dời đô đến Lạc Dương đăng cơ làm Hoàng Đế, quân phủ nơi này lại càng nhiều, chính là quán triệt sách lược quân sự “Nặng tay nhẹ chân” của Đại Đường. Tuy nhiên, đến thời điểm này, quân phủ đã dần suy yếu, mộ quân cũng tăng nhiều dần.
Ở phía bắc Duyên Châu, tiếp giáo với Tuy Châu phủ của Duyên Châu, lúc này còn có bốn phủ quân. Một phủ binh mã trú đóng ở phủ thành Tuy Châu tên là Phủ Quân danh, còn gọi là Tuy Châu Phủ quân. Phủ này, Chiết Xung phủ là thượng phủ, một ngàn hai trăm vệ sĩ, Đô úy Chiết Xung tên Sử Liệt.
Sử Liệt đã sáu mươi tuổi, là lão tướng từng cùng Cao Tông nam chinh bắc chiến, mở mang bờ cõi cho Đại Đường, lập nhiều công lao hiển hách. Hiện giờ, mắt thấy phủ quân ngày càng suy vi, lão Tướng quân vẫn thường mượn rượu giải sầu, tuy vẫn kiên trì luyện binh, dạy tướng sĩ công chiến, nhưng ông vẫn rất rõ ràng, chiến lực của phủ châu hiện giờ còn lâu mới có thể so sánh với năm đó.
Nhưng ông cũng không có cách nào khác, chế độ phủ binh là binh nông hợp nhất, binh nhàn làm nông, hiện giờ, quân điền tan vỡ, cái nền cơ sở của phủ binh đang dần biến mất. Hơn nữa, quốc gia thái bình đã lâu, nếu chẳng phải quân nhân chuyên nghiệp cũng chẳng thể duy trì được sức chiến đấu như khi còn thiên hạ đại loạn, tứ hải rung chuyển.
- Thực đáng tiếc…
Sử Liệt vuốt râu thả lỏng dần, không còn sự cường tráng của năm đó nữa, soi trong chén, nhìn tóc mai đã bạc, lão Tướng quân thở dài một tiếng, một ngụm rượu mạnh đổ vào bụng.
- Báo! Đô úy, Thứ sử tới rồi!
Một gã quân sĩ vội vàng chạy vào soái trướng của Sử Liệt bẩm báo. Ông ta kinh ngạc đứng lên, kinh ngạc hỏi: - Thứ sử? Thứ sử tới đây làm gì?
Tuy Sử Liệt đã ở Tuy Châu hai mươi năm, từ một binh tào tham bước tới vị trí Đô úy Chiết Xung, tổng cộng cũng chưa từng gặp Thứ sử bản châu dăm ba lần, hơn nữa, đều là đến châu nha gặp, chưa bao giờ thấy đến quân doanh.
Tuy Thứ sử có quyền tiết chế binh mã trong châu của mình, nhưng quyền hạn này gần như không có lúc nào dùng đến, hơn nữa, gần hai mươi năm qua, Sử Liệt cũng chẳng đánh được mấy trận chiến. Có mấy lần người Đột Quyết xâm chiến, quá cấp bách, lính của Sử Liệt cũng bị điều động, nhưng chỉ làm quân dự bị chạy đến bên cạnh khu đóng quân một chút, phía trước cũng đều có quân tinh nhuệ giao chiến với địch cả. Bọn họ thậm chí còn chưa đối mặt với một người Đột Quyết nào.
Sử Liệt còn đang kinh ngạc, chuẩn bị bước ra khỏi soái trướng đón chào, Thứ sử Tuy Châu Vân Cẩm Phàm đã một thân y quan nghiêm nghị đi tới, theo sau là vài người hoặc áo đen, hoặc áo bó. Sử Liệt vô cùng kinh hãi, vội vàng chạy ra chắp tay trước ngực thi lễ: - Sử Liệt ra mắt Sử quân!
Vân Cẩm Phàm ngưởi được mùi rượu, nhìn lên bàn, hơi nhíu mày, nhưng không phát tác gì, chỉ lạnh lùng hỏi: - Sử Tướng quân, triều đình có sứ giả đến, ngươi mau nghe lệnh!
- Hả?
Tuy Lão Tướng quân đã già, lại chưa từng đánh giặc suốt gần hai mươi năm, chí khí đã không còn, có phần hơi suy sút, nhưng vừa nghe vậy, chút men say đã lập tức biến mất, nhìn lướt qua đám người, ánh mắt dừng lại tại một thanh niên áo lót đứng cạnh Vân Thứ sử, trầm giọng nói: - Có ngư thư không?
Ngư thư chính là Ngư phù và sắc thư, đây là vật quan trọng để có thể điều binh. Mấy năm gần đây triều đình đã sửa ngư phù thành quy phù, nhưng khi hai người nói chuyện vẫn quen miệng gọi là ngư thư.
Vân Thứ sử run tay mở ra một sắc thư, trầm giọng nói: - Triều đình đã ban cho bản quan sắc thư, bản quan đã kiểm tra, không có sai lầm.
Vân Thứ sử dứt lời, quay sang nhìn thanh niên mặc áo bó kia, y hiểu ý, bèn tiến lên một bước, tay nâng một quy phù rực rỡ màu vàng: - Binh phù ở đây!
Theo như chế độ triều đình, điều binh cần đến sắc thư và binh phù, sẽ do quan Thứ sử chính ấn của châu phủ đó kiểm tra nghiệm chứng. Binh phù thì do tướng lĩnh của binh mã nghiệm chứng. Hai người đều xác nhận mới có thể điều động binh mã.
Sử Tướng quân vừa thấy quy phù, ánh mắt đã sáng lên lấp lánh. Ngày ngày cố thủ quân doanh, cho tới giờ vẫn chưa được đánh, đối với lão Tướng quân cả đời sống trên lưng ngựa mà nói chính là những tháng ngày dày vò nhất. Hiện giờ, vừa nhìn thấy binh phù, Sử Tướng quân kích động vô cùng, có phần hơi khó kiềm chế, quát to: - Người đâu, lấy binh phù!
Binh tào ở đó đã sớm theo vào trong soái trướng, nghe vậy liền hô to một tiếng: - Tuân lệnh! Y lập ức xoay người rời đi, không tới thời gian một nén hương, binh tào mang giáp trụ nhung trang hạng nặng được bốn gã võ trang đầy đủ hộ vệ tiến vào soái trướng, tay cầm hộp sắt. Sử Liệt dùng chìa khóa bên hông mở khóa hộp, lấy binh phù, ghép với binh phù thanh niên áo bó kia cầm, rất khít, không chênh chút nào.
Sử Tướng quân lập tức ôm quyền nói với thanh niên nọ: - Tuy Châu quân phủ Chiết Xung Đô úy Sử Liệt, xin tuân theo lệnh!
Thanh niên mặc áo bó kia lên tiếng: - Làm phiền Tướng quân rồi, việc này có quan hệ trọng đại, không thể để hở phong thanh. Kính xin Tướng quân tập kết binh lính dưới trướng theo ta đồng hành, tới nơi, ta sẽ báo với ngài lần này cần làm gì.
Thấy việc này cơ mật như vậy, lão lại khá hào hứng, vội vàng cúi người đáp ứng: - Xin tuân quân lệnh! Xin cho phép mạt tướng triệu tập binh mã!
Thanh niên mặc áo bó kia gật đầu. Một lát sau, trong đại doanh Chiết Xung phủ Tuy Châu lập tức nổi khói, khói đặc như trụ cuồn cuộn cuốn lên không tán, đây là lửa khói tín hiệu, khác với các cột khói khác, cột khói này chỉ có một, nghĩa là triệu tập tất cả quan binh trong doanh.
Lý Viễn Cường đang kéo một xe đầy hạt kê từ dưới thôn lên, xe kê chất cao như ngọn núi. Đứa con lớn đã mười sáu tuổi đang ra sức đẩy đằng sau, đứa con bé cũng giúp ca ca đẩy xe, nhưng nó mới bảy tuổi, vẫn ở tuổi ham chơi, thi thoảng vẫn chạy loăng quăng.
- Này con, năm nay thu hoạch xong, cha sẽ đi hỏi vợ cho con. Con thấy nhị nha đầu nhà Trần tam gia thế nào?
Biết rõ con trai mình và đứa con gái thứ hai của Trần gia có quan hệ khá tốt, Lý Viễn Cường cũng muốn thương lượng với bà nương bên đó cưới nàng về làm dâu. Năm nay thu hoạch khá tốt, tâm tình vui sướng, y bèn quay sang trêu đứa con.
Con trai lớn nhà Lý gia tính tình lại hay thẹn, cha vừa nói đã đỏ bừng hai má, qua xe kê cao như ngọn núi nhỏ, ấp a ấp úng đáp: - Con…con xin nghe theo cha an bài.
Lý Viễn Cường cười: - Tiểu tử thối này, chẳng lẽ lại không nghe cha! Xem cái bộ dáng sợ hãi của con đó, năm đó, cha thích nương con, nhưng gia gia của con đã trọn trúng khuê nữ của Bạch gia mở xưởng ép dầu ở thôn đông, cha đã…
Lý Viễn Cường còn chưa kể hết chuyện với con trai, đột nhiên nhìn thấy một cột khói cuồn cuộn ở phía xa xa, lập tức ngẩn ra, xe cũng dừng lại.
Đứa con lớn từ sau xe vượt lên, lau mồ hôi hỏi: - Cha, cha mệt rồi à?
Lý Viễn Cường nheo mắt nhìn cột khói xa xa, sắc mặt càng lúc càng nghiêm túc, đột nhiên vỗ đùi: - Con trai, ở đây trông xe, cha về thôn đây, lát nữa sẽ gọi nương và nhị thúc của con đến đẩy xe. Dứt lời, y vung hai chân chạy như điên về thôn.
Trong thôn, Mạnh Tông đang liên tiếp đập đậu một cách có tiết tấu, một người phụ nữ ôm bình gốm đổ nước cho y đột nhiên cảm thấy chân trời hơi có gì lạ, bèn che mắt nhìn theo, kỳ quái hỏi: - Cháy ở đâu mà lớn thế này. Khói lớn thế kia, không phải nhà Lưu lão tài chủ ở Nam Trang cháy chứ?
- Xoạch!
Một âm thanh vang lên, nàng quay đầu nhìn lại bên cạnh, Mạnh Tông Chính đã bỏ đồ chạy đi, bà vội vọi với theo: - Đương gia, chàng đi đâu đấy?
Mạnh Tông ở đằng xa đáp với lại: - Đại soái điểm binh! Đi trễ sẽ bị xử phạt bằng roi, nàng thu hoa mầu lại đi, cẩn thận đêm có mưa… Còn chưa dứt lời, y đã chạy biến ra khỏi sân.
Mấy ngày nay, Dương Phàm bộn bề nhiều việc.
Chuyện thường ngày quản lý quân doanh, tình hình tuần sát thủ vệ trong cung, cứ điểm bí mật của Thừa Tự Đường, ngồi tiếp chuyện lảm nhảm với mấy vị lão nhân Thiên Cữu Các, hẹn gặp thế lực của Thượng Quan thế gia ở trong Kinh, miễn cưỡng giữ liên lạc kết giao với Huynh đệ Trương Thị và Võ Tam Tư.
Chưa kể, trong khoảng thời gian này, Thiên Kỵ còn bận rộn gấp nhiều lần so với khi mới tổ kiến. Tuy phần lớn thời gian vẫn có thể về phủ nghỉ ngơi, nhưng cho dù ở trong phủ hắn vẫn phải xử lý liên tiếp từng việc nối từng việc, thường thường tới tận khi trăng lên đầu ngọn liễu mới có thể tắt đèn đến chỗ Tiểu Man hoặc A Nô nghỉ tạm.
Hôm nay, sắc trời đã muộn, Dương Phàm vẫn còn đang ở thư phòng.
Trên bàn đốt một chiếc đèn, úp lồng lụa trắng vẽ một cành mai vô cùng thanh nhã.
Dưới đèn có mỹ nhân quyến rũ như hoa ảnh.
Ngồi đối diện Dương Phàm là Cổ Trúc Đình. Mấy ngày nay nàng không nhận bất kỳ nhiệm vụ nào, chỉ ở trong hậu viện làm bạn với Tiểu Man và A Nô, nên xiêm y phục sức cũng thay đổi theo, một tấm áo lót lụa thêu hoa tinh tế nổi lên qua nền áo ngoài xanh nhạt.
Từ khổ đến sướng thì dễ, từ sướng đến khổ thì khó. Trước kia Cổ cô nương nào đã từng mặc xiêm y được may từ vải đắt tiền như thế, khi mới mặc vào xiêm y mềm mại như thế, vải tơ lụa chạm vào da thịt, nàng còn cảm thấy không được tự nhiên, nhưng bây giờ, bảo nàng mặc lại xiêm y vải thô đó, làm da mềm mại kia mới cảm thấy không thoải mái.
Không biết vì cả ngày ở hậu trạch không có việc gì nên có thời gian và tâm tình vẽ mày tô son, hay vì tối nay tới gặp Dương Phàm mà cố tình chú ý cách ăn mặc hơn. Cổ Trúc Đình dưới ánh đèn kiều mỵ đặc biệt.
Mùa hè áo mỏng, vải mềm, đường cong thân thể nàng lại càng mượt mà, làn da trắng nõn, thơm ngát tươi mát mọng nước như lê mới gọt, mái tóc đen óng ả búi lên, cài một cây trâm ngọc bích độc đáo thướt tha.
Khi đó, Cổ lão trượng hiểu lầm quan hệ giữa Dương Phàm và con gái, Cổ Trúc Đình hiểu rõ điều phụ thân suy nghĩ, vừa xấu hổ vừa tức giận. Chỉ có điều, tâm tư của nàng vẫn như hạt giống gieo trong một mảnh ruộng phì nhiêu, vốn chôn thật sâu, vẫn là chuyện mình mình biết, giờ bị phụ thân nói hết ra, lại thêm cha mẹ hai bên không những không phản đối mà còn có ý vui vẻ mong chờ. Chuyện này giống như xuân về hoa nở, đất hoang được khai hóa, nhận được bầu không khí mới mỏe, hạt giống nhỏ bé kia lặng lẽ nảy mầm.
Vốn chỉ là chút suy nghĩ le lói trong đầu, suy nghĩ này lại ngày càng rõ ràng dai dẳng không chịu đi. Nhất là, A Nô lại đang có mang, Dương Phàm vẫn thường xuyên ở lại đây chăm sóc nương tử. Cổ Trúc Đình vẫn thường nhìn hai người thưởng hoa trước trăng, hạnh phúc thỏa mãn, trong lòng cực kỳ hâm mộ.
Đêm nay, hắn gọi nàng tới gặp, tuy biết rõ không có chuyện tình tự gì nhưng trái tim nàng vẫn nhảy loạn. Tình yêu nam nữ, chính là một phần của sinh mệnh, áp lực càng lâu, một khi gây ra càng khó ngăn chặn.
Dương Phàm nhìn nàng, có lẽ đêm hè oi bức, gò má non ửng hồng rất xinh đẹp, không thể nhìn ra được người này là một nữ sát thủ bất kỳ lúc nào cũng có thể lấy mạng người ta.
Hơi do dự một lát, hắn mới lên tiếng:
- Ta nghe Cổ lão trượng nói, Đô đốc Kiềm Châu xưa kia Tạ Hữu có lòng hai chết Tào Vương, nhưng vì bị trả thù, nên đêm nghỉ trên lầu cao, bên ngoài bố trí tầng tầng cảnh vệ, trong bố trí giường lớn, sắp đặt hơn mười thị thiếp vờn quanh để phòng ngừa thích khách. Thế tử Tào Vương tung một khoản tiền lớn mời người, đêm tới ở trên cao lầu, tới khi trời sáng mới phát hiện thi thể của y.
Cổ Trúc Đình hơi bất ngờ, không biết vì sao đột nhiên hắn lại nhắc tới việc này, chỉ đáp:
- Vâng! Đó là chuyện từ mười bốn năm trước, lúc ấy nô gia mới phụng mệnh được điều tới Thừa Tự Đường làm việc, để tiết kiệm tiền làm việc, Tông chủ đã nhận một khoản tiền lớn của Thế tử Tào Vương, lệnh cho nô ám sát Tạ Hữu. Lúc ấy, cũng không phải chỉ có mình ta đi, chỉ có điều, duy có ta nhẹ nhàng mềm mại nên những người khác phối hợp tác chiến bên ngoài, để cho nô đi vào làm việc.
Dương Phàm vỗ tay:
- Đậu khấu mười ba bồ, có thể làm lớn như vậy thực sự rất giỏi.
Cổ Trúc Đình được hắn khen, khuôn mặt xinh đẹp lại càng ửng đỏ, nhẹ nhàng gục đầu xuống:
- Vì sao A Lang nhắc đến việc này?
Dương Phàm thở dài:
- Thực không dám giấu, hiện giờ ta có một đại sự cần vài người ra tay. Vốn định để vài vị huynh trưởng của ngươi đi, nhưng phụ thân ngươi có nói, công phu tiềm hành che giấu tung tích thì mấy vị huynh trưởng còn xa không bằng ngươi. Thực ra, việc này để cho mấy vị huynh trưởng của ngươi làm cũng đủ để hoàn thành, chỉ là, sự tình trọng đại, chỉ có nhất đẳng cao thủ mới dám chắc tuyệt không sai sót. Cho nên…hình như ta đã lỡ lời rồi.
Nàng ngẩn ra, kinh ngạc hỏi:
- Nói lỡ?
- Đúng! Ban đầu ta có nói, chỉ cần ngươi canh giữ ở hậu trạch, sẽ không ép ngươi phải xuất đầu lộ diện.
- Nếu tình thế cần thiết, xin ra sức vì A Lang! Vượt lửa quá sông tuyệt không chối từ!
Dương Phàm xua tay vội cười nói:
- Cũng không nghiêm trọng như vậy. Lần này gọi ngươi đi cũng không bảo ngươi giết người. Quan trường cũng có quy củ trong quan trường, không phải chỉ cần giết người là có thể giải quyết vấn đề, muốn giết cũng phải giết trong quy tắc quan trường mới được. Cần hiểu rằng, giết không phải mục đích, thắng mới là mục đích!
- Vâng! Hết thảy xin nghe theo A Lang chỉ bảo.
- Được! Vậy chuyện này sẽ giao cho ngươi. Để cho mấy vị huynh trưởng bên cạnh ngươi đi theo giúp đỡ.
Dương Phàm dặn dò Cổ Trúc Đình một lượt. Nàng ngẫm nghĩ một lát, lo lắng nói:
- Nếu A Lang dùng thủ đoạn như vậy, có sợ khiến cho Thẩm Mộc giận dữ không? Nếu trở nên cục diện không chết không thôi, ta lo…
Dương Phàm bật cười:
- Lúc trước ta đã đối địch với Khương công tử, A Nô lo ta không chịu nổi một kích. Hiện giờ Hiển Tông đã trong tay ta, ta đối địch với Thẩm Mộc, ngươi lại lo ta không chịu nổi một kích. Đến tột cùng là Hiển Tông mạnh hay Ẩn Tông mạnh? Hay là…các ngươi đều cảm thấy ta rất ngu xuẩn?
Cổ Trúc Đình thầm thở dài: Không phải người ta lo ngươi thành bại được mất. Chỉ là quan tâm ngươi thôi, nhưng ngoài miệng lại nói:
- Nô nào dám có ý coi thường A Lang, chỉ là nếu làm vậy sợ là sẽ chọc giận Thẩm Mộc, không thể giải hòa. A Lang nên chuẩn bị mới phải.
- Ta hiểu! Nhưng ngươi phải hiểu rõ, đây là một trận chiến, liên lụy tới cả quan trường thương trường. Bất kể là quan trường hay thương trường đều sẽ thay đổi trong nháy mắt, không thể lường tước, chỉ cần hơi không lưu ý sẽ bị loại. Nếu không có dũng khí tìm đường sống từ trong cái chết, không có thủ đoạn tỉnh táo quyết đoán, nhất định…
Gan càng lớn, tim phải nhỏ, ngoại phải nhu, nội phải cương, không thể chưa gì đã thể hiện cho người ta thấy là gan mình nhỏ. Khi cần lớn gan thì phải quyết đoán chiếm tiên cơ. Hôm nay là Ẩn Tông được voi đòi tiên, sinh dã tâm, phải để cho bọn họ biết được bản lĩnh của ta, cảm thấy được sự cứng rắn, mạnh mẽ và kiên quyết của ta, bọn họ mới có thể ngồi xuống mà nói chuyện tử tế.
Cổ Trúc Đình nghiêng đầu nghĩ lại, ánh đèn rọi trên khuôn mặt nàng vô cùng cuốn hút. Một lát sau, nàng khẽ mím môi cười rộ lên:
- Vâng! Ta sẽ nghe theo những gì A Lang chỉ bảo!
Dương Phàm tò mò hỏi:
- Ngươi cười cái gì?
Sóng mắt nàng lay động, đáp:
- Ta đang nghĩ tới chuyện A Lang phò Lư Lăng Vương vào Kinh. A Lang có dũng có mưu, trí kế bách xuất, đùa giỡn thích khách các nơi, cuốn loạn đám sát thủ bao vây. Dùng trí kế này, đương nhiên có thể ứng phó với cục diện trước mắt, ta lo lắng cũng là vô ích thôi.
Dương Phàm nghe vậy không nhịn được cười rộ lên. Hắn nào biết nàng bật cười vì thấy hắn rất thật thà giải thích với mình. Thực ra nàng chỉ là một thuộc hạ của hắn, bảo nàng làm gì nàng làm đó là được, cần gì phải giải thích cho nàng hiểu? Nàng cảm thấy, A Lang kiên nhẫn giải thích như thế, dường như không còn coi nàng là một thuộc hạ mà đối đãi, cho nên vui mừng.
- A Lang, khi nào thì ta xuất phát?
- Sáng sớm mai!
- Được! Vậy nô quay về chuẩn bị trước, A Lang… Mấy hôm nay quá vất vả rồi, cũng nên bảo trọng cho tốt.
Câu này vốn không nên do một thuộc hạ nói, coi như đã thoáng lộ ra tình ý của nàng. Cổ Trúc Đình như một con thỏ nhìn thấy chim ưng vội chạy ra ngoài.
Tình cảm của Cổ cô nương đối với hắn ngày càng tốt, trừ phi hắn là kẻ ngốc mới không phát hiện ra, nhưng trong nhà đã có kiều thê mỹ thiếp, hắn đã cảm thấy mỹ mãn, thực sự không có ý định mở rộng “hậu cung”. Đến nỗi, đối diện với tình ý ngày càng rõ ràng của Cổ cô nương, hắn còn có cảm giác như “Trong cảnh có thâm vị Muốn tả đã quên lời”
Đêm hôm đó, Dương Phàm ngủ lại trong phòng Tiểu Man, hai đứa con một trai một gái bướng bỉnh bị đưa tới chỗ bà vú. Hiện giờ hai tiểu tử kia đã quen với việc nếu phụ thân muốn ngủ trong phòng mẫu thân, thì mình phải thối vị nhượng quyền.
Nửa đêm mưa gió triền miên vài lần, trời vừa hửng sáng Dương Phàm đã đứng lên, đẩy cửa sổ, chỉ thấy trời đất trong xanh như vừa được gột rửa, làn gió tươi mát ùa vào, nhìn hoa hồng đỏ thẫm còn ướt, hắn kinh ngạc hỏi:
- Đêm qua trời mưa sao?
Tiểu Man kéo lại tấm chăn mỏng che bộ ngực trắng như sữa, lười biếng nói:
- Huynh ngủ như heo chết, nửa đêm sấm nổ to như vậy cũng không nghe thấy sao?
Dương Phàm cười ha hả:
- Thực sự là không nghe thấy. Đêm qua có sét à?
Tiểu Man hờn dỗi lườm hắn một cái, xoay người ném tấm lưng ngọc lại cho hắn:
- Đóng cửa sổ đi, người ta còn muốn ngủ thêm một lát!
- Ừ!
Ngẩng đầu nhìn sắc trời, hắn cảm thán:
- Trời âm u quá, chỉ sợ lát nữa sẽ lại mưa. Mát thì mát rồi, nhưng lo là đường sẽ khó đi.
Tiểu Man nghe vậy quay lại hỏi:
- Sao thế? Hôm nay huynh phải quay về quân doanh sao?
- Quân doanh đã lâu không tới rồi. Ta tới Hình bộ, lúc trước có nhờ Trần Lang trung một chuyện, giờ tới hỏi thăm xem thế nào. Sau đó sẽ vào cung đi tuần rồi về. Nàng ngủ tiếp đi.
Đóng kỹ cửa sổ, hắn mặc áo chỉnh tề ra ngoài. Bình thường sáng sớm Tiểu Man vẫn luyện công, nhưng hôm nay trời mưa, đêm qua lại bị lang quân dày vò một hồi, thực sự hơi lười, nên ngáp một cái rồi ngủ tiếp. Giấc ngủ vừa hơi kéo tới đã nghe có tiếng đứa con lớn ở bên ngoài kêu gào:
- Phụ thân! Trời mưa đấy, nước tràn ra khỏi ao rồi. Cóc nhảy lên bờ rồi, phụ thân dẫn con đi bắt cóc đi!
Có giọng Dương Phàm vang lên:
- Bảo bối của ta, phụ thân còn có việc phải làm, không thể đi bắt cóc với con được. Con đi tìm mẹ đi, mẹ bắt cóc giỏi lắm, một phát một con đấy.
- Nương!
Dương Niệm Tổ lập tức ngoan ngoãn rống lên.
- Cái tên bại hoại này! Thực sự là không thực lòng muốn để cho người ta ngủ mà!
Tiểu Man giật mình ngồi dậy, vừa mặc áo vừa hô:
- Tới đây tới đây, mẫu thân ra ngay đây. Con đừng có vào, nhanh đi tìm hộp đi, lát nữa chúng ta còn đựng cóc…
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Nghe giọng nói dịu dàng của Dương Phàm, trái tim Cổ Trúc Đình lại run lên, nàng cắn môi, khẽ gật đầu, tựa như đóa “Dao dài Ngọc Phương” đang nở rộ trong viện kia yểu điệu trong gió.
- Vậy ngươi ngồi xuống trước nghỉ một lát, ta đi gọi người mang nước đến.
Cổ cô nương hơi lúng túng: - Ở…ở đây sao? Ta nghĩ cứ bảo dịch trạm chuẩn bị thêm một phòng nữa đi.
Dương Phàm nghĩ một lát, phản đối: - Như vậy không ổn! Chẳng ai biết trong dịch quán này có tai mắt của bọn họ không, ta và ngươi không thể làm bất kỳ việc gì có thể khiến họ nghi ngờ. Ta vừa nói với Lý quản sự rồi, bây giờ, để cho an toàn, ngươi cứ ở trong này đi.
Thấy sắc mặt nàng không được tự nhiên, hắn bật cười: - Có gì mà ngại, ngủ chung giường chúng ta cũng đã từng, nói gì đến cùng phòng?
Vừa dứt lời, hắn lập tức ý thức được mình lỡ miệng, vội vàng giải thích: - Khụ khụ. Ý ta là, ở đây, trong thư phòng cũng có một cái giường. Ta…ta sẽ ngủ ở đó.
Dứt lời, chẳng kịp để ý tới khuôn mặt đỏ như quả lựu của Cổ cô nương, hắn vội vàng đi ra ngoài. Tìm thấy một dịch tốt, hắn gọi y tìm người đến thu dọn bồn tắm, lại đổi nước ấm, dặn dò xong xuôi mới quay lại phòng khách, chỉ thấy Cổ Trúc Đình đang đứng bên cạnh bàn, tay cầm một cái tay gấu, hỏi: - Đây là tay gấu sao?
- Đúng thế. Ngươi chưa từng thấy bao giờ sao?
Nàng hơi hé miệng cười: - Mới chỉ thấy sau khi đã nấu lên thôi, chưa từng nhìn thấy đồ còn tươi. Nghe nói vật này là mỹ vị quý lạ, sao lại xấu thế này?
- Ăn ngon không chắc đã đẹp. Khi nào quay về Lạc Dương, ta sẽ kiếm một đầu bếp trứ danh nấu lên, cho ngươi nếm thử chút.
Cổ Trúc Đình thản nhiên cười: - A Lang hưởng với phu nhân đi thôi, nô tỳ cũng không dám phá hỏng quy củ. A, đây là cái gì?
Cổ Trúc Đình lại cầm thứ màu đỏ tím kia lên, hổ tiên dài như một con rắn lột da, tò mò hỏi: - Đây là rắn à?
Dương Phàm “A” một tiếng: - Là…là rắn, dùng để ngâm rượu, thông máu trừ hàn…
- Sao rắn không có đầu?
- Loài rắn này rất độc, chỉ cần dính một chút là chết ngay lập tức, nên phải bỏ đầu đi.
- Ở đây có thứ rắn kỳ quái đó ư? Sao trên này lại có nhiều móc câu như vậy?
Dương Phàm cười khan: - Thiên hạ to lớn, không gì là không thể. Nghe nói rắn này chỉ cần có được ngàn năm đạo hạnh là có thể hóa rồng, móc câu này sẽ biến thành vẩy rồng đấy. Ha ha, cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm đâu. Được rồi, mau cất đi.
Cổ Trúc Đình “Ồ” một tiếng, cầm hổ tiên như cầm kiếm, búng hai ngón tay nhỏ dài vào đôi ngọc hoàn, tự nhủ “Dài như vậy, thực tốn chỗ, chẳng còn chỗ nào cất rượu nữa” Dứt lời, nàng khẽ dùng lực, “rắc” một tiếng, hổ tiên đứt làm hai đoạn.
Dương Phàm lập tức thấy đau nhức hạ thân…
******
Quân phủ Đại Đường trải rộng khắp nước, khi nhiều nhất có tới hơn tám trăm phủ, ít cũng có hơn sáu trăm phủ, trong đó quan nội đã độc chiếm hai trăm sáu mươi mốt phủ, chiếm hơn ba phần trong tổng số phủ. Sau đó, Hà Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Lũng Hữu, các nơi khác cũng có quân phủ, giống như Giang Nam và Lĩnh Nam, tổng cộng cũng tới hai ba quân phủ. Bố cục như thế đã thể hiện ý đồ quân sự, chính trị “Cư trọng ngự khinh, cử quan trung chi chúng dĩ lâm tứ phương” của Đại Đường (Ưu tiên địa phương, rải rác, không ưu tiên tập trung)
Hà Nam Đạo là đông đô Đại Đường, cho nên, nơi này số lượng phủ quân gần bằng với Quan Trung, khi Võ Tắc Thiên dời đô đến Lạc Dương đăng cơ làm Hoàng Đế, quân phủ nơi này lại càng nhiều, chính là quán triệt sách lược quân sự “Nặng tay nhẹ chân” của Đại Đường. Tuy nhiên, đến thời điểm này, quân phủ đã dần suy yếu, mộ quân cũng tăng nhiều dần.
Ở phía bắc Duyên Châu, tiếp giáo với Tuy Châu phủ của Duyên Châu, lúc này còn có bốn phủ quân. Một phủ binh mã trú đóng ở phủ thành Tuy Châu tên là Phủ Quân danh, còn gọi là Tuy Châu Phủ quân. Phủ này, Chiết Xung phủ là thượng phủ, một ngàn hai trăm vệ sĩ, Đô úy Chiết Xung tên Sử Liệt.
Sử Liệt đã sáu mươi tuổi, là lão tướng từng cùng Cao Tông nam chinh bắc chiến, mở mang bờ cõi cho Đại Đường, lập nhiều công lao hiển hách. Hiện giờ, mắt thấy phủ quân ngày càng suy vi, lão Tướng quân vẫn thường mượn rượu giải sầu, tuy vẫn kiên trì luyện binh, dạy tướng sĩ công chiến, nhưng ông vẫn rất rõ ràng, chiến lực của phủ châu hiện giờ còn lâu mới có thể so sánh với năm đó.
Nhưng ông cũng không có cách nào khác, chế độ phủ binh là binh nông hợp nhất, binh nhàn làm nông, hiện giờ, quân điền tan vỡ, cái nền cơ sở của phủ binh đang dần biến mất. Hơn nữa, quốc gia thái bình đã lâu, nếu chẳng phải quân nhân chuyên nghiệp cũng chẳng thể duy trì được sức chiến đấu như khi còn thiên hạ đại loạn, tứ hải rung chuyển.
- Thực đáng tiếc…
Sử Liệt vuốt râu thả lỏng dần, không còn sự cường tráng của năm đó nữa, soi trong chén, nhìn tóc mai đã bạc, lão Tướng quân thở dài một tiếng, một ngụm rượu mạnh đổ vào bụng.
- Báo! Đô úy, Thứ sử tới rồi!
Một gã quân sĩ vội vàng chạy vào soái trướng của Sử Liệt bẩm báo. Ông ta kinh ngạc đứng lên, kinh ngạc hỏi: - Thứ sử? Thứ sử tới đây làm gì?
Tuy Sử Liệt đã ở Tuy Châu hai mươi năm, từ một binh tào tham bước tới vị trí Đô úy Chiết Xung, tổng cộng cũng chưa từng gặp Thứ sử bản châu dăm ba lần, hơn nữa, đều là đến châu nha gặp, chưa bao giờ thấy đến quân doanh.
Tuy Thứ sử có quyền tiết chế binh mã trong châu của mình, nhưng quyền hạn này gần như không có lúc nào dùng đến, hơn nữa, gần hai mươi năm qua, Sử Liệt cũng chẳng đánh được mấy trận chiến. Có mấy lần người Đột Quyết xâm chiến, quá cấp bách, lính của Sử Liệt cũng bị điều động, nhưng chỉ làm quân dự bị chạy đến bên cạnh khu đóng quân một chút, phía trước cũng đều có quân tinh nhuệ giao chiến với địch cả. Bọn họ thậm chí còn chưa đối mặt với một người Đột Quyết nào.
Sử Liệt còn đang kinh ngạc, chuẩn bị bước ra khỏi soái trướng đón chào, Thứ sử Tuy Châu Vân Cẩm Phàm đã một thân y quan nghiêm nghị đi tới, theo sau là vài người hoặc áo đen, hoặc áo bó. Sử Liệt vô cùng kinh hãi, vội vàng chạy ra chắp tay trước ngực thi lễ: - Sử Liệt ra mắt Sử quân!
Vân Cẩm Phàm ngưởi được mùi rượu, nhìn lên bàn, hơi nhíu mày, nhưng không phát tác gì, chỉ lạnh lùng hỏi: - Sử Tướng quân, triều đình có sứ giả đến, ngươi mau nghe lệnh!
- Hả?
Tuy Lão Tướng quân đã già, lại chưa từng đánh giặc suốt gần hai mươi năm, chí khí đã không còn, có phần hơi suy sút, nhưng vừa nghe vậy, chút men say đã lập tức biến mất, nhìn lướt qua đám người, ánh mắt dừng lại tại một thanh niên áo lót đứng cạnh Vân Thứ sử, trầm giọng nói: - Có ngư thư không?
Ngư thư chính là Ngư phù và sắc thư, đây là vật quan trọng để có thể điều binh. Mấy năm gần đây triều đình đã sửa ngư phù thành quy phù, nhưng khi hai người nói chuyện vẫn quen miệng gọi là ngư thư.
Vân Thứ sử run tay mở ra một sắc thư, trầm giọng nói: - Triều đình đã ban cho bản quan sắc thư, bản quan đã kiểm tra, không có sai lầm.
Vân Thứ sử dứt lời, quay sang nhìn thanh niên mặc áo bó kia, y hiểu ý, bèn tiến lên một bước, tay nâng một quy phù rực rỡ màu vàng: - Binh phù ở đây!
Theo như chế độ triều đình, điều binh cần đến sắc thư và binh phù, sẽ do quan Thứ sử chính ấn của châu phủ đó kiểm tra nghiệm chứng. Binh phù thì do tướng lĩnh của binh mã nghiệm chứng. Hai người đều xác nhận mới có thể điều động binh mã.
Sử Tướng quân vừa thấy quy phù, ánh mắt đã sáng lên lấp lánh. Ngày ngày cố thủ quân doanh, cho tới giờ vẫn chưa được đánh, đối với lão Tướng quân cả đời sống trên lưng ngựa mà nói chính là những tháng ngày dày vò nhất. Hiện giờ, vừa nhìn thấy binh phù, Sử Tướng quân kích động vô cùng, có phần hơi khó kiềm chế, quát to: - Người đâu, lấy binh phù!
Binh tào ở đó đã sớm theo vào trong soái trướng, nghe vậy liền hô to một tiếng: - Tuân lệnh! Y lập ức xoay người rời đi, không tới thời gian một nén hương, binh tào mang giáp trụ nhung trang hạng nặng được bốn gã võ trang đầy đủ hộ vệ tiến vào soái trướng, tay cầm hộp sắt. Sử Liệt dùng chìa khóa bên hông mở khóa hộp, lấy binh phù, ghép với binh phù thanh niên áo bó kia cầm, rất khít, không chênh chút nào.
Sử Tướng quân lập tức ôm quyền nói với thanh niên nọ: - Tuy Châu quân phủ Chiết Xung Đô úy Sử Liệt, xin tuân theo lệnh!
Thanh niên mặc áo bó kia lên tiếng: - Làm phiền Tướng quân rồi, việc này có quan hệ trọng đại, không thể để hở phong thanh. Kính xin Tướng quân tập kết binh lính dưới trướng theo ta đồng hành, tới nơi, ta sẽ báo với ngài lần này cần làm gì.
Thấy việc này cơ mật như vậy, lão lại khá hào hứng, vội vàng cúi người đáp ứng: - Xin tuân quân lệnh! Xin cho phép mạt tướng triệu tập binh mã!
Thanh niên mặc áo bó kia gật đầu. Một lát sau, trong đại doanh Chiết Xung phủ Tuy Châu lập tức nổi khói, khói đặc như trụ cuồn cuộn cuốn lên không tán, đây là lửa khói tín hiệu, khác với các cột khói khác, cột khói này chỉ có một, nghĩa là triệu tập tất cả quan binh trong doanh.
Lý Viễn Cường đang kéo một xe đầy hạt kê từ dưới thôn lên, xe kê chất cao như ngọn núi. Đứa con lớn đã mười sáu tuổi đang ra sức đẩy đằng sau, đứa con bé cũng giúp ca ca đẩy xe, nhưng nó mới bảy tuổi, vẫn ở tuổi ham chơi, thi thoảng vẫn chạy loăng quăng.
- Này con, năm nay thu hoạch xong, cha sẽ đi hỏi vợ cho con. Con thấy nhị nha đầu nhà Trần tam gia thế nào?
Biết rõ con trai mình và đứa con gái thứ hai của Trần gia có quan hệ khá tốt, Lý Viễn Cường cũng muốn thương lượng với bà nương bên đó cưới nàng về làm dâu. Năm nay thu hoạch khá tốt, tâm tình vui sướng, y bèn quay sang trêu đứa con.
Con trai lớn nhà Lý gia tính tình lại hay thẹn, cha vừa nói đã đỏ bừng hai má, qua xe kê cao như ngọn núi nhỏ, ấp a ấp úng đáp: - Con…con xin nghe theo cha an bài.
Lý Viễn Cường cười: - Tiểu tử thối này, chẳng lẽ lại không nghe cha! Xem cái bộ dáng sợ hãi của con đó, năm đó, cha thích nương con, nhưng gia gia của con đã trọn trúng khuê nữ của Bạch gia mở xưởng ép dầu ở thôn đông, cha đã…
Lý Viễn Cường còn chưa kể hết chuyện với con trai, đột nhiên nhìn thấy một cột khói cuồn cuộn ở phía xa xa, lập tức ngẩn ra, xe cũng dừng lại.
Đứa con lớn từ sau xe vượt lên, lau mồ hôi hỏi: - Cha, cha mệt rồi à?
Lý Viễn Cường nheo mắt nhìn cột khói xa xa, sắc mặt càng lúc càng nghiêm túc, đột nhiên vỗ đùi: - Con trai, ở đây trông xe, cha về thôn đây, lát nữa sẽ gọi nương và nhị thúc của con đến đẩy xe. Dứt lời, y vung hai chân chạy như điên về thôn.
Trong thôn, Mạnh Tông đang liên tiếp đập đậu một cách có tiết tấu, một người phụ nữ ôm bình gốm đổ nước cho y đột nhiên cảm thấy chân trời hơi có gì lạ, bèn che mắt nhìn theo, kỳ quái hỏi: - Cháy ở đâu mà lớn thế này. Khói lớn thế kia, không phải nhà Lưu lão tài chủ ở Nam Trang cháy chứ?
- Xoạch!
Một âm thanh vang lên, nàng quay đầu nhìn lại bên cạnh, Mạnh Tông Chính đã bỏ đồ chạy đi, bà vội vọi với theo: - Đương gia, chàng đi đâu đấy?
Mạnh Tông ở đằng xa đáp với lại: - Đại soái điểm binh! Đi trễ sẽ bị xử phạt bằng roi, nàng thu hoa mầu lại đi, cẩn thận đêm có mưa… Còn chưa dứt lời, y đã chạy biến ra khỏi sân.