Gã say trừng mắt nhìn Dương Phàm:
- Ngươi muốn làm cái gì? Chuyện Tam Hà Hội trấn Bá Thượng đến khi nào thì đến lượt…
Còn chưa nói hết câu gã đã bị một thanh niên chừng ba mươi tuổi kéo ra, xem ra người này thực sự có thân phận ở Tam Hà Hội, vừa ra mặt đám người Tam Hà Hội lập tức im bặt, gã say kia quay lại thấy y cũng lập tức câm miệng.
Đánh giá Dương Phàm một hồi, thấy hắn một thân một mình đứng giữa vòng vây mà sắc mặt vẫn thản nhiên không chút khiếp đảm, ánh mắt y không khỏi hơi khác đi. Từ khi Giao Long liên tục gặp chuyện không may, hiện giờ các bang phái ở Bá Thượng đều đã thần hồn nát thần tính, người này không phải người Bá Thượng, thân bị vây trong vây ngoài mà vẫn thong dong, trong lòng y cũng thêm vài phần kiêng kỵ.
Y nhìn Dương Phàm, ngoài cười nhưng trong không cười:
- Vị huynh đệ kia nói rất đúng. Chỉ là tranh cãi nhỏ thôi, thực sự không nên gây chiến. Mọi người giải tán đi, ai về nhà nấy thôi.
Người này vừa nói một câu, đám người Tam Hà Hội đứng quanh đó lập tức giải tán, những bang phái khác đứng xem náo nhiệt thấy hai bên không đánh nhau nữa cũng đều tự giải tán đi, vừa đi vừa quay lại nhìn nhìn, thấp giọng bàn luận, hiển nhiên đều đang suy đoán thân phận của Dương Phàm.
Viên quản sự Tam Hà Hội kia liếc Dương Phàm một cái thật sâu rồi cũng xoay người rời đi. Đại thi nhân nhè nhẹ thở ra, vỗ ngực ưu nhã bái tạ Dương Phàm, tươi cười chân thành nói:
- Rất hân hạnh được biết ngươi, tiên sinh phương đông rất tao nhã mà đầy phong độ, ta là A Bặc Đỗ Lạp, Sa Hách Mạn, A Tề Tư. Có thể thỉnh giáo đại danh tiên sinh chứ?
Dương Phàm cười cười:
- Ta họ Mộc, tên Mộc Dịch. Ngài là tiên sinh A… A gì ấy nhỉ?
Đại Thi Nhân hiểu ý cười cười:
- Các bằng hữu vẫn gọi ta là A Bặc Đỗ lạp, Mộc tiên sinh cũng có thể gọi ta như vậy.
Dương Phàm gật đầu:
- Tiên sinh A Bặc Đỗ Lạp, làm việc nên cần cẩn thận, không nên dễ dàng gây chuyện. Ngươi phải biết, dân bản xứ luôn bênh vực dân bản xứ. Tốt rồi, ngươi còn đang có việc, tại hạ cáo từ.
- Không không không, Mộc tiên sinh, ta rất thích ngươi. Ngươi đồng ý trượng nghĩa tương trợ, ngươi có đạo đức cao thượng, ngươi giúp ta, hẳn ta nên báo đáp ngươi. Xin cho phép ta dùng vài món ngon để khoản đãi vị bằng hữu tôn quý này, thể hiện lòng biết ơn của A Bặc Đỗ Lạp ta.
Tiểu quỷ tóc vàng A Bạt Tư nhảy ra rất đúng lúc, hát đệm theo chủ nhân:
- Khẳng khái hiếu khách chính là di phong tổ truyền của chủ nhân ta.
Dương Phàm lắc đầu cười:
- Đa tạ ngươi, tiên sinh A Bặc Đỗ Lạp. Ăn cơm thì không cần, ta mới đến Bá Thượng, muốn tìm một chỗ trọ để ở lại.
A Bặc Đỗ lạp vui vẻ nói:
- Vậy cũng thực khéo, ta cũng vừa mới đến trấn cũng mới ở đây, nhà trọ ta đang ở là nhà trọ tốt nhất. Mộc tiên sinh đến ở cùng ta đi. Đi đi, ta rất vinh hạnh được dẫn đường cho ngươi.
A Bặc Đỗ lạp không nói gì, kéo Dương Phàm bước đi, vừa đi vừa thổi phồng:
- May mà Mộc tiên sinh đã giải vây cho ta, nếu không, bên ta nổi giận nhỡ chẳng may làm ai đó bị thương sẽ có quan phủ đến kiếm chuyện với ta. Ngươi phải biết rằng, ta vừa thông minh lại dũng cảm, ta còn có kiếm thuật xuất chúng siêu quần..
Tiểu quỷ tóc vàng A Bạt Tư lại nhảy ra khoe:
- Sát thủ của chủ nhân ta đã từng giết hơn mười ngàn kẻ địch, đốt cháy lều trại của địch, cướp lạc đà và nữ nhân của chúng, cướp được cả vàng bạc của chúng. Trên thân thể chủ nhân ta có hơn một ngàn vết sẹo, đều là vết thương khi chiến đấu, máu của chủ nhân ta đã chảy còn nhiều hơn nước con sông kia…
Đám người Nhâm Uy dắt ngựa đi theo sau, nghe vậy chỉ biết ngơ ngác nhìn nhau. Dương Phàm nhìn A Bặc Đỗ Lạp, hơi bất ngờ:
- Hóa ra tiên sinh A Bặc Đỗ Lạp là một vị võ sĩ anh dũng?
Thực ra hắn muốn hỏi vị đại thi nhân này có phải là một mã tặc hay cường đạo không? Vì theo như sự tích mà tôi tớ của gã khoe thì khá giống đám mã phỉ trong sa mạc Tây Vực. A Bặc Đỗ Lạp khiêm tốn khoát tay:
- Không không không , ta là một vị thương nhân, một vị thương nhân giàu có.
Tiểu quỷ tóc vàng lại nói leo:
- Chủ nhân của ta là một đại thương nhân bán tất cả mọi thứ, là một dũng sĩ bách chiến bách thắng, là một thi nhân nổi danh thiên hạ, là…
A Bặc Đỗ Lạp cười híp mắt:
- Được rồi, được rồi, tiểu tử lắm mồm, yên tĩnh một chút đi, ta muốn nói chuyện với Mộc tiên sinh tôn kính.
Dương Phàm không biết ở nước Đại Thực, thơ ca có một dòng là thơ khen, cho dù là khen người hay khen mình cũng không chút đỏ mặt mà dùng những lời khoa trương nhất và giọng điệu diễn cảm nhất mà khen. Bình thường lúc này sẽ có một nô lệ mồm miệng lanh lợi được sủng ái nói đệm theo.
Đây là thói quen mà các quý nhân giàu có ở Đại Thực được nuôi từ nhỏ thành quen chứ không phải tự làm trò trước mặt Dương Phàm. Chỉ là, vì giọng điệu của gã quá khoa trương, nghe như một vị lão bằng hữu đang khoác lác trước mặt, hắn cũng không thấy phản cảm.
Dương Phàm vừa đi vừa nói:
- Không biết A Bặc Đỗ Lạp tiên sinh kinh doanh cái gì?
A Bạt Tư lập tức nhảy ra, chen miệng nói leo:
- Chủ nhân của ta bán tất cả mọi thứ…
A Bặc Đỗ Lạp trừng mắt với nó, híp mắt cười với Dương Phàm:
- Chủ yếu ta kinh doanh các loại hương liệu, châu báu quý báu, chăn lông xinh đẹp và nô lệ từ các quốc gia, bán đến phương Đông thì chủ yếu là nữ nô. Lần này ta bôn ba ngàn dặm vốn là muốn tới Trường An, nhưng lúc trước người dẫn đường bị bệnh, phải đổi một người dẫn đường khác lại không quen đường lắm, kết quả, y dẫn chúng ta tới ngã ba đường, đưa chúng ta tới Thái Nguyên. Đến đó lại nói nhầm đường, đành phải vội vàng quay về đây, tàu vận hàng cũng vừa mới tới, ta có rất nhiều lạc đà và nô lệ, ở nơi này tiện hơn trong thành…
A Bặc Đỗ Lạp là một người rất hay nói, Dương Phàm chỉ hỏi một câu gã đã thao thao bất tuyệt nói cả nửa ngày. Không chỉ nói gã vốn muốn tới Trường An, lại giải thích vì sao lại ở đây, lại nói rõ cả thân phận của gã, gã là một hành thương.
Thương nghiệp Đại Thực vô cùng phát đạt, thương nhân Đại Thực chia làm tiểu thương, tọa thương và hành thương. Tiểu thương sẽ thu mua hàng hóa từ xưởng, đến kỳ sẽ mang ra chợ bán. Thông thường tọa thương có cơ sở là cả một tòa thành thị, phú khả địch quốc, được tôn xưng là Tháp Đức Cát, nhưng bọn họ không giới hạn buôn bán ở trong thành của mình, thậm chí bọn họ còn thuê hành thương buôn bán với người dị quốc xa xôi.
Hành thương theo lệnh của tọa thương, mang theo rất nhiều hàng hóa hoặc tiền bạc tha hương tới nước khác để kinh doanh. Có thể được tọa thương thuê thì bình thường ở quê nhà cũng phải rất có danh vọng, có được trang viên và thổ địa của mình, lại thêm phẩm chất đức hạnh, nếu không nếu những hành thương này ôm theo cả đống hàng hóa và biến mất thì các tọa thương sẽ thua lỗ lớn.
Dương Phàm kiên trì chịu đựng nghe gã nói xong mới chen miệng:
- A Bặc Đỗ Lạp tiên sinh vượt ngàn dặm mà đến, sự mạo hiểm này cũng không nhỏ nhỉ.
Gã đáp:
- Không mạo hiểm kiếm đâu ra món lợi kếch xù? Ta là bằng hữu đáng tin cậy nhất của Ba Sĩ Lạp Tháp Đức Cát, được ngài ủy thác tới phương Đông xa xôi này, ta rất tự hào vì được quen ngài, Mộc tiên sinh. Trái tim của ta nói với ta ngài không phải một thương nhân. Ở phương Đông, ta không phải đệ nhất thương nhân, nhưng ta hy vọng ta sẽ là đệ nhất thương nhân với sự giúp đỡ của ngài.
Dứt lời, hai mắt gã sáng lấp lánh thần bí như hai vì sao trong đêm, Dương Phàm chạm vào ánh mắt của gã, cười nhẹ một tiếng.
Theo A Bặc Đỗ Lạp đi vào nhà trọ, Dương Phàm phát hiện đầy sân đều là lạc đà, hòm xiểng và nữ nô lệ da trắng hoặc đen. Cả nhà trọ đều được gã bao, tuy trời đã lạnh nhưng rất nhiều nô lệ vẫn phải ngủ ngoài hành lang, chỉ có tên tiểu tử A Bạt Tư là nô lệ được chủ nhân sủng ái nên mới có tư cách được ngủ dưới nền đất trong phòng chủ nhân.
A Bặc Đỗ Lạp vào trong nhà trọ, lập tức lớn tiếng nói với các võ sĩ:
- Nhanh! Khẩn trương chuyển ra phòng của các ngươi đi, các ngươi dồn lại ở chung một phòng đi, nhường lại phòng cho khách nhân tôn quý của ta! Ngươi, còn ngươi nữa, mấy con quỷ lười các ngươi, nhanh đứng lên, làm mấy món ẩm thức tinh mỹ nhất lên đây, ta muốn chiêu đãi bằng hữu. Nhớ kỹ, thịt phải có nhiều hương liệu một chút.
Dương Phàm tranh thủ quay sang thầm thì với Nhâm Uy:
- Ngươi ra ngoài đi dạo, liên lạc thử với Cổ cô nương xem
*******
Thành Trường An, Hoài Chân phường, trong tòa nhà lớn của Trịnh gia.
Dưới đèn, Trịnh Vũ ngồi nghiêm chính, hai mắt sáng ngời, nghiêm túc lắng nghe người ngồi xếp bằng đối diện đang nói chuyện.
Nếu các thế gia công tử xưa nay vẫn kết giao với Trịnh Vũ mà nhìn thấy ánh mắt lúc này của y tuyệt đối sẽ không tin đây chính là người mà bọn họ quen. Trong số bạn bè, Trịnh Vũ vẫn luôn bị gọi là con mọt sách, thường xuyên bị chê cười vì điều này.
Nhưng có câu đại trí giả ngu, khi bọn họ đang líu lo chơi bời như một đàn gà con, dính vài sợi lông rực rỡ nhờ gia thế bối cảnh vinh quang cao quý mà tự cho rằng mình là khổng tước kiêu ngạo, còn kẻ mọt sách nhìn tưởng ngu ngốc chân chất không màng thế sự này lại đang cố gắng âm thầm mở rộng thế lực của mình.
Có lẽ trong chuyện này ảnh hưởng của gia tộc và thân phận của y đã có tác dụng lớn nhất, khiến cho y chỉ cần bỏ ra một phần trăm công sức của người thường mà thu được kết quả tốt hơn người khác rất nhiều. Trí thông minh của y không phải cao hơn, nhưng lại có điều kiện tốt hơn, có được bước khởi đầu đã cao sẵn, vì sao y không lợi dụng?
Trên đời vốn cũng không có công bằng tuyệt đối, ngươi có thể vừa sinh ra mà có được trí thông minh không ai sánh kịp, y cũng có thể vừa sinh ra đã có thân phận cao quý không ai so vừa, có được mạng lưới quan hệ và tài nguyên nhiều gấp trăm gấp ngàn của người khác. Ít nhất, thân là một công tử giàu sang phú quý sinh ra đã ngậm thìa vàng mà có được tâm cơ và lý tưởng thế này, y cũng đã là rất giỏi.
Lúc trước Khương Công tử bắt Tiểu Man đang có mang đi, các đại thế gia có ý đồ giam lỏng y, giảm bớt mâu thuẫn gay gắt giữa song phương, khi đó, chính Trịnh Vũ đã lẳng lặng đưa Khương công tử ra khỏi Trường An, vì trước kia y đã nợ tình của Khương công tử. Khi đó, Trường An là thiên hạ của Hiển Tông, ân tình y nợ Khương công tử sẽ là cái gì đây?
Nhiều năm cố gắng cuối cùng đã có hồi báo, mạng lưới các đại thế gia ở Quan Trung khổ tâm gây dựng bị lôi kéo tới tán loạn lộn xộn, một vài quan viên được thế gia chống lưng lần lượt bị liên lụy, hoặc bị bỏ tù mất đầu, hoặc bị điều đi nơi khác, hoặc bãi chức miễn quan, y không cần phải ngụy trang nữa.
Y bắt đầu thể hiện phong mang, thể hiện ra sức mạnh của mình. Những thế gia công tử trước kia đã cười y ngu mục, cười y ngốc nghếch chợt phát hiện thì ra mình mới là kẻ ngốc. Trịnh Vũ cũng khá là tự đắc với điều này, “Bất minh tắc dĩ, nhất minh kinh nhân; bất phi tắc dĩ, nhất phi xung thiên”, đại khái là để khắc họa y rồi
(Bất minh tắc dĩ, nhất minh kinh nhân; bất phi tắc dĩ, nhất phi xung thiên: Đã không thể hiện thì thôi, thể hiện ra sẽ khiến người ta kinh ngạc; không bay thì thôi, bay sẽ vút thẳng lên trời)
Người phụ trách điều đình cuộc đấu tranh giữa hai phái Hiển - Ẩn là Thôi Lâm người Thanh Hà. Người ở Trường An đề phòng hai tông nổi lên tranh chấp chính là y, Huỳnh Dương Trịnh Vũ.
Duyên Châu phủ nhìn từ bên ngoài đích xác khó có thể làm cho người ta có một cảm nhận là một đại thành phồn hoa.
Nơi này là cao nguyên hoàng thổ rộng lớn vô cùng, ruộng bậc thang tầng tầng , thôn xóm thì lẩn khuất trong khắp dãy núi, mọi người phần lớn là dựa vào địa thế, dùng hầm trú ẩn lấy đông ấm hè mát làm ốc xá. Trong thành Duyên Châu này phần lớn mức độ xây dựng cũng chịu loại ảnh hưởng này.
Trong thành phần lớn là xây dừng tường gạch đất cao lớn dày, cửa gỗ linh hoạt đa dạng, trên song cửa có dán giấy cắt đỏ thẫm, tương tự như loại hầm trú ẩn, toát lên khí tức hương thổ đặc biệt. Tuy nhiên, trên đường người đi như nước chảy, thương nhân dắt dê bò lạc đà qua lại, tiếng giao hàng liên tiếp, toát lên sức sống.
Phủ thứ sử Duyên Châu thì được xây dựng với một phong cách khác hẳn. Tạ Vũ Bân tại nơi này đã làm Thứ sử chín năm, Phủ thứ sử cũng không ngừng được mở rộng, giống như tòa Thành bảo. Trước bảo cơ bản bảo lưu hình thức của ban đầu của Phủ thứ sử, hậu trạch thì lại không ngừng xây dựng thêm.
Đại viện cao rộng, liên phòng động hộ, vách tường cửa sổ được điêu khắc, lịch sự tao nhã, yêu đồng mỹ nữ, tràn ngập ở giữa, xướng điều kỹ nhạc, ngày đêm không nghỉ, quả thật chính là một Thiên đường trong chốn nhân gian. Nhưng người đang ở tiền viện căn bản không tưởng tượng được trong một cửa nhỏ trong bụi cây rậm rạp có chút lay động.
Giờ phút này, trong giao viện phía tây hậu trạch có từng cây màu đỏ lửa, từng cây màu vàng óng, hỏa tinh đỏ lửa và àng óc như bay lên, theo gió nhẹ bay, bay đến trên các, vẩy lên lan can, di chuyển ra mặt nước.
Các đỉnh là mái cong màu xanh đen, thấp thoáng trong bóng cây là ánh đỏ và ánh vàng, trước các có lan can đá chạm khắc hoa cẩm thạch, nước dưới lan can đá xanh ngắt, lá đỏ nhộn nhạo, hồ nước gợn sóng, liễu rủ bên bờ, trong nước lại có nhà cỏ đơn độc, cực kỳ lịch sự u tĩnh tao nhã.
Trong các, một tòa ngọc viện phía sau dành cho chủ nhân được xây dựng bằng gỗ tử đàn, ôn nhuận mang phong cách cổ xưa, thấm sắc thiên nhiên, đồ trang trí đều là vật cực kỳ sang quý, ngồi trước tấm binh phong sau ghế dựa là một nam tử trung niên tay áo bào rộng thùng thình có bộ râu quai nón rất đẹp, đó chính là chủ nhân của bản trạch, Thái thú Duyên Châu Tạ Vũ Bân.
Ngồi hai bên chiếu đều là giai nhân tuyệt sắc. Bên cạnh Tạ Thái thú cũng có mỹ nữ hoa phục hầu hạ. Bên trái là một nữ tử ngực cao eo nhỏ, nửa bộ ngực sữa lộ ra, dung nhan xinh đẹp quyến rũ, chính là một trong những thiếp bên cạnh Tạ Thái thú được sủng ái nhất, tên là Tiểu Vũ.
Bên phải là một tiểu mỹ nhân ăn mặc vô cùng quyến rũ, lộ ra làn da trắng như tuyết không chút che giấu, giữa trán điểm yên hồng, mái tóc đen mượt được búi cao có cài một cây trăm ngọc màu xanh biếc. Nàng không đeo trang sức nhiều, mặt không son phấn nhưng hai má cũng mịn màng bóng mượt thanh lệ, dưới cằm nổi lên hạt yết hầu, cũng chính là một luyến đồng được Tạ Thái thú sủng ái nhất, tên là Bồ Đề Tử.
Tạ Thái thú mặc quần áo màu xám viền thêu hoa mai, nhiều năm sống an nhàn sung sướng, lại có bộ râu được chăm chút kỹ lưỡng, nhìn bề ngoài giống như một vị chi sĩ uyên bác, cộng thêm cái bụng hơi phệ, lại càng có khí độ của Tể tướng.
Lại nói tới, địa phương Duyên Châu này cũng không có ác cảm gì đối với vị Tạ Thái thú này. Lúc Tạ Thái thú tới Duyên Châu thì không trị gì mà cũng không quản gì, may mà những năm gần đây Duyên Châu không có thiên tai không có hỗn loạn gì, cho nên cũng là một nơi thái bình.
May mắn Tạ Thái thú không xử lý công việc gì nhiều, nếu không với năng lực của Tạ Thái thú, nếu y thật sự muốn làm gì đó, cho dù mục đích là tốt đẹp, thật lòng muốn làm chút chuyện vì dân chúng, chỉ sợ cũng biến thành rối loạn rồi. Tạ Thái thú rất tham, vô cùng tham, tuy nhiên ngoại trừ thu thuế má ra, y chưa bao giờ dùng các loại thủ đoạn để sưu cao thuế nặng đối với địa phương.
Không phải y thương tiếc sức dân, mà là bởi vì y không cần phải làm vậy, ép khổ dân chúng cũng không ép ra được nước luộc gì, gan của y lớn hơn so với các tham quan khác, y thẳng thắn tham ô của cải quốc gia.
Vị Tạ Đại quan nhân này làm Huyện úy tại Ninh Viễn Chấn Châu xa xôi, đơn giản là vì đối xử tử tế với một nhà Võ Thừa Tự mà có thể trở thành Thái thú một phương. Năm đầu tiên khi nhậm chức Thái thú thì Duyên Châu đã vượt qua tình trạng hạn hán. Vao một năm tình hình hạn hán của Duyên Châu không nghiêm trọng lắm, nhưng Duyên châu vốn là nơi nghèo đói, trận hạn hán này đã gây ra một nạn đói nho nhỏ.
Vì thế, làm Thái thú một phương, Tạ Vũ Bân đương nhiên phải dâng tấu thỉnh cầu cứu tế. Trên tấu chương Tạ Vũ Bân miêu tả Duyên Châu gặp hạn hán nghiêm trọng, đất đai ngàn dặm cằn cỗi thê thảm.
Thật ra đây cũng là tật xấu đã thành thói lúc y ở Chấn Châu nơi mà thật sự cách trung tâm Đế quốc quá xa, quan địa phương chính là thổ Hoàng đế, nhưng loại địa phương đó, dù là Thổ Hoàng đế thì cũng rất nghèo, khi có cơ hội yêu cầu tiền lương với triều đình thì bọn họ luôn luôn là không có thiên tai thì báo thiên tai, hơn nữa căn bản không bao giờ lo lắng triều đình sẽ ngàn dặm xa xôi phái người tới để kiểm tra đối chiếu sự thật.
Hiện giờ tới Duyên Châu rồi, Tạ thái thú vẫn thói quen như vậy, kết quả tấu chương dâng lên triều đình, quả nhiên là được trích một khoản tiền lương. Lúc ấy Võ Tắc Thiên đang bề bộn thanh trừ đối thủ, Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cả ngày quan sát thánh ý, mưu hại đại thần. Nhóm Tể tướng từng người từng người chưa ngồi ấm chỗ đã bị đẩy vào trong đại lao, trong tình thế vô cùng ác liệt dó, ai còn lòng đâu mà suy nghĩ đến tột cùng là Duyên Châu Tây bắc kia là như thế nào?
Kết quả, Tạ thái thú chỉ phát chút gạo tượng trưng, còn lại hầu hết những vật tư giúp nạn thiên tai thì bị y nuốt sống. Tạ Vũ Bân nếm đủ thứ ngon, năm thứ hai không có tai họa, y cũng chiếu báo y như vậy, như thế, thuế phú dân chúng nộp lên cho triều đình bị y giữ lại, mà tiền lương mà Triều đình cấp xuống để giúp nạn thiên tai cũng bị y giữ lại nữa. Y ở trên thì tham ô tiền của của triều đình, ở dưới thì tham ô thuế phú của địa phương, trong lúc đó lợi ích thu được không thể đếm được.
Lại trị tại địa khu xa xôi vốn kém cỏi, lại trị tại địa khu tây bắc cùng không hề mạnh hơn so với Nam Cương, những quan viên địa phương Duyên Châu ít có nhân ĩ phẩm tính cao, vốn khiếp sợ quốc pháp, họ vẫn chỉ là trộm vặt móc túi, nhưng khi nhìn thấy Thái Thú đại nhân gan còn to hơn Thiên Cẩu, thì họ còn sợ gì nữa?
Thái thú cũng biết duy trì loại cục diện này, cần đám thủ hạ thông đồng làm bậy, nên cũng chưa từng nghĩ sẽ ăn mảnh. Trong lúc đó, toàn bộ quan viên địa phương Duyên Châu đều là một trong những phần tử tham ô, mặc dù có một số ít quan viên có lương tri muốn giữ mình trong sạch, nhưng cuối cùng cũng đành phải khuất phục dưới đám tham quan.
Người bên ngoài đều tham mà ngươi không tham, ai yên tâm cộng sự cùng ngươi? Hoàng đế chưa từng gặp ngươi, mà toàn bộ nhận xét và đề cử lên chức đề bạt đều do lãnh đạo cấp trên, ngươi muốn chỉ lo thân mình, sẽ bị mọi người từ trên xuống dưới khiển trách và xa lánh. Cuối cùng, Duyên Châu phủ không quan nào là không tham, mọi người che chở lẫn nhau, không có lực lượng hùng mạnh ngoại lai nào đâm thủng được tấm màn bọc tối tăm này.
Quan Nội Đạo Ngự Sử cũng là chiếu theo quy định hàng năm tới Duyên Châu tuần tra, nhưng trên dưới Duyên Châu đều đồng lòng nhất trí, toàn bộ đều che mắt được, hơn nưa Tạ thái thú thường thường lấy Ngụy vương Võ Thừa Tự ra làm tấm chắn, mà gia tộc Võ thị ở trong triều chính quyền thế ngút trời, Ngự Sử nho nhỏ nào dám làm con kiến rung cây, bởi vậy liên tiếp chín năm không người nào phát hiện vụ tham hủ đại án rợn cả người này.
Hiện giờ Tạ Thái Thú đã giàu ngang một nước rồi.
- Ha ha ha ha...
Tạ Thái Thú thưởng thức ca múa, cất tiếng cười to.
Mấy ngày trước y lập tức thu về mười vạn thạch lương thực, trong đó năm vạn thạch lương thực rơi vào trong túi của y, còn lại năm vạn thạch thì để đám quan viên dưới tay y tự phân chia nhau. Năm nay Duyên Châu lại là một năm được mùa thu hoạch, thuế má địa phương không ngừng nộp lên, đều là tiền đó. Trên triều đình, y lại vừa dâng tấu sớ, tiếp tục báo thiên tai xin giúp đỡ, chẳng bao lâu nữa sẽ lại có một khoản tiền lương chui vào túi y, sao không khiến người ta mừng vui chứ?
Thái Thú uống hứng khởi, kích động đẩy chén đứng lên, Tiểu Vũ và Bồ Đề Tử vội vàng trái phái đỡ y. Tạ Thái Thủ ôm eo nhỏ nhắn của hai mỹ nhân, cười dài nói:
- Lão phu say rồi, hai tiểu mỹ nhân đưa lão phu đi nghỉ ngơi.
Tiểu Vũ và Bồ Đề Tử nhìn nhau, cả hai đều có má lúm đồng tiền xinh đẹp, đây là luyến đồng mà Tạ thái thú yêu thích nhất, khi trời sẩm tối, y gọi luyến đồng và ái thiếp đến để tăng thêm ‘nhã hứng’ của y, trong nhà Thái thú không thiếu những người này, có tính cũng không tính rõ được.
Các tiểu mỹ nhân ngồi hai bên đều đứng lên, đang định cung kính Thái Thú rời đi, quản sự của quý phủ đột nhiên bước nhanh tới, nói nhỏ vài câu vào tai Tạ Thái thú, làm y lập tức ngẩn ra. Quản sự nói:
- A Lang, người tới đang ở công đường, ngài xem...
Thái Thú buông hai tiểu mỹ nhân ra, nói:
- Đi! Đi xem!
Công đường Thứ sử, Dương Phàm mặc áo đen, ngồi nghiêm chỉnh, nhìn cách ăn mặc giống như là tiểu quan lại trong nha môn. Thái Thú vội vàng súc miệng miệng, đổi mới quan y, sau đó đi ra hậu đường. Dương Phàm vừa nhìn thấy lập tức đứng lên, ôm quyền thi lễ noi:
- Phụng thần giám Điển sự Dương Nhị, bái kiến Thái Thú!
Tạ Thái thú từng nghe nói Đương kim Nữ hoàng đế chiêu mộ được một đám thiếu niên xinh đẹp ở hậu cung, còn dựng lên một nha môn nội đình cho họ tên gọi là Phụng thần giám, hiện giờ nhìn Dương Phàm tinh thần chấn hưng, khí vũ hiên ngang, con mắt sáng răng trắng tinh, anh tuấn không tầm thường, trong lòng thầm nói: “Quả nhiên là người của Phụng Thần giám ở trong cung, không biết là đến gặp mình cho việc gì?”
Tạ Thái Thú còn đang nghi hoặc, Dương Phàm đã nghiêm nghị nói:
- Hoàng đế có chỉ!
Tạ Vũ Bân giật mình kinh hãi, sợ hãi bước lên hai bước, chắp tay đứng nghiêm, trầm giọng nói:
- Thần Tạ Vũ Bân nghe chỉ!
Dương Phàm lấy một cuộn lụa vàng trong ống tay áo ra, đọc đều đều, Tạ Vũ Bân vểnh tai lắng tai hóa ra là Hoàng đế mệnh người của Phụng thần giám thay mặt Thánh tuần du thiên hạ, thay thiên tử mở tiệc chiêu đãi Kỳ lão địa phương. Hiện giờ phụng thần thừa Trương Xương Tông đã tới Đan Châu rồi, điểm dừng chân tiếp theo sẽ là Duyên Châu, muốn Tạ Thái Thú sớm làm chuẩn bị.
Tạ Vũ Bân nghe là việc này, thầm thở phào nhẹ nhõ, nhận Thánh chỉ, mở ra đọc kỹ, bởi vì y hàng năm báo thiên tai, hàng năm đều lĩnh thánh chỉ, lúc này không cần khám hợp nghiệm ấn, y cũng phân biệt rõ đạo thánh chỉ này là giả hay thật. Sau khi xác nhận là thật, Tạ Thái thú đặt thánh chỉ trên bàn, mời Dương Phàm nhập tọa, khách khí hỏi han:
- Thiên sứ ở xa tới vất vả, không biết bệ hạ sao lại phái Khâm sai đi gặp các Kỳ lão tứ phương chứ?
Dương Phàm nói:
- Thiên tử làm như vậy, một là vì giáo hóa thiên hạ, khởi xướng đức tôn lão kính lão, hai là để phát huy nhân ái di phong của liệt tổ liệt tông; ba là Kỳ lão các nơi đều là tôn trưởng tại địa phương, thánh nhân hy vọng thông qua Kỳ lão các nơi để truyền đạt tình yêu thương dân chúng của Thánh nhân.
Vốn bệ hạ tại kinh thành từng ở kinh thành tổ chức “Thiên tẩu yến” một lần, tham dự có rất nhiều Kỳ lão kinh thành và ngoại ô kinh thành. Lúc này đây vốn định lệnh quan phủ các nơi hộ tống Kỳ lão vào kinh thành, tổ chức một lần “Thiên tẩu yến” nữa nhưng lại lo lắng đường xa, nhóm Kỳ lão lại lớn tuổi, nếu có chuyện gì không hay xảy ra, không khỏi phụ tấm lòng nhân ái của Bệ hạ, nên đã lệnh Khâm sai tiến đến trấn an.
Tạ Vũ Bân chắp tay, liên tục xưng Thiện.
Dương Phàm mỉm cười nói:
- Trương Phụng thần ước năm ngày sau đến Duyên Châu, không biết Tạ thái thú kịp triệu Ky lão tứ phương đến không?