Olivia nhìn Lisle.
“Chuyện gì thế nhỉ?” chàng ngạc nhiên. “Mới hôm qua chúng ta còn không thể thuê được người nào trong vùng này cơ mà.”
“Hôm qua, một cô gái tóc đỏ đã đối phó được với một gã người Pháp hung tợn đang lăm le con dao trong tay,” nàng nói.
“Thông tin không thể nào đi nhanh đến thế,” chàng nói.
“Chuyện đó xảy ra từ hôm qua,” nàng nói. “Ở London, hôm trước em mà làm gì thì hôm sau chuyện đó liền trở thành chủ đề chính trong bữa sáng, ở nông thôn chuyện còn lan đi nhanh hơn, theo kinh nghiệm của em là thế.”
“Nhưng bằng cách nào? Ai đã kể cho họ? Chúng ta chẳng có lấy một người làng nào trong tòa lâu đài này.”
“Thế thì đưa ta cái bánh mì,” chàng nói. “Cho chúng ta thêm một chút thời gian, Nichols, rồi đưa ông ta vào đây.”
Nàng và Lisle rời khỏi bàn ăn đi tới gần lò sưởi, chỗ ấm nhất trong phòng, để chờ đợi một nhân viên tiềm năng - chỗ này cách khá xa hành lang dẫn vào bếp, nơi có nhiều người hầu ưa nghe trộm.
Nhờ khả năng tính toán thời gian cực kỳ bí ẩn của Nichols - mà cũng có thể chỉ là do cậu đã sống với Lisle ngần ấy năm - cậu đưa Herrick vào ngay sau khi Olivia vừa phủi xong bụi bánh mì bám trên áo khoác Lisle. Lisle không để ý tới chuyện đó, hoặc không quan tâm, nhưng Nichols thì hẳn sẽ để ý. Olivia chắc chắn cậu ấy sẽ vô cùng xấu hố nếu chủ nhân của cậu xuất hiện trong dáng vẻ thiếu chỉnh tề trước mặt một người giúp việc tiềm năng.
Herrick rõ ràng trông rất hợp với vai trò quản gia. Ngoại hình ông ta hết sức đường bệ: cao thì không thua gì Aillier nhưng cơ bắp hơn nhiều. Mái tóc đen nhánh chải ngược ra sau rất gọn gàng và đôi mắt đen vô cùng sắc sảo. Ông ta có vẻ điềm tĩnh của một người đàn ông hiểu rõ mình đang làm gì. Ông ta gợi Olivia nhớ đến người quản gia hoàn hảo của Bà Cố, Dudley.
Ông ta cũng khiến nàng nghĩ đến Nichols, dù ông ta cao to hơn nhiều, ông ta có cùng cái phong thái kín đáo như thế.
Tuy là người Scotland, ông ta nói tiếng Anh khá chuẩn, chỉ hơi nặng hơn một chút.
“Công việc cuối cùng của ông là ở lâu đài Glaxton,” Lisle nói sau khi đọc mấy lá thư giới thiệu. “Tôi thực sự băn khoăn là tại sao ông lại từ bỏ một vị trí thuận lợi như vậy để tới đống đổ nát này.”
“Tham vọng, thưa ngài,” Herrick nói. “Ở bên kia ông Melvin là quản gia. Tôi là quản gia cấp dưới. Chúng tôi không hợp nhau. Vì không có khả năng thay đổi tình trạng ấy và ông ta cũng còn lâu mới nghỉ hưu, tôi quyết định tìm kiếm cho mình vận may ở một nơi khác. Thời hạn hợp đồng của tôi đã kết thúc từ hai tháng trước. Tôi vừa định nhận một vị trí ở Edinburgh thì hay tin về vị trí còn trống ở đây. Cuộc trao đổi với ông Mains vào ngày hôm qua đã củng cố niềm tin của tôi là tôi phù hợp với vị trí này hơn.”
Lisle không buồn giấu giếm nỗi ngạc nhiên. Chàng khoát tay vu vơ quanh căn phòng hầu như trống trơn. “Đống hỗn độn không ai để tâm này ư?”
“Đúng vậy, thưa ngài, tôi xem đây như một thử thách.”
“Tất cả chúng ta đều nghĩ vậy,” Lisle nói, “thật không may.”
Olivia quyết định đã đến lúc tham gia. “Theo kinh nghiệm của tôi,” nàng lên tiếng, “người giúp việc thường thích những chỗ làm dễ dàng, về căn bản, thử thách không phải làm món ngon với họ.”
“Tất nhiên, nói chung thì là như vậy, thưa tiểu thư Carsington,” Herrick nói. “Nhưng với tôi, đó là một cách sống buồn tẻ và đáng chán.”
“Chúng tôi không buồn tẻ,” Lisle phản đối. “Số người như vậy không đến một nửa. Có lẽ ông chưa nghe chuyện quản gia trước đây của chúng tôi mất tích một cách bí ẩn.”
“Ở những vùng như thế này thì chuyện gì cũng đến tai người ta cả, thưa ngài,” ông ta nói. “Cư dân Edinburgh, đặc biệt là những người giúp việc, biết mọi chuyện về tất cả mọi người trong vòng bán kính hai mươi dặm. Gorewood cũng nằm trong quy luật đó.”
“Chuyện quản gia trước đây của chúng tôi biến mất đột ngột không hề khiến ông lo lắng sao?” Olivia hỏi.
“Xin phép ngài và tiểu thư Carsington cho phép tôi nói thẳng được không ạ?” Herrick nói.
“Ông cứ tự nhiên,” Lisle đáp.
“Viên quản gia ấy là người London,” Herrick nói nhẹ nhàng - hay là tỏ vẻ thương hại nhỉ? “Tôi thì khác. Gia đình tôi đã sống ở vùng này nhiều thế hệ. Chúng tôi không dễ gì bị tiêu diệt. Hay nói đúng hơn là không bao giờ.”
Olivia nhìn Lisle.
“Chắc rằng ngài và tiểu thư Carsington muốn thảo luận riêng chuyện này,” Herrick nói. “Tôi sẽ ra khỏi phòng.”
Ông ta bước ra ngoài.
“Có phải đó là anh trai của Nichols không nhỉ?” nàng nói khẽ.
“Chắc họ cùng thuộc một giống loài đặc biệt nào đó,” chàng nói. “Ta hy vọng ông ta không mê gái như cậu ấy. Nhưng một người đâu thể có mọi thứ chứ nhỉ. Ông ta là người Scotland, như em muốn, với những mối quan hệ trong cộng đồng ở đây. Lý lịch của ông ta thì miễn chê. Ông ta cũng tạo ấn tượng rất tốt. Tính tình kín đáo. Lặng lẽ. Nói tiếng Anh lại dễ nghe. Tóm lại, em thấy ông ta có được hay không?”
“Đây là lâu đài của ngài mà,” nàng nói.
“Đây không phải sở trường của ta,” chàng nói. “Ta thấy khá thích ông ta, nhưng em sẽ nắm quyền quyết định về chuyện gia nhân. Ta nên làm những việc của đàn ông. Ta cần kiểm tra tình trạng của sân và tường bao. Cần kiểm tra tỉ mỉ hơn toàn bộ tầng trệt của lâu đài nữa. Ta muốn biết những kẻ đột nhập vào đây bằng cách nào. Để ta lo những việc đó, còn giao lại việc tìm quản gia cho em.”
“Ông ta có vẻ là người thật thà,” nàng nói.
“Ta tin vào bản năng DeLucey của em trong đánh giá này,” Lisle nói.
“Vẻ mặt ông ta không tỏ ra e sợ trước nhiệm vụ nặng nề này,” nàng nói. “Thuê cho đủ nhân lực - tốt nhất là từ trong vùng, sắp xếp mọi thứ đâu ra đó, thiết lập một hệ thống cung cấp, vân vân.”
“Không hề e sợ,” chàng nói, “ta có cảm giác ông ta như một con chó săn vô cùng hăm hở, sẵn sàng bước vào cuộc săn.”
“Ông ta cao ráo và đẹp trai nữa,” nàng nói.
“Thế là ổn cả, đồng ý nhé.”
Nichols bước vào.
“Tiểu thư Carsington mến ông ta,” Lisle nói. “Bảo quản gia mới của chúng ta vào đi.”
Một lúc sau
“Nichols sẽ giới thiệu ông với nhân viên ở đây sau đó đưa ông đi quanh lâu đài một vòng,” Olivia nói với Herrick. “Hai quý bà Cooper và Withcote sớm nhất cũng phải tới trưa mới thức giấc.” Họ sẽ liếc mắt đưa tình với ông và đưa ra những nhận xét không đứng đắn, và đơn giản là ông sẽ phải làm quen với chuyện đó thôi. “Ngài Lisle đã vẽ một tập sơ đồ, tôi tin là ông muốn xem chúng. Tôi thấy chúng rất hữu ích. Lâu đài này không ngờ có cấu trúc phức tạp hơn tôi tưởng lúc đầu - nhưng tôi dám chắc ông đã quen với những cầu thang không bám tường hoặc kết thúc đột ngột và cả những tầng ở giữa các tầng với nhiều gian phòng nằm rải rác trong đó.”
“Tầng lửng phải không thưa tiểu thư? Đúng thế, nhà ở Glaxton luôn có tầng lửng.”
“Tôi chưa khám phá hết các tầng lửng,” nàng nói. “Nhưng Nichols gợi ý là tầng lửng ngay phía trên phòng bếp có một dãy hành lang có thể cải tạo làm phòng lưu trữ tài liệu.”
Herrick đưa mắt nhìn lên bức tường ngay phía trên cửa chính của khu bếp.
Cách ông ta quay đầu, cộng thêm việc ông ta có cái mũi cao, gợi cho nàng nghĩ tới một con diều hâu.
“Chỗ ở của ông cũng ở cùng tầng đó, trên tháp Bắc, ngay dưới phòng của ngài Lisle,” nàng giải thích.
Ánh mắt đen huyền của ông ta lướt về phía Bắc của căn phòng, tới góc có gác trang trí ở phía sau, nơi có một cánh cửa và hành lang dẫn vào chỗ ở của ông ta.
“Tốt hơn là tôi nên nói với ông rằng tối qua trên đó xuất hiện một con ma,” nàng nói. “Trong gác trưng bày.”
Ánh mắt diều hâu quay lại nhìn nàng. Nó hoàn toàn điềm tĩnh. “Một con ma ư, thưa tiểu thư?”
“Ai đó đã giả ma,” nàng nói. “Rất ầm ĩ. Ngài Lisle đã ra ngoài để tìm hiểu cho rõ họ vào bằng cách nào.”
“Từ khi đến đây giờ tôi không để ý thấy dấu hiệu nào của sự phá hoại, thưa tiểu thư. Thật không may, nhưng lâu đài này đã đứng chơ vơ suốt một thời gian dài. Như một lời mời hấp dẫn.”
“Rất mời mọc, tôi biết,” Olivia nói. “Tôi chắc đã nghe ngài Lisle nói gì đó về những bậc dưới thấp của một số cầu thang. Tôi cũng đã thấy nhiều mảnh đá của lan can gác thượng rơi trên mặt đất.”
“Bọn cướp bóc đó đã quay lại từ nhiều năm nay,” Herrick nói. “Tôi nghĩ chúng đã thôi cố gắng bán tòa lâu đài theo kiểu từng mảnh từng mảnh một nữa. Nhưng sân bao thì khác.” ông ta lắc đầu. “Thật đáng xấu hổ. Nếu không mắt thấy tai nghe thì tôi hẳn không tin nổi chuyện này.”
“Sân bao thì sao?” Olivia cố nhớ lại mình đã nhìn thấy gì vào ngày hôm qua, khi Lisle đưa nàng đi một vòng quanh sân. Các bức tường đều tan hoang và nhiều chỗ đã văng xa khỏi móng. Mặt đất đương nhiên là rất lổn nhổn. Có gì lạ đâu nhỉ? Nàng không nhớ ra. Nàng đang rối như tơ vò với những ý nghĩ lãng mạn mộng mơ nên không thể quan sát xung quanh kỹ lưỡng.
“Chúng đang đào bới,” Herrick nói. “Có người lại đang đi tìm kho báu đó.”
Một lúc sau
“Kho báu dưới lòng đất,” Lisle nhắc lại. “Quanh đây lại có bọn ngốc nào nghĩ lâu đài này có kho báu dưới lòng đất sao?”
Chuyện này thật quá phiền phức.
“Giá mà đọc hết sách vở của ông chủ Frederick rồi thì chắc hẳn em đã biết chuyện này,” nàng nói. “Ông cụ đã ghi chép mọi điều mình biết về lâu đài Gorewood. Mọi truyền thuyết trong mọi phiên bản khác nhau. Sớm muộn gì chắc chắn em cũng đọc tới kho báu dưới lòng đất thôi.”
“Chuyện này không liên quan đến cướp biển đấy chứ?” chàng nói. “Bởi vì em và ta đã từng đào chiến lợi phẩm của cướp biển.”
Nàng cười với chàng. Nàng không đội mũ, tóc nàng xõa ra, tung bay trong gió, cũng ngọn gió dìu dịu ấy thổi tà váy của nàng bay bay. Chàng thấy tâm trí mình tan chảy dưới nụ cười diễm lệ ấy.
Chàng phải làm gì với nàng đây?
“Không phải cướp biển đâu,” nàng nói. “Chuyện này xảy ra trong giai đoạn nội chiến. Cromwell tấn công tòa lâu đài này. Cuối cùng toàn bộ gia quyến và người hầu phải bỏ trốn. Họ tẩu thoát trong đêm - nhưng không thể mang theo tất cả gia tài.”
Nàng như run lên vì phấn khích. Thật khó cưỡng khi nhìn thấy hình ảnh ấy.
Nhưng chàng cần bình tĩnh. Chàng cần trật tự. Chàng có hàng tá vấn đề phải đối mặt rồi, và không chắc mình có thể suy nghĩ thông suốt vấn đề nào không khi mà chàng chưa giải quyết được vấn đề Olivia trước tiên. Chàng không thể phớt lờ khi nàng đứng trước mặt chàng. Chàng thật sự không thể suy nghĩ tỉnh táo.
“Thế là họ chôn nó,” chàng nói.
Nàng gật đầu.
“Ta xin lỗi phải phá vỡ tưởng tượng đáng yêu của em, nhưng ta đã nghe câu chuyện ấy hàng trăm lần rồi,” chàng nói. “Ta kể cho em chuyện xảy ra thế nào nhé? Quân của Cromwell thắng thế lâu hơn phe bảo hoàng tưởng. Gia đình mất hết mọi thứ, kể cả bí mật về nơi kho báu được chôn giấu. Ta chắc chắn rằng mọi gia đình thuộc phe bảo hoàng ở Vương quốc Anh đều chôn trang sức vàng bạc xuống đất trước khi bỏ trốn trong cái đêm mà Cromwell và tùy tùng của ông ta nổi dậy. Và tất cả các gia đình đó đều quên nơi họ chôn nó.”
“Em biết đó là một giai thoại, nhưng...”
“Không có ai, đặc biệt là những người Scotland lõi đời, lại ngây thơ tới mức vẫn tưởng còn kho báu nào đó ẩn dưới lòng đất sau hai trăm năm,” chàng nói. “Nói cho đúng là không có ai trên mười hai tuổi. Hãy nói với ta em không tin chuyện đó đi.”
“Không phải em tin chuyện ấy,” nàng nói. “Nhưng em thực sự tin là có người đang tìm kiếm nó.” Nàng nhìn ra xung quanh. “Có vết tích đấy.” Nàng chỉ ra hàng loạt mô đất và rãnh xới nhỏ trên khắp sân. “Mặt đất ướt át quá nên khó mà nhìn thấy được. Nhưng Herrick thấy vết tích của lần đào bới gần đây.”
“Chôn báu vật là lĩnh vực của em,” chàng nói. “Cứ thoải mái đào những gì em thích đi.”
“Lisle, đó không phải điều quan trọng. Sao ngài lại u mê thế? Ngài không thấy...”
“Ta có thấy, nhưng ta không sao nhãng tâm trí vào chuyện đó,” chàng nói. “Có quá nhiều việc phải làm. Ta cần công nhân và giờ phải đi tìm họ.”
“Tất nhiên là ngài phải làm thế. Em chỉ muốn...”
“Chúng ta không thể tiếp tục như thế này,” chàng nói, “trong khi còn nhiều cửa sổ vỡ, mưa gió có thể tạt vào và những kẻ đột nhập vẫn đang xâm phạm lâu đài. Ngày trước, không kẻ đột nhập nào có thể lẻn vào gác trưng bày. Chúng sẽ phải tìm đường vào trong. Những con ma của chúng ta hẳn đã vào qua cửa chính bị hư hỏng mà ta đã chỉ cho em, cánh cửa dẫn vào tầng hầm. Rồi chúng cứ thế leo lên những cầu thang gãy. Cánh cửa đó cần được sửa chữa và gia cố.”
“Em cũng nghĩ thế, nhưng...”
“Ta đi vào làng tìm người đây,” chàng ngắt lời nàng.
Quay lưng lại với Lisle, Olivia ngồi phịch xuống một phiến đá của tường bao đã bị văng vào sân từ thế kỷ trước. Nếu nhìn chàng bỏ đi, nàng chắc sẽ không cưỡng được ý muốn ném cái gì đó vào người chàng. Làm thế thì thích thật, nhưng chẳng thay đổi được chàng mà cũng chẳng cải thiện được hoàn cảnh.
Chàng có việc quan trọng phải làm, và chàng muốn thực hiện càng nhanh càng tốt. Tìm hiểu cho rõ những bí ẩn về ma mãnh và kho báu là chuyện gây “sao nhãng tâm trí”. Làm sao nàng có thể buộc Ngài Cứng Đầu thấy đó là trung tâm của vấn đề?
Ai đó đã dày công tốn sức với chuyện này trong suốt mấy năm vừa qua. Họ hẳn phải có những lý do rất xác đáng để tin rằng kho báu vẫn tồn tại.
Nàng nhìn ra xung quanh. Mặt sân lổn nhổn, nhưng đó cũng là điều bình thường sau chừng ấy năm không có tay người chăm sóc. Frederick Dalmay đã tập trung mọi sự quan tâm vào phần bên trong lâu đài, điều đó là rất rõ ràng.
Cái Herrick thấy mà cả nàng và Lisle đều bỏ lỡ là gì nhỉ? Trời mưa tầm tã suốt mấy ngày trước khi nàng tới, Lisle nói thế. Rồi cả một đoàn người ngựa và xe cộ giẫm lên cỏ và xới tung mặt đất. Cơn mưa và sự giày xéo đó đã xóa đi mọi dấu vết của chuyện đào bới - nếu tồn tại những dấu vết ấy.
Nàng nhìn một lượt quanh bức tường đổ nát. Phế tích của chòi canh đứng ở góc Tây Nam. Còn kia? Có phải ở dưới mặt đất bên cạnh chòi canh ấy có cái gì đó rất lạ thường? Nàng đi về hướng đó. Mặt đất cạnh tường ụ lên quanh mấy hố nhỏ. Vết đào này không mới. Nhưng cũng chẳng phải vết đào từ ngày xưa.
Đó có phải là thứ Herrich đã để ý không nhỉ?
Nàng đứng nhìn hồi lâu, nhưng lớp đất lổn nhổn chẳng nói với nàng điều gì.
“Thế này thì chẳng có hy vọng gì rồi,” nàng nói. “Ta sẽ phải làm một việc nhạy cảm, đó là hỏi ông ta cho rõ.”
Gorewood
Mấy giờ sau
Tâm trạng của ngôi làng đã thay đổi qua một đêm, Lisle nhận thấy thế.
Chàng và cậu người hầu bước vào các cửa hiệu, đặt ra những yêu cầu và người ta không còn vờ như không hiểu họ nữa.
Như Olivia đã nói, chắc câu chuyện cô gái nhỏ bé tóc đỏ đối đầu với ông đầu bếp người Pháp hung tợn tay lăm lăm dao phay đã lan khắp làng. Giờ có lẽ họ cũng đã nghe chuyện Olivia giả ma và biến nỗi sợ thành tiếng cười như thế nào.
Phải, nàng thật là phi thường, không ai nghi ngờ gì về điều đó cả.
Lisle và Nichols bước vào quán trọ Crooked Crook. Lisle thấy dù ban ngày nhưng nơi này rất đông đúc. Là quán trọ duy nhất trong làng, đây hẳn là trung tâm buôn chuyện rồi.
Chàng bước vào quán rượu và yêu cầu một cốc bia. Ông chủ quán không còn làm như thể Lisle vừa nói tiếng Hy Lạp hay Trung Quốc nữa. Ông ta đặt cái cốc vại lên quầy.
“Và một lượt cho tất cả mọi người ở đây,” Lisle nói.
Việc đó thu hút sự chú ý của cả quán rượu. Chàng đợi cho đến khi ai nấy đều đã có bia mới lên tiếng. Chàng đã quen nói chuyện trước đám đông toàn người lạ. Nhờ thế chàng mới thuê được nhân công làm việc trong các hố khai quật. Cũng nhờ thế mà chàng giữ được họ cộng tác với mình lâu dài. Tiền bạc không phải lúc nào cũng quan trọng với người Ai Cập, và không dễ gì họ sẵn lòng liều mạng để làm việc cho người nước ngoài. Người nước ngoài thường nghĩ dân bản xứ là một đám ngu ngốc. Lisle lại thấy họ rất nhạy cảm. Thế cho nên chàng khuyến khích trí thông minh của họ và cho họ lý do chính đáng để giao phó cuộc sống cho chàng.
Chàng không có niềm tin như thế với người Scotland. Nhưng chàng biết họ cực kỳ dũng cảm và lòng trung thành cũng phi thường không kém - ngay lúc ấy chàng nghĩ đến trận Culloden. Vì lúc này họ đông hơn phe của chàng rất nhiều nên chàng không buồn vận dụng cách nói khéo léo, một thứ ngôn ngữ mà chàng chưa bao giờ thực sự giỏi.
“Tôi đang tìm người khôi phục lâu đài Gorewood,” chàng nói. “Tôi đang tìm những người không sợ ma cà rồng, ma trơi và quỷ chân dài, tóm lại là tất cả những thứ ưa lang thang trong đêm. Đây là lần cuối cùng tôi đưa ra lời đề nghị này ở Gorewood. Cậu Nichols đây đã liệt kê những yêu cầu của tôi về thợ xây và thợ mộc, vân vân. Những ai muốn làm việc thì hãy điền tên vào danh sách của cậu ấy và chuẩn bị tới Gorewood vào tám giờ sáng mai, sẵn sàng bắt đầu. Nếu Nichols không lấy đủ tên người làm, tôi sẽ sang tìm người trên các cao nguyên, tôi tin mình có thể tìm được những người đàn ông đích thực ở đó.”
Chàng uống cạn cốc bia rồi đi ra khỏi quán.
Roy nhìn chàng bước đi, những người khác cũng dõi theo. Căn phòng lặng như tờ, ai nấy đều nhìn vào cánh cửa nơi con trai của ông chủ thái ấp vừa bước qua.
Rồi họ nhìn anh chàng gầy gò ngồi ở quầy bar, tay cầm một cuốn sổ và cây bút chì.
Đột nhiên Tam MacEvoy cười rú lên phá vỡ bầu không khí im lặng thế là cả quán rượu cùng ồ lên, rồi tất cả bọn họ gập người xuống, cười nghiêng ngả như thể chưa bao giờ nghe thấy cái gì buồn cười tới vậy trong đời.
“Mọi người nghe thấy không?” Tam lên tiếng khi đã lấy lại hơi.
“Đầu tiên là cô nàng tóc đỏ, giờ lại đến anh ta,” ai đó lên tiếng.
“Anh đã bao giờ nghe chuyện gì như thế chưa,” ai đó hỏi Roy.
“Chưa, chưa bao giờ,” hắn nói. Và quả thực hắn chưa bao giờ nghe thấy chuyện chừng ấy người đàn ông Scotland mạnh khỏe và dũng cảm phải đứng im phăng phắc trước những lời lẽ xấc xược như thế của một gã người Anh - mà gã này lại là con trai của chủ thái ấp, kẻ mà bọn họ đều biết là rất ngu ngốc. Hắn nhìn Jock, Jock trông thậm chí còn bối rối hơn.
“Này, chúng ta không thể nào lại ngồi yên trước chuyện này chứ?” Tam nói. “Chúng ta sẽ dạy cho quý ngài ấy ai là đàn ông đích thực.”
Anh ta đứng dậy đi về phía anh chàng đầy tớ gầy còm có tên là Nichols.
“Cậu,” Tam cất tiếng.
Nichols không mảy may xao động, vẫn đứng đó cực kỳ điềm tĩnh, lịch sự theo cái lối anh-là-cái-thá-gì của người Anh. “Vâng, ông...?”
“Tên là Tam MacEvoy,” Tam nói, cằm hếch lên. “Cậu có thể ghi tên tôi ngay bây giờ. Tam MacEvoy, thợ lắp kính.”
Một anh chàng khác đi đến bên cạnh Nichols. “Tôi nữa, Craig Archbald, thợ nề.”
Rồi mọi người trong quán rượu đều chen lấn tới, yêu cầu được đăng ký làm việc.
“Roy,” Jock thì thầm. “Chúng ta phải làm gì đây?”
“Chúng ta không thể ghi danh được,” Roy nói. Mọi người ở Gorewood đều biết từ lúc sinh ra đến giờ, chúng chưa bao giờ làm bất cứ công việc chân chính nào vào ban ngày. Nếu giờ họ đăng ký, mọi người sẽ nghi ngờ. “Chúng ta phải hành động bình thường.”
“Nhưng...”
“Đừng lo. Tao đã nghĩ ra một kế hay.”
Tới tận chiều tối hôm đó, Olivia mới gặp lại Lisle. Sau khi từ trong làng về, chàng khảo sát sân bao cho tới lúc hoàng hôn. Tiếp đó, chàng dành một tiếng ngồi với Herrick trong phòng lưu trữ tài liệu, rồi đi về phòng riêng.
Tuy chưa nhìn thấy, nhưng nàng biết Lisle đã sắp xếp một góc làm việc tại cửa sổ khổng lồ trong phòng ngủ của chàng, giống hệt góc làm việc của nàng. Chắc chàng sẽ làm việc ở đó cho tới khi đứng dậy mặc đồ xuống ăn tối.
Tốt nhất là không nghĩ tới phòng làm việc của chàng.
Sau bữa tối, khi họ lại gần trước lò sưởi lớn để sưởi ấm, Lisle nhắc lại bài phát biểu ngắn gọn đầy tính khiêu khích của anh chàng trong quán trọ Crooked Crook.
“Thế mà không ai ném cái gì vào ngài à?” Olivia nói.
“Tất nhiên là không rồi,” chàng nói. “Nichols bảo hai phút sau khi ta bỏ đi, họ cười ha hả và reo mừng, tranh nhau đăng ký tới làm. Cậu ấy bảo là họ còn đăng ký cho người thân, không muốn ai trong gia đình mình bị đánh giá là kém dũng cảm hơn những người mông muội trên cao nguyên - hoặc kém dũng cảm hơn cô gái tóc đỏ. Tất cả chúng ta đều biết em chính là người đã thuần phục sư tử.”
“Nhưng ngài biết cách làm chủ tình hình,” nàng nói. Nàng thấy tiếc vì đã không có mặt ở đó. Nàng cũng ước gì mình có mặt ở quán trọ sau lúc ấy, để nghe dân làng tán tụng. Hẳn phải thích thú lắm.
“Quả là rất cừ khôi,” Quý bà Cooper nói. “Ta mong tới ngày được thấy đám trai tráng Scotland ngực nở vòng cung tới làm những việc như trèo thang lên mái đảo ngói quá.”
“Nói thế không có nghĩa chúng ta không có những hình ảnh đáng yêu ở trong nhà,” Quý bà Withcote nói. Bà liếc nhìn Herrick với vẻ ngưỡng mộ khi ông ta mang một khay đồ uống tới cho họ.
Khi ông ta đi ra, Quý bà Cooper nói, “Cháu tìm ra ông ta ở đâu vậy, Olivia?”
“Ông ấy tự xuất hiện thôi,” nàng nói, “giống như vị thần trong Nghìn lẻ một đêm ấy.”
“Ta thấy thích chộp cái đèn của ông ấy rồi đấy,” Quý bà Withcote nói.
“Millicent, chúng ta cùng nâng cốc nào... Chúc mừng Olivia vì đã kiếm được một ông quản gia tuyệt vời.”
“Chúc mừng Olivia,” Quý bà Withcote nói.
Lisle nâng cốc. Đôi mắt xám của chàng bắt gặp ánh mắt của nàng, và nàng thấy những vì sao bạc lấp lánh ánh trăng vàng nơi ấy, mọi thứ lại trở về cuồn cuộn, một dòng ký ức nóng bỏng.
“Chúc mừng Olivia,” chàng nói.
“Và chúc mừng Lisle,” Quý bà Cooper nói. “Vì những anh chàng Scotland vạm vỡ sẽ tới.”
“Chúc mừng Lisle,” Quý bà Withcote nói.
“Chúc mừng Lisle,” Olivia nói, và qua vành ly, nàng cũng nhìn chàng với ánh mắt rực lửa đầy ngụ ý, để trả đũa.
“Xin cảm ơn các quý bà quý cô,” chàng nói. “Nhưng giờ xin mọi người ban cho cháu một đặc ân. Ngày mai sẽ có rất nhiều công nhân tới đây, thế nên cháu phải giữ đầu óc thật tỉnh táo. Điều đó có nghĩa là cháu phải tuân theo giờ nông thôn thôi.” Chàng khước từ uống say, chúc mọi người ngủ ngon, rồi đi lên phòng.
Chúng đã quan sát tòa lâu đài từng li từng tí trong suốt mấy năm vừa qua. Chúng biết từng hành lang và cầu thang, mọi lối ra vào. Túm tụm cạnh nhau trong chòi canh xiêu vẹo, chúng theo dõi các cửa sổ ở tháp phía Nam.
Đó là nơi phụ nữ ở.
Mọi người ở Gorewood đều biết trong lâu đài này ai ngủ ở đâu, cô hầu gái nào thuộc về ai, gia nhân ngủ chỗ nào, ai trong số người hầu thường lẻn ra chuồng ngựa và gã coi chuồng ngựa nào hay qua lại với các cô hầu. Nói cho cùng, đó là lâu đài của cả vùng Gorewood, thế nên mọi việc diễn ra ở đó là chuyện của tất cả mọi người.
Jock và Roy đợi cho đến khi các cửa sổ ở tháp Nam đều tối om. Rồi vẫn lẩn mình trong bóng tối, chúng đi vội về phía cửa sổ tầng hầm bị hỏng, bước xuống những bậc thang vỡ và tìm đường tới một trong những cầu thang dẫn lên tầng một.
Ííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeííííííòòòòòò.
Olivia ngồi bật dậy. “Chúa ơi!”
Nàng nghe thấy tiếng bước chân nhè nhẹ. “Tiểu thư? Tiếng gì thế nhỉ?”
“Ta không rõ.” Olivia bước xuống khỏi giường. Trong ánh lửa leo lét, nàng thấy que cời lửa. Nàng cầm nó lên. “Nhưng dù kẻ gây ra tiếng động đó là ai thì hắn cũng sẽ phải hối tiếc.”
Ííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeeííííííòòòòòòííííííeeeeeííííííòòòòòò.
Lisle vùng dậy, nhảy phắt ra khỏi giường và chộp lấy con dao dưới gối.
“Thưa ngài? Gì thế ạ?”
“Kinh khủng. Âm thanh kinh khủng nhất thế gian. Âm thanh của chết chóc, tra tấn và đọa đày trong vạc dầu địa ngục,” Lisle trả lời. “Hãi hùng. Đó là kèn túi.”
“Nhanh lên,” Roy giục. “Họ xuống rồi.”
Hắn và Jock chạy qua căn phòng dài ở tầng hai và băng qua cánh cửa vào cầu thang dẫn sang tháp Bắc rồi vội vã chạy xuống, cầu thang tối đen như mực nhưng chúng đã lên xuống chỗ đó hàng trăm lần, hơn nữa ngày hay đêm với chúng đều giống nhau cả thôi.
Xuống đến tầng một và băng qua đại sảnh tới một cầu thang khác, quay trở lại tháp Nam. Chúng chạy như bay xuống bậc thang bằng đá. Rồi Roy dừng lại, nói, “Nào, mỗi đứa một quý bà nhé.”
Olivia và Bailey ào ra phòng chờ tầng hai, vừa kịp lúc Lisle và Nichols chạy đến.
“Em có thấy chúng không?” Lisle hỏi.
“Chỉ nghe thấy chúng thôi,” Olivia đáp. “Đó có phải là...”
“Kèn túi đấy,” Lisle nói dứt khoát.
“Thật sao? Tiếng của nó kinh khủng quá.”
“Có lúc nào không kinh khủng đâu.”
Những tiếng kêu nghèn nghẹt phát ra từ cầu thang của tòa tháp phía Nam. Olivia chạy về phía đó. Lisle tới cửa trước nàng.
“Ở yên đây,” chàng nói. Chàng đẩy nàng khỏi lối đi và bắt đầu chạy xuống cầu thang.
Nàng thúc Nichols qua một bên và chạy theo chàng.
“Em không sợ kèn túi đâu,” Olivia nói.
“Kẻ nào dám dùng kèn túi để đánh thức mọi người vào lúc nửa đêm thì sẽ không từ việc gì đâu,” Lisle cảnh báo.
“Thật ra, Lisle, chúng không tệ tới thế đâu.”
“Có đấy. Đó là âm thanh khủng khiếp nhất thế gian. Chẳng khác gì mười nghìn xác chết quy tụ.”
Họ tới cánh cửa mở toang dẫn vào phòng Quý bà Withcote. Nàng đi qua cánh cửa, cô hầu gái vẫn đang cố buộc những dải nơ trên chiếc áo choàng của nàng. “Rất xin lỗi, cháu yêu. Nhưng tiếng kêu khủng khiếp làm ta giật bắn mình. Ta nghĩ ta đã bay vút từ giường lên không trung. Chẳng nhớ nổi lần cuối cùng chuyện này xảy ra là bao giờ nữa. Bàn chân lạnh cóng của ngài Waycroft, ta nghĩ thế.”
Thấy bà vẫn an toàn, Lisle vội quay ra hành lang, Olivia theo sau chàng.
Họ thấy Quý bà Cooper đang đứng trên bậc cửa bên ngoài phòng ngủ của bà, nhìn xuống cầu thang tối om. “Nó vẳng lên từ dưới kia.” Bà chỉ. “Cháu chưa bao giờ nói đến những người thổi kèn túi, Olivia,” bà nói giọng trách móc. “Nếu biết trước họ sẽ tới thì ta đã mong ngóng họ rồi. Cháu đã bao giờ thấy một người đàn ông thổi kén túi chưa? Để thổi được kèn túi cần phải có phổi khỏe, cháu biết đấy, đôi chân cũng phải vững chãi và...”
“Tốt lắm, cháu mừng là bà không hề hấn gì,” Lisle nói.
Chàng bước vào hành lang nhỏ dẫn tới đại sảnh, Olivia theo gót chàng.
“Để ta đi trước,” chàng thì thầm. “Cho ta một phút. Ta cần lắng nghe, và em không biết khi em di chuyển thì cái váy ngủ của em sột soạt to cỡ nào đâu.”
“Đây đâu phải váy ngủ. Đây là áo choàng cơ mà.”
“Gì cũng được, yên lặng đi nào,” chàng nói. “Và hãy cẩn thận với que cời lửa của em.”
Sảnh lớn tối đen như mực. Vì không thấy được gì, Lisle dỏng tai nghe ngóng. Nhưng tất cả những gì chàng nghe thấy là sự yên tĩnh của gian phòng. Dù những kẻ đột nhập là ai, chúng cũng biết rất rõ đường ra lối vào. Và chúng đã đi rồi.
Một phút sau, Olivia bước qua cửa. Chàng chẳng cần phải nhìn thấy nàng. Chàng có thể nghe thấy nàng. Tiếng xào xạo nhẹ nhàng của chiếc áo ngủ nghe thật ồn ào trong căn phòng rộng thênh thang im phăng phắc này.
Nàng bước lại gần và chàng có thể ngửi thấy mùi hương của nàng, mùi nước hoa thoang thoảng tỏa ra từ váy áo, mùi da thịt và mái tóc, và mùi dìu dịu của... Cái gì đó... quá mỏng manh nên không thể đoán ra nhưng chắc chắn nó gợi nghĩ đến tấm chăn ga vẫn còn ấm hơi người. Rồi những hình ảnh khác hiện ra trước mắt chàng: làn da trắng ngà dưới ánh trăng, tiếng cười khúc khích của nàng, cơn dư chấn khi nàng cực khoái...
Chàng siết chặt hai tai - và nhận ra mình vẫn đang lăm lăm con dao. Chàng nới lỏng tay cho dễ chịu.
Chàng xua đuổi những hình ảnh đó ra khỏi tâm trí.
“Chúng đi rồi,” chàng nói.
Một ánh sáng hiện ra từ gác trưng bày. Herrick đứng đó, trong tấm áo choàng, tay cầm ngọn nến. “Tôi đã trấn an mọi người rồi, thưa ngài,” ông ta nói. “Những người đã nghe âm thanh ấy, dù nhiều dù ít. Có vẻ như âm thanh ấy không vang lên đến những tầng trên.”
“May cho họ,” Lisle lầm bầm.
“Tôi có nên cho mấy thanh niên đi rà soát khắp lâu đài và ngoài sân không, thưa ngài?”
“Giờ thì những nhạc công ma quái của chúng ta đã đi xa rồi,” Lisle nói. “Bảo mọi người quay lại giường đi.”
Lisle quay về phía Olivia. Mắt chàng đã quen hẳn với bóng tối, và chút ánh trăng lan vào phòng đủ để chàng thấy đường nét của chiếc váy rối rắm đầy dải ren gần như trong suốt của nàng. Chàng điều chỉnh ánh mắt mình sang bức tường gần nhất.
“Đêm nay chúng ta không tìm được chúng đâu,” chàng nói.
“Tất nhiên là không rồi,” nàng nói. “Chúng biết rõ vùng nông thôn này, còn những gia nhân người London của chúng ta sẽ chỉ lạc lối trong đêm rồi tự chuốc họa thôi.”
“Chắc chúng đã ở kia, trong phòng chờ của tầng hai,” chàng nói. Chỉ cách phòng ngủ của nàng mấy bước chân. “Trêu chọc chúng ta.” Chàng muốn đập tan thứ gì đó.
“Đúng vậy, tiếng động ấy khuấy đảo tất cả,” Olivia nói. “Chẳng ai muốn nghe tiếng kèn túi vào lúc nửa đêm, và khi người ta chơi kén túi tồi thì...”
“Sao em biết thế là tồi?”
“Dù chơi tốt hay tồi, đó là một tiếng động quỷ ám,” nàng nói.
“Ta rất tiếc vì không thể bắt được chúng,” chàng nói. “Ta rất muốn thấy em giáng cây cời lửa xuống cái thứ nhảm nhí kinh hãi đó. Đúng là chỉ có người Scotland mới chế tạo ra một thứ ma chê quỷ hờn như thế. Kèn túi. Thánh thần ơi.”
Nàng cười phá lên.
Tiếng cười ấy trượt xuống cổ chàng và để lại những đường nóng rực.
“Olivia, về giường đi,” chàng nói.
“Nhưng chắc chắn là ngài muốn...”
Phải, chắc chắn là ta muốn.
“Giờ chúng ta không nên nói chuyện,” chàng nói.
“Hãy động não. Nhìn xem em đang mặc gì kìa. Một trong hai chúng ta phải sáng suốt, và cả hai ta đều biết đó không phải là em. Về giường đi, và hãy cẩn thận với cây cời.”