Con thuyền mục còn có ba cân đinh, ý của ba cân đinh này chính là chỉ Tụ Nghĩa Đường của bọn họ.
Những năm gần đây, Thuận Tự Môn rất vất vả, năm sau không bằng năm trước, cái gì có thể bán cũng bán rồi, có thể làm được gì cũng làm rồi, duy nhất còn một thứ ra dáng là Tụ Nghĩa Đường này, từng cây cột lớn hai người ôm tuy đã bong hết nước sơn nhưng vẫn vững vàng chống đỡ điện phủ rộng lớn này.
Tụ Nghĩa Đường xây vào thời Tùy Văn Đế này hiện giờ không còn gì dư thừa, ngoại trừ vô số tọa bình ước chừng do ba mươi sáu tấm bình phong khổng lồ tạo thành. Tọa bình đã vô cùng cũ kỹ, nhưng hoa văn điêu khắc tinh xảo khéo léo, bức tranh Trường Giang và Hoàng Hà sinh động, mơ hồ còn có thể nhìn ra được khí thế của đại sảnh có thể chứa hơn trăm vị anh hùng hào kiệt này.
Cổ Trúc Đình được hai gã đệ tử của Thuận Tự Môn dẫn vào Tụ Nghĩa Đường, trong nội đường trống rỗng chẳng có ghế chủ, chỉ có hai hàng ghế dựa hướng về tam tọa, có vẻ hơi quá lạnh lẽo rồi.
Người ngồi trên ghế khách là Lý Hắc và Nghiêm Thế Duy, từ cách ăn mặc của hai người hiển nhiên họ đã ngụy trang, đương nhiên bọn họ có cách tránh được ánh mắt của người trong trấn, lẳng lặng lẻn vào Tụ Nghĩa Đường bí mật thăm hỏi.
Vừa thấy Cổ Trúc Đình tiến vào, hai người liền vội vàng đứng dậy, ôm quyền nói:
- Chào Cổ cô nương!
Chào xong, hai người nhìn nhìn Cổ Trúc Đình đánh giá, thấy bộ dáng của nàng, ánh mắt cả hai không dấu được sự kinh ngạc. Có lẽ theo bọn họ, cho dù là một nữ tử lấy một địch trăm cũng nên là thân cao hai trượng, sức mạnh như ngựa, nắm tay đủ to để có người đứng trên đó nhảy múa được, không ngờ lại là một nữ nhân yêu kiều như thế. Tuy dáng người nàng khỏe mạnh, đi lại nhẹ nhàng, hai đầu lông mày đều có chút anh khí, nhưng bộ dáng này, so với vị nữ anh hùng có thể đánh được trên dưới trăm người của Giao Long hội tới hoa rơi nước chảy có chênh lệch thật lớn.
- Chào Hắc gia, Nghiêm gia. Mời hai vị tiền bối ngồi!
Cổ Trúc Đình mời hai vị ngồi xuống, lại tự mình ngồi đối diện, cười khanh khách:
- Ta còn tưởng rằng ngày mai hai vị tiền bối mới đến, không ngờ đêm nay đã tới rồi, không đón tiếp từ xa xin thứ tội, thứ tội.
Nghiêm Thế Duy biết nàng đang cười nhạo mình, chỉ có thể xấu hổ cười cười. Đột nhiên Lý Hắc nghĩ đến chuyện gì, thất thanh nói:
- Ngày mai? Hay là…hay là đêm nay có chuyện gì xảy ra?
Nàng cười nhạt:
- Không biết nếu Văn Bân còn sống, Hắc gia và Nghiêm gia có thể làm Hội chủ Giao Long hội không? Hoặc giả các ngươi có nguyện ý gánh thanh danh của vị chủ nhân trước không? Nếu các ngươi không thể hay không muốn, vậy tiểu nữ tử nên ra tay làm giúp giảm bớt phiền toái cho các ngươi.
Lý Hắc và Nghiêm Thế Duy nhìn nhau hoảng sợ. Chẳng lẽ đêm nay thiếu Hội chủ cũng sẽ vô cớ mà chết? Nghĩ tới khả năng này, ngay cả người từng trải như Lý Hắc cũng thấy đầu đau như muốn nổ tung.
Đôi mắt sáng của Cổ Trúc Đình đảo sang, thản nhiên đáp nói tiếp:
- Ha ha, đây đều là mấy chuyện nhỏ không đáng kể, không nói đến việc mấy vị tiền bối có đồng ý hay không, chắc hẳn cũng có suy tính về đề nghị ban đầu của ta. Không biết hai vị tiền bối quyết định thế nào?
Lý Hắc kinh hãi, chậm rãi đáp:
- Cổ cô nương, nếu chúng ta gật đầu, hơn hai ngàn huynh đệ của Giao Long hội cũng sẽ ngồi chung trên chiếc thuyền của cô nương, về sau cũng phải nhờ cô nương nhường cho mọi người một bát cơm rồi. Cô nương có nên giao ra một chút không? Nếu không, nhỡ chuyện bại lộ, hai người chúng ta cũng không biết giải thích với các huynh đệ trong bang thế nào.
- Hắc gia và Nghiêm gia thẳng thắn như vậy, bổn cô nương cũng nên công bằng!
Cái eo nhỏ của Cổ Trúc Đình khẽ lắc một cái, nàng nhanh nhẹn đứng lên, vỗ tay ba cái, cất cao giọng gọi:
- Mời Độc Cô tiên sinh tới gặp khách nhân!
******
Thấy ánh mắt của mọi người trên trấn đầy cảnh giác, Dương Phàm lập tức bước chậm lại muốn tìm một nhà trọ để ở lại.
Trên phố rực rỡ ánh đèn, người đến người đi, phòng ốc, hàng rong, cửa hàng chen chen lấn lấn lòng đường chật cứng, từ trong cửa hàng hai bên đường, vô số những lá cờ quảng cáo nhô ra nhẹ nhàng phơ phất qua khăn vấn đầu của hắn.
Vài người từ phía trước chậm rãi lại gần đột nhiên hấp dẫn sự chú ý của Dương Phàm.
Một người trong số đó có dáng người rất cao, mặc một trường bào màu trắng rộng thùng thình như áo ngủ, trên vai còn khoác một chiếc áo choàng thật dày, trên đầu đội một khăn vuông màu trắng, dùng một chiếc vòng kim loại cố định lại, vừa thấy đã nhận ra chính là một người Đại Thực.
Hai người đi theo sau lưng gã hẳn là hộ vệ, các võ sĩ đó ăn bận đơn giản, bên ngoài nội y chỉ là một chiếc áo khoác ngắn tay mỏng quấn lấy một tấm vải bố màu nâu, trong tay cầm theo một thanh kiếm nhỏ, thân kiếm không có vỏ, chỉ cuốn một lượt vải rách.
Đại thực nhân áo bào trắng mặt lồm xồm râu ria hết nhìn đông lại nhìn tây, tựa như rất tò mò với người trong trấn Bá Thượng, xem ra cũng là người mới đến. Đột nhiên, từ trên tầng hai của một tiểu lâu, một chậu nước xuống dưới chân gã, khiến cho bùn bắn tung tóe bẩn cả tấm áo choàng trắng.
Mấy tên vệ sĩ nổi giận lập tức ngẩng đầu, như hai con chó trung thành thấy chủ nhân bị tổn thương, bèn nhe răng nanh, từ trong họng gầm lên nhè nhẹ uy hiếp, người Đại Thực áo trắng kia cũng nổi giận ngẩng đầu, nhưng ánh mắt tức giận lập tức lại biến thành vẻ vui sướng.
Trên cửa sổ là một nữ nhân thân thể trần truồng, từ chỗ đứng của Dương Phàm có thể nhìn thấy thân hình lõa lồ của nàng.
Nữ nhân nọ hoàn toàn không cảm thấy thẹn thùng với thân thể lõa lồ của mình, hình như chỉ có vẻ hơi lạnh. Đổ nước xong, nàng cất chậu gỗ, vươn tay đóng cửa, khẽ cong eo, hai bầu ngực đầy đặn rũ xuống càng to hơn.
Dương Phàm đã biết nữ nhân này là ai. Trong trấn này có rất nhiều kỹ nữ, các kỹ nữ chỉ chuyên tâm làm vừa lòng các thủy phu thủy thủ chẳng có cấp bậc gì, tướng mạo của nữ nhân này rất bình thường, dáng người còn hơi béo, tuy nhiên nàng có một làn da trắng nõn.
Thương nhân Đại Thực nọ ngẩng dầu, cao hứng phấn chấn:
- Xem nào, xem nào. Xem ta nhìn thấy cái gì đây. Làn da trắng nõn kia như bạc đặt trong mâm sứ, lại giống như một con linh dương trắng giữa cánh đồng trống. Khuôn mặt nàng đẹp như trăng tròn, bộ ngực đầy đặn lớn như hai tảng đá…
Không thể tưởng được Đại thực nhân này lại nói được tiếng Trung Nguyên, chỉ là phát âm hơi lạ, cũng vẫn lộ ra một chút khẩu âm của người ngoài. Nữ nhân trên lầu ló đầu ra, rất dũng mãnh mắng một câu:
- Quỷ dạ xoa, lăn trứng của ngươi đi, lèo nhèo lải nhải cái gì!
Đằng sau áo choàng của gã hương nhân Đại Thực kia phất phơ chui ra một tiểu quỷ tóc vàng mắt xanh, không cao lắm, chỉ chừng mười hai mười ta tuổi, chống nạnh nhảy lên chỉ tay lên lầu kêu gào:
- Hắc! Vị phu nhân này, mắt ngươi không có tròng hả? Ba Sĩ Lạp lão gia nhà chúng ta là thi nhân nổi danh nhất, thơ của ngài khiến cho vô số quý phụ nhân điên cuồng, lời ngài nói như trân châu đặt trên mâm…
Mặc dù nữ nhân trên lầu chỉ là một kỹ nữ làm công việc kinh doanh da thịt giá rẻ, có thể chữ nàng cũng không biết, nhưng thi từ thì nàng vẫn có thể đánh giá và thưởng thức được, nàng chỉ dùng một từ, thể hiện hết sự đánh giá của mình về thi từ của vị đại gia này:
- Phì!
Nữ nhân đóng cửa rầm một cái, thương nhân Đại Thực kia nhìn theo bóng dáng nữ nhân chớp một cái đã biến mất sau cánh cửa mà nổi hứng làm thơ:
- A! Ánh mắt tức giận của nàng tựa như đom đón trong đêm, cái bụng tức giận đến run rẩy của nàng giống như bong bóng cá bạch. Nàng ưu nhã xoay người rời đi, như cái mông của con linh dương đang giãy dụa…
Tiểu quỷ tóc vàng chụm hai tay thành hình trái tim, con mắt xanh xinh đẹp cong lên, vô cùng say mê ca ngợi:
- A! Thơ thật êm tai! Thơ thật duyên dáng! Tựa như ánh bình minh đầu tiên của sáng sớm, tựa như từng giọt sương đọng trên lá cây, a…
Đại khái là vị đại thi nhân đến từ đất nước xa xôi rất thích có người phối hợp đọc diễn cảm thơ cùng mình, gã vừa ngâm thơ vừa hoa chân múa tay. Một gã say từ trong tiểu quán bên cạnh đi ra bị gã lừ một cái, gã say kia nổi giận vung tay tát một cái, quát mắng:
- Con mẹ nó, mày không có mắt hả?
Đại thi nhân chật vật lùi lại, nổi giận với tên say:
- Ngươi dám hạ nhục ta? Dám làm nhục A Bặc Đỗ Lạp tôn quý? Sa Hách Mạn, đánh. A Tề Tư, đánh. Con mẹ nó! Chỉ có lừa mới quen để cho người ta làm nhục, là một vị tiên sinh tôn quý, một người tự do, cho dù có là một con lạc đà cũng không nhịn được giận.
Gã say kia đang loạng choạng muốn tránh ra, nghe vậy bị chọc cười, trừng lớn đôi mắt lờ đờ đỏ quạch vì rượu liếc người Đại Thực này, lớn miệng nói:
- Ngươi…. Cái tên quỷ Hồ này, đánh rắm gì mà lắm thế? Ngươi…ngươi muốn gì?
Thi nhân nọ uể oải sửa lại buộc tóc bị đánh xộc xệch, nói lời chính nghĩa:
- Sói sẽ không tấn công người có chó bảo vệ, đối mặt với cường nhân mạnh như sư tử cũng chỉ có kính sợ. Ta. A Bặc Đỗ Lạp tôn quý. Sa Hách Mạn, đánh. A Tề Tư, đánh. Vì sự tôn nghiêm của Cáp Mỗ tiên sinh, sẽ cùng ngươi quyết đấu! Ngươi xuống địa ngục đi!
Đại thi nhân vừa dứt lời, mấy tên võ sĩ lập tức chùng vai xuống, thắt lưng hơi cong lại theo tư thế chuẩn bị tấn công, đồng thời nhe ra hai hàm răng trắng, tiếng rống trầm thấp từ trong cổ gầm lên, tay nắm chặt chuôi kiếm hình trụ dài bên hông.
- Ơ, ôi, ngươi…ngươi muốn quyết đấu với ta?
Con ma men kia nhìn hai bên, che tay lên miệng la lớn:
- Có một con quỷ Hồ muốn tìm phiền toái với Tam Hà Hội ta. Các huynh đệ, lên….
Rầm rầm, từ trong tửu quán, trong các cửa hàng, vô số người ùa ra đường, ngay cả tiểu thương bán quán bên đường cũng có vài người nhảy ra, chặn kín hai bên đầu đường. Võ sĩ người Hồ khoác áo vải bố cũng không chút e ngại, vẫn trợn trắng mắt, cố gắng trợn to mắt hung ác hơn nữa.
Nhưng hình như đại thi nhân lại bị giật mình kinh hãi, vẻ tức giận của gã nhanh chóng dịu lại, kiêu ngạo nói:
- Tha thứ cho người, An Lạp sẽ tha thứ cho ta. Ta không chấp nhặt với kẻ mọi rợ ngươi. Chúng ta đi thôi, A Bạt Tư.
Thi nhân gọi người hầu tóc vàng một tiếng, xoay người muốn đi, nhưng cả đường phố đều bị người của Tam Hà Hội chặn lại chẳng còn đường ra, gã say kia khoanh hai tay đứng bên cạnh lạnh lùng cười.
Vẻ ngạo mạn cung kính của vị thi nhân Đại Thực nảy quả thực khiến cho người ta buồn cười. Dương Phàm cố nhịn cười, bước lên trước, lên tiếng:
- Huynh đệ cùng bang đương nhiên nên bảo vệ lẫn nhau, tuy nhiên, vì chút tranh cãi không đáng có mà gây chiến thì không nên. Ức hiếp người xứ khác cũng không phải thanh danh tốt đẹp gì!
Cây ngô vốn đang xanh, sau một cơn gió đông thổi qua, cây lúa trong ruộng rạp xuống, bông lúa nặng trĩu không ngừng gật gật.
Ngô lúc này vẫn chưa chín hẳn, nhưng trong giới hạn vụ thu, nông phu sẽ không đợi khi ngô chín vàng óng mới thu gặt, khi đó lúc chín mà thu gặt sẽ mất đi rất nhiều hạt, để mất đi lương thực sẽ bị trời đánh đấy.
Mọi nhà nông cả trai lẫn gái, già trẻ đều cùng ra hái, khom người, không nhanh không chậm cắt thành đường, trước sau đều cao như nhau giống như là được dùng thước để đo số lượng vậy.
Đám nhỏ choai choai đi theo sau, buộc từng bó ngô được cắt thành bó chỉnh tề, sau đó ôm tới để lên xe, bọn họ nhất định phải cầm thật nhẹ, để tránh hạt bị rơi ra. Khi cha mẹ quay lại nhìn, nếu như thấy đám trẻ buộc sơ sài rồi ném lên xe, hẳn là sẽ rất đau lòng mà mắng chúng một trận.
Người giàu thì có xe bò, xe trâu bánh gỗ lớn, ngô chất đầy thành đống, lóc cóc đi trên con đường đất vàng bị lún sâu xuống, hán tử cầm roi đánh xe đi theo xe, ưỡn ngực ưỡn bụng, vừa đi vừa vui vẻ hát một bài trẻ con: "Nghe thấy tiếng hát vọng đến, cả người nhiệt huyết nhào bên bệ cửa sổ lạnh lẽo..."
Người bần cùng hơn thì phải nhờ nhân lực kéo xe, một người đàn ông khỏe mạnh đi trước kéo xe, tóc tết quấn khăn trên đầu, giống như hai cái sừng trâu màu trắng ở trên đỉnh đầu, sức lực khỏe mạnh như con trâu, đứa bé đi theo sau, khi xuống dốc thì reo hò chơi đùa, khi lên dốc thì ra sức đẩy mông cha mình để giúp.
Trong thôn có từng cái sân rộng thoáng đãng, được dùng đá lớn lăn đi lăn lại san bằng từ lâu, bóng loáng như gương. Hoa mầu được thu gặt trải ở trên sân, có người đang dùng dụng cụ tuốt hạt ngô, ngô và quả đậu được phơi nắng vàng giòn, bảy tám người dùng dụng cụ tuốt hạt đứng thành một hàng, tuốt hạt đều nhịp như ca hát.
Còn có người chạy đuổi vài con trâu để nó giẫm lên hoa mầu đã được trải trên nền đất, hạt kê và hạt đậu liên tiếp rơi bóc ra, thóc và đậu mở vỏ, từng hạt nhẵn bóng rơi trên đất, lương thực tràn đầy được quét gom lại một chỗ, lại dùng mẹt để hất bụi đất cho sạch.
Đây là một thôn của huyện Lâm Chân Duyên Châu. Mười người ăn mặc khác nhau ngồi nghỉ dưới bóng cây tại sân phơi, đang cười cười nói nói nhìn người nông đập, rê thóc, từ trang phục của những người này cho thấy họ không phải là người trên thị trấn, nghe nói họ đến từ thành Lạc Dương nơi ở của Hoàng đế, muốn đi biên giới phía tây để mua da lông của người Phiên.
Trong thôn có rất nhiều người cả đời cũng chưa từng rời khỏi phạm vi thôn mười dặm, họ ngay cả tên của thành thị là Lạc Dương cũng không biết, chỉ có Lý chính lão gia kiến thức rộng rãi nói cho họ nghe thì mới hiểu đó là cái gì. Lý chính lão gia hàng năm đều phải đi vào trong huyện thành, từng gặp nhiều người ở chợ lớn.
Người trong thôn tuy rằng thiếu kiến thức, nhưng lại chất phác thiện lương, đãi khách nhiệt tình. Nghe nói những người này là cùng ở trong một tòa thành với Hoàng đế, người nông dân lập tức mang chút kính sợ đối với những vị khách quý này, những hán tử cho dù bình thường có tục tằn thì trước mặt những người khách này đều câu nệ, sợ có gì không phải sẽ khiến người ta chê cười.
Nhưng chỉ cần những vị khách này đi xa, là họ lại khôi phục lại vẻ thong dong. Một người đàn ông kia đang dùng roi đập nhẹ lên lưng trâu, xua đuổi vài con trâu đang giẫm loạn lên hoa mầu đầy đất, hát: “Tiếng bò rống tiếng bò rống, hay hay hay, hay đến là hay, nào đến đây, nào đến đây...”
Ai có thể tưởng tượng, gã vừa bị một vị khách nhân tuấn tú hơn cả nữ nhân, làn da mềm mại trơn bóng hơn cả mông của em bé gọi lại thì mặt lập tức đỏ bừng lên. Lý Chính họ Trần, tên là Trần Đại Sơn, há miệng cười lộ ra hàm răng hàm khè cười nói với Trương Xương Tông:
- Các quý nhân đừng để ý tới hắn, đều là những nông dân không có kiến thức.
Thương nhân ở Lạc Dương không coi là có địa vị, nhưng trong mắt lão thì đều là Đại quý nhân, huống chi những quý nhân khẳng khái vô cùng, ở trong thôn nghỉ chân một chút thôi mà tiện tay tặng bọn họ rất nhiều đồ vật này nọ, mặc dù những thứ này ở trong quý nhân thì chẳng đáng là gì.
Bên cạnh thanh niên tuấn tú đẹp hơn cả nữ nhân kia là một người đàn ông cũng cực kỳ anh tuấn, hắn ngồi trên một cái đôn gỗ, cười dài nói với Trần Đại Sơn:
- Trần lý chính, năm nay thôn của ông thu hoạch tốt nhỉ.
Trần Đại Sơn mặt mày hơn hở:
- Cũng không phải đâu, nhiều năm trước thì không được như này, nhưng mấy năm nay thổ địa gia gia phù hộ, mưa thuận gió hoà đấy, thu hoạch năm này luôn cao hơn năm trước, cuộc sống ngày càng tốt lên.
Trương Xương Tông thản nhiên nói:
- Thuế má nộp lên trên phải đợi nhóm lương thực này đập xong thì mới có thể giao lên đúng không?
Trần Đại Sơn mờ mịt:
- Hả? Quý nhân nói gì?
Vị quý nhân này nhìn không dễ nói chuyện như vị quý nhân kia, khi cùng hắn nói chuyện làm cho Trần Lý chính có chút khó chịu, cảm giác vị quý nhân này mặc dù địa vị có vẻ nhỏ, nhưng lại còn uy phong hơn cả Đại lão gia trong huyện. Lão đã từng gặp Huyện Đại Lão gia, đó là lần đi vào thành giao lương thực, đúng lúc gặp Huyện thái gia mở đường thẩm vấn, lão chen chúc trong đám đông nhìn từ xa.
Dương Phàm cười nói:
- Chính là địa tô.
Trần lý chính bừng tỉnh đại ngộ nói:
- Ồ! Quý nhân nói địa tô a, đúng vậy, nhóm lương thực này phải đập ra thì mới giao ra đấy, trong thôn chúng ta đã thu một lứa mạch rồi, nhưng quan phủ không muốn thu mạch, chỉ lấy kê và hạt kê, lúa mạch thì chúng ta ăn, những hạt kê này sau khi đập xong thì nộp tô thuế, còn dư thì đổi chút dầu muối.
Thời tiết này, cây nông nghiệp chủ yếu của phương bắc là kê, và hạt kê, có một vài địa khu đủ nguồn nước cũng có lúa. Lúa mạch là giống ngoại lai mặc dù cũng là ruộng cạn thu hoạch, so với kê, hạt kê thì điều kiện tưới tiêu rất cao. Hơn nữa lúc ấy bột mì gia công nghiệp lạc hậu, bình thường mọi người đem lúa mạch và gạo kê trộn với nhau nấu để ăn, vị không ngon, cho nên người nghèo khổ mới dùng mạch để ăn.
Khi đó làm quan ăn mạch cơm sẽ được coi là thanh liêm; đứa con trong lúc giữ đạo hiếu ăn mạch cơm là thể hiện sự đau buồn cung kính, nếu có người đem cơm kê cho mình ăn còn để bề trên ăn cơm mạch thì sẽ bị mắng là bất hiếu. Địa vị lúa mạch trong hệ thống lương thực ở Trung Quốc là hậu kỳ trong triều Minh mới xác lập, bởi vậy lúc này quan phủ thu thuế vẫn lấy hạt kê là chủ yếu, lúa mạch chỉ để nông dân tự dùng ăn.
Dương Phàm và Trương Xương Tông liếc nhau, hơi cười hỏi tiếp:
- Ồ, trong thôn các ngươi có bao nhiêu mẫu đất, một năm chưa phải nộp tô thuế bao nhiêu?
Sau khi hiểu biết về quá trình thu hoạch và nộp tô thuế của dân trong thôi, Dương Phàm và Trương Xương Tông liền dẫn người rời khỏi, đây là thôn thứ tư họ đến thăm rồi.
Dương Phàm và Trương Xương Tông sau khi nhận được mật lệnh của Hoàng đế đã an bài một cách tỉ mỉ cẩn thận.
Tuy nói hai người đều là nhân vật quyền quý tầng cao nhất trong Tam Dương cung, nhưng trong chưa chắc là có tai mắt của Ẩn Tông, nhưng vì phòng ngừa vạn nhất, họ vẫn an bài để che mắt mọi người. Dương Phàm biến mất khỏi Lạc Dương là tìm kiếm giám sát tình hình nước đi, chuẩn bị báo cáo thiên tử nơi nước rút. Tin tức này chỉ giới hạn những nhận vật thượng tầng biết, có ba người nếu như muốn nghe được tin tức thì cũng có thể do thám là biết.
Lúc này thành Lạc Dương giống như tòa thủy thành, khắp nơi đều có quan phủ đang giải quyết hậu quả, vô cùng lộn xộn, cho dù có người nghe được tin tức muốn phái người đi theo dõi Dương Phàm, ít nhất kẻ đó cũng phải có bản lĩnh tìm được Dương Phàm trước. Về phần Trương Xương Tông biến mất thì đơn giản hơn, gã vốn là sống ở trong cung vua, ngoại thần chẳng có mấy người gặp gã bao giờ, ngoại trừ cung nga thái giám bên cạnh Hoàng đế ra thì nào ai biết gã không ở trong cung?
Sau khi Dương Phàm và Trương Xương Tông bí mật rời khỏi Tam Dương cung, lập tức chia thành nhiều đường, ngoại trừ hai người đi đường này ra, còn có mấy lộ đều là nghi binh, phân chia đi các hướng Tuy Châu, Duyên châu, Đan Châu, Đồng Châu. Nhưng điểm cuối cùng tụ hợp vẫn là Duyên Châu, theo thời hạn tính toán thì lúc này bọn hắn cũng nên tập trung tại đây rồi.
Dương Phàm trước khi xuất phát còn phái người đi thông báo cho Cổ Trúc Đình, bảo bốn huynh muội nàng từ Phu Châu tới Duyên Châu, đây là phụ tá đắc lực của hắn, thời khắc mấu chốt đương nhiên là phải giữ bên cạnh rồi. Về phần bên Phu châu kia đã không có gì để điều tra nữa, cứ để cho đám tham quan đó tạm thời đắc ý đi.
Dương Phàm vốn là khi điều tra Đan Châu và Phu châu, thủ đoạn dùng là vừa âm thầm vừa công khai, nửa chính thức nửa giang hồ, nhưng khi hắn phát hiện Duyên Châu phủ có người đứng sau bức màn đen, vậy thì không thể không cẩn thận được. Trước lực lượng tuyệt đối, hết thảy âm mưu quỷ kế đều không có đường để thi triển, lúc này hắn dùng phương pháp xử lý đơn giản nhất thô bạo nhất là có thể đạt được mục đích.
Chỉ cần hắn có thể xác nhận vụ án Duyên châu tồn tại, bắt giữ đám tham quan bản địa này, tìm hiểu nguồn gốc, thì đám quan lại bên Phu châu đã không còn cách nào để che giấu được nữa.
Địa khu phương bắc và tây bắc vốn là trọng điểm kinh doanh của Ẩn Tông, bọn họ tất nhiên là có muôn vàn quan hệ với quan phủ địa phương, vụ án long trời lở đất này nhất định sẽ tạo thành đả kích nặng nề với bọn họ. Bởi vậy, vừa đả kích tham quan ô lại, vừa đả kích thế lực Ẩn Tông, có thể nói là một công đôi việc.
Trong xe, Trương Xương Tông bị kích động nói:
- Dương tướng quân, mấy địa phương này mấy năm liên tục được mùa thu hoạch, dân chúng hàng năm đủ số nộp thuế, nhưng triều đình lại không thu được một hạt cơm thuế má nào, lại còn hàng năm nhận được tấu chương báo thiên tai của Tạ thứ sử xin giúp đỡ, đây rõ ràng là giả mạo thiên tai còn gì, chúng ta có thể ra tay bắt người được chưa?
Dương Phàm mỉm cười gật đầu:
- Phụng thần thừa nói rất đúng, chúng ta nên động thủ rồi!
Trương Xương Tông một đường bôn ba, mặc dù có người hầu hạ,nhưng ăn mặc chi phí, xe đi lại, ăn uống nhưng vẫn thấy vô cùng cực khổ, gã vốn tưởng rằng ra khỏi kinh thành thú vị vô cùng, lúc này mới thấy thật sự chẳng thú vị chút nào. Duy nhất khiến gã có thể chống đỡ đến nay là trò chơi đóng giả thanh quan đi bốn phía bắt người.
Hiện giờ Dương Phàm đã đồng ý dụng binh, Trương Xương Tông vui mừng như điên, lập tức kéo mở một hộc ở vách tường. Bức tường kép bí ẩn liền được mở ra, Trương Xương Tông lấy từ trong hốc tường kép ra một hộp sắt nặng trịch để lên bàn.
Mở hộp ra, bên trong được lót bằng tấm vải lụa vàng, có mười hai ô vuông độc lập, trước là sáu ô vuông, sau là sáu ô hình chữ nhật, đối xứng lẫn nhau. Trong các ô vuông đều có một con rùa nằm sấp vàng rực rỡ, tổng cộng có sáu con rùa, trong các ô dài đối xứng, có một quyển giấy màu trắng tinh, được thắt bằng lụa vàng.
Quy là Quy phù, giấy là sắc mệnh.
Dựa vào hai vật này là được điều binh khiển tướng, khơi lên một trận gió tanh mưa máu!