Bàn tay đeo găng mà Olivia vừa cầm lấy thật là ấm áp và còn mạnh mẽ rắn rỏi hơn nàng nhớ. Khi bàn tay ấy đan vào tay nàng, cả cơ thể nàng ấm rực lên, điều ấy khiến nàng giật nẩy mình - nhưng đây quyết không phải là cú sốc đầu tiên của nàng trong đêm nay.
Trước đây nàng đã bao giờ cầm tay Lisle chưa? Nàng không tài nào nhớ được. Nhưng nàng thấy thật tự nhiên khi nắm tay chàng, đi bên chàng, dù chàng không còn là cậu bé nàng từng biết.
Ví như, chàng to lớn hơn rất nhiều, mà không chỉ về mặt thể xác, dù rằng chỉ riêng sự thay đổi ngoại hình ở chàng cũng đủ ấn tượng lắm rồi.
Mấy phút trước, khi lần đầu chàng tiến lại gần nàng, chàng đã chặn đứng tầm nhìn của nàng với mọi thứ khác trong gian phòng. Chàng luôn cao hơn nàng. Nhưng chàng không còn là một thiếu niên cao ngỏng nữa. Chàng đã trở thành đàn ông, phong thái đầy nam tính của chàng quả thực khiến người ta ngây ngất.
Nàng chẳng phải người duy nhất hoa mắt vì chàng. Trong đám người vây quanh nàng có mấy cô bạn gái. Nàng đã để ý thấy cách họ nhìn Lisle khi chàng tiến lại gần nàng. Giờ đây, khi chàng và nàng bước vào giữa đám đông, đi tới sàn khiêu vũ, nàng thấy bao nhiêu cái đầu quay lại - và lần này thì không chỉ có đàn ông, và không phải tất cả bọn họ đều nhìn nàng.
Nàng cũng đã nhìn chằm chằm ngay khi thấy chàng tiến vào đám đông, dù đã biết rất rõ về chàng. Chàng thu hút người khác bởi vì chàng chẳng giống ai.
Nàng âm thầm xét đoán, đánh giá chàng như nàng vẫn đánh giá mọi người, như bất kỳ ai giống DeLucey Đáng Sợ sẽ làm.
Mặt trời Ai Cập đã nhuộm sẫm da chàng thành màu đồng và tô sáng mái tóc chàng thành màu vàng nhạt, nhưng đó không phải là điểm duy nhất thay đổi ở chàng.
Chiếc áo choàng đen ôm lấy bờ vai vạm vỡ và thân hình mảnh dẻ của chàng, cái quần hằn lên đôi chân dài chắc nịch. Chiếc áo lanh của chàng trắng muốt, còn đôi giày thì đen bóng. Dù chàng cũng mặc đồ dạ tiệc nghiêm chỉnh như bao nhiêu thanh niên khác, nhưng chẳng hiểu sao có cảm giác như chàng không mặc áo quần đầy đủ, có lẽ bởi vì chẳng quý ông nào ý thức mạnh mẽ tới vậy về cơ thể cường tráng ẩn dưới lớp phục trang thanh lịch.
Nàng thấy nhiều cô gái để mắt tới chàng, ngừng trò chuyện để đánh giá chàng hoặc cố gắng bắt được ánh mắt của chàng.
Họ chỉ thấy cái vẻ bề ngoài. Nhưng nàng phải thừa nhận, chỉ riêng ngoại hình của chàng cũng đủ hấp dẫn rồi.
Nàng biết, trong những phương diện ẩn khuất hơn, chàng khác như thế này. Nền giáo dục của chàng không phải như của giới quý tộc thông thường. Daphne Carsington đã dạy dỗ chàng mọi điều, còn nhiều hơn cả những gì chàng học được từ trường trung học công lập và đại học. Rupert Carsington thì dạy chàng các kỹ năng sinh tồn mà chẳng mấy quý ông cần đến: ví như cách cầm dao, hay làm thế nào để quẳng một gã đàn ông qua cửa sổ.
Mấy chuyện này thì nàng rõ. Tuy nhiên, nàng không hề chuẩn bị cho sự thay đổi trong giọng nói của chàng: dấu hiệu lờ mờ như trêu ngươi của một nhịp điệu du dương không phải của tiếng Anh ẩn trong chất giọng quý tộc, và cái cách mà âm thanh ấy gợi lên hình ảnh lều bạt, khăn xếp và phụ nữ bán khỏa thân uể oải trên những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ.
Cách chàng di chuyển cũng không còn như trước đây nữa. Suốt gần mười năm, chàng đã sống trong một thế giới nguy hiểm và phức tạp, ở đó chàng học cách di chuyển lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo hoặc rắn mang bành.
Làn da màu đồng và mái tóc vàng khiến người ta nghĩ đến loài hổ, nhưng như thế không lột tả được sự thay đổi của chàng. Chàng di chuyển như... nước. Khi chàng len qua đám đông, mọi người không ngừng rì rầm bàn tán. Quan sát chàng bước đi, phụ nữ ngất ngây choáng ngợp còn đàn ông thì tính chuyện giết chàng.
Là người đã học được cách nhận thức mọi thứ xung quanh, chàng biết rất rõ điều này, nàng chắc chắn như thế, mặc dù gương mặt chàng chẳng biểu lộ điều gì.
Nhưng vì đã quen chàng từ lâu, nàng biết rõ rằng con người chàng không lạnh lùng như bề ngoài. Ẩn dưới vẻ mô phạm, logic là bản tính bướng bỉnh, dữ dội. Nàng ngờ rằng bản tính ấy không hề thay đổi.
Hơn thế, chàng còn rất nóng nảy - theo chàng bảo thì gần đây cái tính này ngày càng khắc nghiệt hơn.
Nàng giật tay chàng. Chàng nhìn xuống nàng. Dưới ánh nến, đôi mắt xám của chàng lấp lánh ánh bạc.
“Lối này,” nàng cất tiếng.
Nàng dẫn chàng đi ngang qua một đám người hầu đang bê khay, buông tay chàng ra để lấy hai ly sâm banh trên một cái khay, rồi đi ra khỏi phòng khiêu vũ, bước tới hành lang rồi từ đó tiến sang phòng chờ. Sau một giây ngập ngừng, chàng theo nàng vào trong.
“Đóng cửa lại,” nàng nói.
“Olivia,” chàng nhắc.
“Ôi thôi nào,” nàng nói. “Cứ như em còn chút phẩm hạnh nào để mất không bằng.”
Chàng đóng cửa lại. “Sự thật là em có phẩm hạnh, dù ta tin chắc hẳn em đã phá hủy nó trong mấy năm vừa rồi.”
“Có rất ít thứ mà tiền bạc và địa vị không thể mua, trong đó có phẩm hạnh,” nàng đáp. “Ngài hãy cầm lấy một ly để em được chính thức chào đón ngài về nhà.” Chàng đỡ lấy chiếc ly nàng đưa, những ngón tay đeo găng của chàng khẽ chạm phải tay nàng.
Cái va chạm khiến nàng cảm thấy nhói lên dưới lớp găng, dưới làn da. Cả trái tim nàng cũng nhói lên và đập hối hả.
Nàng lùi nửa bước, và chạm ly với chàng.
“Mừng ngài về nhà, bạn thân mến của em,” nàng nói. “Chưa có ai em gặp mà lại thấy vui như khi gặp ngài.”
Nàng muốn quăng mình vào chàng và vòng tay qua cổ chàng. Đáng lý nàng đã làm như thế, bất chấp mọi phép tắc xã hội, nhưng cái nhìn từ đôi mắt lấp lánh của chàng khi lần đầu chạm phải mắt nàng đã khiến nàng phải dừng lại.
Chàng là bạn nàng, phải, và trên đời này chỉ có mỗi Bà Cố hiểu nàng hơn chàng. Nhưng giờ chàng đã là một người đàn ông, không còn là cậu bé mà nàng từng biết nữa.
“Em đã chán ngấy những trò điên rồ,” nàng nói tiếp, “nhưng khi phát hiện ra ngực em, vẻ mặt ngài quả là hết sức khôi hài. Đó là tất cả những gì em có thể làm để giữ mặt nghiêm trang.”
Giờ đây chàng lại nhìn vào đó, từ nơi ấy sức nóng dấy lên, lan rộng và ngấm sâu. Trong một chốc, nàng lại rịn mồ hôi, đúng như lúc trước, khi chàng nhìn nàng lần đầu tiên. Đó là lời cảnh báo mà nàng cần: Đừng đùa với ngọn lửa này.
Chàng ngắm nghía bộ ngực của nàng với vẻ nghiêm túc, y như chàng đang nghiên cứu một dòng chữ tượng hình. “Lần cuối gặp em, ta đâu có thấy nó,” chàng bảo. “Ta quá bối rối. Em lấy nó từ đâu ra vậy?”
“Em lấy nó từ đâu ra ư?” Trời ơi, chàng vẫn như xưa, rối bời vì bộ ngực của nàng cứ như thể nó là một mảnh gốm cổ. “Nó cứ thế phát triển thôi. Mọi thứ đều phát triển. Rất chậm. Điều đó không lạ hay sao? Về mọi phương diện, em đều phát triển sớm hơn bạn bè đồng lứa cơ mà.” Nàng nhấp rượu. “Nhưng đừng bận tâm tới ngực của em, Lisle.”
“Em thì nói thế nào chẳng được. Em đâu phải đàn ông. Còn ta thì chưa quen với nó.”
Nàng cũng chưa quen với cảm giác khi chàng nhìn nàng theo cách đó. Nàng bật cười khanh khách, “Ôi, vậy thì cứ nhìn đi, nếu ngài phải làm thế. Bà Cố nói với em rằng khi đàn ông không muốn nhìn vào đó nữa thì ta trở thành cát bụi, và em nên tận hưởng nó chừng nào còn có thể.”
“Bà chẳng thay đổi chút nào.”
“Bà dễ tổn thương hơn và chóng chán hơn trước, mặc dù bà vẫn còn hăng hái lắm. Em không biết mình sẽ làm gì khi không còn bà nữa.”
Bà Cố là bạn tâm tình của Olivia, người duy nhất biết mọi bí mật của nàng. Nàng không thể kể hết mọi chuyện với mẹ hay dượng. Họ đã cố gắng hết sức với nàng rồi. Sự thật sẽ chỉ khiến họ đau lòng mà thôi. Nàng phải bảo vệ họ khỏi điều đó.
“Tối nay Ta không biết phải làm gì nếu không có bà,” Lisle nói. “Bà đã giam lỏng cha mẹ ta cho ta thoát thân.” Chàng luồn tay vò tóc mình thành một mớ rối nùi, phụ nữ mà thấy chắc phát ngất mất. “Ta biết là không nên bận tâm vì họ, nhưng xem ra ta không giỏi nghệ thuật phớt lờ họ.”
“Lần này ngài không thể lờ chuyện gì vậy?” nàng hỏi.
Chàng nhún vai. “Một trò điên như thường lệ. Không cần phải đi vào chi tiết để làm em phát chán.”
Nàng biết cha mẹ là nỗi khổ mà chàng phải chịu đựng. Cả thế giới của họ chỉ xoay tròn quanh họ. Mọi người khác, kể cả con cái, chỉ là diễn viên trong vở kịch lớn của cuộc đời họ mà thôi.
Bà Cố là người duy nhất có thể dễ dàng lôi họ về với hiện thực, bởi vì bà chỉ nói và làm những gì mình thích. Mọi người khác hoặc quá bối rối, hoặc quá tử tế lịch sự, cũng có thể họ không cần phải chuốc lấy rắc rối làm gì. Ngay cả cha dượng của nàng cũng chẳng làm được gì hơn ngoài việc kiềm chế họ, mà chỉ thế cũng đủ thử thách khả năng bình tĩnh của ông rồi, thế nên ông chỉ can thiệp trong những trường hợp quá khích thôi.
“Ngài phải nói em nghe mọi chuyện,” nàng nói. “Em rất khoái tính điên khùng của ông bà Atherton. Khi đứng cạnh họ, em cảm thấy mình hoàn toàn nghiêm trang, có lý và ngu ngơ đến duyên dáng.”
Chàng khẽ mỉm cười, khóe miệng bên phải hơi nhếch lên.
Tim nàng đột nhiên chao đảo.
Nàng bước tới thả mình xuống một chiếc ghế bành bọc đệm dày cộp đặt bên lò sưởi. “Lại đây sưởi ấm đi,” nàng nói. “Phòng khiêu vũ nóng như địa ngục ấy, nhưng em biết là ngài không cảm thấy thế. Tránh xa khỏi những tấm thân ấm áp ấy, hẳn ngài nghĩ mình đang ở trong nhà mồ.” Nàng khoát tay chỉ vào chiếc ghế đối diện. “Nói em nghe giờ cha mẹ ngài muốn gì ở ngài.”
Chàng đi lại gần lò sưởi nhưng không ngồi xuống ghế. Chàng nhìn lò sưởi hồi lâu, rồi nhìn nàng, nhưng chỉ trong chốc lát, rồi lại quay về phía ánh lửa mê hoặc.
“Họ muốn ta xử lý một lâu đài đổ nát của nhà ta, cách Edinburgh khoảng mười dặm,” chàng nói.
“Ôi lạ quá,” Olivia thốt lên sau khi Lisle đã tóm tắt xong màn kịch của cha mẹ chàng. Chàng biết nàng có thể tự mình thêm thắt vào những chi tiết đầy tính kịch. Trong chín năm trở lại đây, nàng ở bên cha mẹ chàng còn nhiều hơn cả chàng.
“Ta ước chuyện này có gì đó lạ,” chàng nói. “Nhưng với cha mẹ ta thì có gì lạ đâu.”
“Ý em là chuyện ma mãnh ấy,” nàng nói. “Thật lạ khi vì ma quỷ mà công nhân không chịu tới làm. Thử nghĩ xem có bao nhiêu bóng ma ám Tháp London. Có gã đao phủ đuổi nữ Bá tước xứ Salisbury vòng quanh đoạn đầu đài.”
“Anne Boleyn cầm cái đầu của bà ấy.”
“Những hoàng tử trẻ,” nàng nói. “Đấy mới chỉ là vài bóng ma thôi đấy - và mới chỉ là một tòa nhà thôi đấy. Khắp đất nước này chỗ nào mà chẳng có ma, thế nhưng xem ra có ai bận tâm đâu. Thật kỳ lạ khi những công nhân Scotland đó lại thấy sợ. Thế mà em cử tưởng họ thích bị ám cơ đấy.”
“Ta cũng đã nói thế với cha mẹ, nhưng logic là thứ ngôn ngữ mà họ từ chối hiểu,” chàng nói. “Chuyện này chả liên quan gì đến ma mãnh hay lâu đài cả, thật đấy. Đơn giản chỉ là để giữ ta ở nhà thôi.”
“Nhưng ở đây ngài sẽ phát rồ lên mất,” nàng nói.
Nàng luôn hiểu, từ cái ngày hai người gặp nhau và chàng nói với nàng về quyết định đi Ai Cập của mình. Nàng đã gọi đó là Hành trình Chinh phục.
“Lẽ ra ta không nên lấy đó làm phiền,” chàng nói, “nếu họ thực sự cần ta ở đây. Các em trai ta cần ta - chúng cần ai đó - nhưng ta không biết phải làm gì. Nếu ta đưa bọn nhỏ sang Ai Cập thì chưa chắc cha mẹ ta đã nhớ chúng. Nhưng chúng còn bé quá. Trẻ con lớn lên giữa khí hậu miền Bắc khó mà phát triển khỏe mạnh được ở đó.”
Nàng hơi ngửa đầu ra sau ngước nhìn chàng. Khi đôi mắt xanh to tròn ấy nhìn lên khuôn mặt chàng, có điều gì đó xảy ra bên trong chàng, những điều cực kỳ phức tạp, không chỉ liên quan đến bản năng thú vật và cơ quan sinh sản của chàng. Những điều đó nẩy lên trong lồng ngực khiến chàng cảm thấy nhoi nhói như bị kim châm.
Chàng quay mặt đi, lại nhìn vào lò sưởi.
“Ngài sẽ làm gì?” nàng hỏi.
“Ta chưa quyết định,” chàng đáp. “Cái gọi là khủng hoảng chỉ mới nổ ra mấy phút trước khi gia đình ta đi dự tiệc tối nay. Ta chưa có thời gian để nghĩ xem phải làm gì. Nói thế không có nghĩa là ta định làm gì với cái lâu đài vớ vẩn đó. Ta cần nghĩ đến mấy đứa em. Ta sẽ phải dành thêm thời gian cho chúng, rồi sau đó sẽ quyết định.”
“Ngài nói đúng,” nàng nói. “Cái lâu đài ấy đâu đáng để chàng bận tâm. Thật quá lãng phí thời gian. Nếu ngài...”
Nàng ngừng lại giữa chừng vì cánh cửa bật mở và Quý bà Rathbourne bước vào. Tóc đen sẫm, mắt không xanh như mắt cô con gái, nhưng bà vẫn là một nhan sắc tuyệt trần.
Với bà, Lisle luôn có cảm giác bình yên, quý mến và không bị xáo trộn.
“Vì Chúa, Olivia, Belder đã tìm con khắp nơi,” bà nói. “Con đã hứa sẽ khiêu vũ với cậu ta cơ mà. Lisle, đáng lẽ cháu phải hiểu biết hơn mới phải, sao lại để Olivia lôi kéo cháu vào một nơi riêng tư như thế.”
“Mẹ à, bọn con đã không gặp nhau năm năm rồi!”
“Lisle có thể gọi con vào ngày mai, nếu cậu ấy không ngại xông xáo qua một đám quý ông trì độn,” bà Rathbourne lên tiếng. “Lúc này, những cô gái trẻ khác đang la hò đòi nhảy với cậu ấy đấy. Cậu ấy đâu phải của riêng con, và sự vắng mặt quá lâu của con sẽ khiến Belder kích động đấy. Thôi nào, Lisle, ta chắc cháu không muốn kết thúc bữa tiệc bằng việc đánh nhau với một trong những người cầu hôn lúc nào cũng sôi sục ghen tuông của Olivia, những kẻ khờ khạo đáng thương. Quá lố bịch không thể diễn tả thành lời.”
Họ rời khỏi phòng chờ, Lisle và Olivia chia tay nhau, nàng tới với ngài Belder và những gã si tình khác, còn chàng bước vào vòng vây của những cô gái không giống nàng, như thể họ thuộc về những giống loài khác.
Cho tới tận khuya, khi đang khiêu vũ với một cô gái, chàng mới nhớ ra điều mà mình đã nhìn thấy, ngay trước khi phu nhân Rathbourne cắt ngang cuộc trò chuyện của hai người: đó là tia sáng lấp lánh trong đôi mắt xanh ngời của Olivia trước khi sự biểu lộ của họ chuyển sang hướng vào nội tâm theo cái kiểu mà chàng đã học được cách nhận biết từ nhiều năm trước.
Suy tính. Lúc ấy nàng đang suy tính.
Và điều đó, như mẹ nàng có thể nói với bất cứ ai bà gặp, luôn rất nguy hiểm.
Dinh thự Somerset, London
Thứ Tư, ngày 5, tháng Mười
Đây không phải là cuộc gặp chính thức của Hội Khảo cổ. Thứ nhất, họ thường họp vào thứ Năm. Thứ hai, phải tháng Mười một mới đến kỳ họp.
Nhưng Lisle chẳng mấy khi trở về London, mà có vẻ như chàng sẽ lại đi trước tháng Mười một. Mọi học giả hứng thú với những di tích cổ của Ai Cập đều muốn nghe chàng nói chuyện, và dù diễn ra khá đột ngột nhưng sự kiện này vẫn thu hút rất đông người tới dự.
Lần về nhà gần đây nhất, chàng mới mười tám tuổi, tuy nhiên chàng đã trình bày một tài liệu rất đáng chú ý về tên của các pharaoh Ai Cập. Nói chính xác thì giải mã chữ tượng hình vốn là chuyên môn của Daphne Carsington. Ai cũng biết điều này. Ai cũng biết bà là một thiên tài. Vấn đề ở chỗ bà là phụ nữ. Phải có một người đàn ông đại diện cho bà, nếu không các khám phá và học thuyết của bà sẽ gặp phải sự đả kích châm biếm không thương tiếc từ đám đông toàn những kẻ to mồm sự và ghét phụ nữ thông minh, chưa kể lại còn thông minh hơn họ.
Em trai bà, người thường đại diện cho bà, đã ra nước ngoài. Chồng bà, Rupert Carsington, dù không ngốc nghếch như mọi người vẫn tưởng nhưng không thể nào đọc hết một bài nghiên cứu mà mặt mày vẫn tươi tỉnh - ấy là nếu ông không ngủ gật mất trong lúc đang đọc.
Vì Lisle và bà Daphne đã cộng tác nhiều năm nay, và vì chàng luôn tuyệt đối đề cao khả năng của bà, nên chàng vô cùng hạnh phúc được đại diện trình bày bài viết mới nhất của bà với sự trang trọng mà nó đáng được nhận.
Nhưng có một vị khán giả cho rằng toàn bộ bài viết ấy là trò lố.
Ngài Belder ngồi ở hàng đầu, ngay cạnh Olivia, anh ta đã chế nhạo từng lời Lisle thốt ra.
Nếu anh ta đang cố gây ấn tượng với Olivia bằng trò đó thì đúng nhầm to rồi.
Nhưng có vẻ như Belder chỉ muốn chọc tức Lisle. Hôm qua, khi Lisle gọi Olivia, chắc hẳn anh ta cũng ở đó. Nhưng khi ấy có đến phân nửa thế giới đang ở nhà cha mẹ nàng, thế nên Lisle chỉ nói được đôi lời với nàng. Chàng nói với nàng về bài viết chàng sẽ trình bày, nàng bảo nàng sẽ tới nghe, và Belder bảo rằng anh ta sẽ hộ tống nàng. Anh ta tuyên bố: Anh ta không tưởng tượng được mình lại có thể bỏ lỡ “bài giảng nho nhỏ” của ngài Lisle.
Tính khí Lisle rất dễ nổi nóng. Lúc này, vì danh dự của Daphne nên chàng bực điên lên: Belder đang nhạo báng công trình nghiên cứu vất vả của bà. Nhưng chàng tự nhủ, thằng ngớ ngẩn này sẽ không thể khua môi múa mép thêm nữa. Đây đâu phải phòng khiêu vũ hay dạ hội, và những khán giả có mặt cũng chẳng tài nào kiên nhẫn nổi với kiểu cư xử của Belder.
Quả nhiên, Lisle vừa nghĩ đến đó thì một học giả đã lên tiếng. “Thưa ông,” quý ông đó lạnh lùng nói, “ông làm ơn để dành sự dí dỏm của mình cho một hoàn cảnh thích hợp: Ví như câu lạc bộ của ông, hoặc tiệm cà phê hay quán rượu nào đó chẳng hạn. Chúng tôi tới đây để nghe quý ông trên bục diễn thuyết, không phải nghe ông nói.”
Lisle vờ phủi vết bụi bám trên giấy. Không hề ngẩng lên, chàng cất tiếng, “Dí dỏm ư? Đấy có phải là sự dí dỏm không nhỉ? Tôi xin lỗi, ngài Belder, vì đã không hưởng ứng lời bình luận của ngài. Tôi lại nhầm tưởng ngài là một vị thánh cơ đấy.”
“Một vị thánh?” Belder cười lớn - rõ ràng là đang làm bộ làm tịch với Olivia, để tỏ ra mình chẳng quan tâm tới chuyện vừa bị mắng giữa đám đông như một cậu học trò thô lỗ.
“Đúng thế,” Lisle nói. “Ngài biết đấy, ở Ai Cập, những kẻ chậm hiểu hay mít đặc đều bị gọi là thánh, và sự quái dị của chúng từ dáng vẻ, lời nói tới hành động đều được xem là dấu hiệu ban phước của thần linh.”
Đám đông khán giả cười ầm lên. Các học giả ra sức châm chọc Belder để trả đũa. Đáp lại họ, mặt anh ta còn đỏ hơn cả tóc của Olivia.
Chấp nhận thái độ xin được bỏ qua của Belder, Lisle trình bày phần còn lại công trình nghiên cứu của Daphne trong hòa bình.
Khi Lisle trả lời xong các câu hỏi và khán giả bắt đầu giải tán, chàng băng qua đám đông vây quanh Olivia - đúng là một bầy gà ngu ngốc túm tụm xung quanh một con cá sấu mơ màng, chàng thầm nghĩ - và đề nghị đưa nàng về nhà. Quay người khỏi Belder, nàng dành tặng cho Lisle một nụ cười ngất ngây tới nỗi chàng không dám nhìn thẳng trong một lúc. Rồi nàng khoác tay chàng. Họ đi ra xe ngựa. Theo sau là Bailey, người hầu của nàng.
Cô hầu đặt bậc tam cấp lên xe ngựa, Olivia đang đi về phía đó thì trên vỉa hè một thằng bé lao như bay tới. Nó phi hết tốc lực, luồn lách qua đám đông các học giả đang vừa thả bộ dọc phố Strand vừa tranh luận về pharaoh.
Nó lách qua Lisle, nhưng rồi đứng sững lại khi thấy Olivia, nhan sắc rực rỡ của nàng khiến nó mờ mắt và mất thăng bằng. Nó chùn chân và mất tập trung, dù vẫn tiếp tục chạy.
Đúng lúc đó, ngài Belder đang vội vã bước về phía xe ngựa của Olivia. Thằng bé đâm sầm vào anh ta, và cả hai cùng loạng choạng. Nó ngã xuống vỉa hè còn Belder ngã vào rãnh nước.
Thằng bé lồm cồm đứng lên, nhìn Belder vẻ khiếp đảm rồi lại cắm đầu chạy.
“Thằng trộm kia, đứng lại!” Belder gầm lên. Hai người bạn của anh ta tóm lấy thằng bé khi nó cố chạy qua họ.
Ngài Belder đứng lên khỏi rãnh nước. Người quen đi ngang qua đều châm chọc anh ta không ngớt: “Vừa ngủ dậy à Belder?” hoặc “Kia có phải là loại sữa tắm dưỡng da mới nhất không, Belder?”, cứ thế cứ thế.
Rác rưởi bùn lầy nâu nâu đen đen nhuốm bẩn cái quần màu be và chiếc áo màu xanh của ngài Belder, cả cái nơ bướm chải chuốt, áo vest và găng tay nữa. Anh ta nhìn xuống bộ quần áo, rồi nhìn sang thằng bé. Cái nhìn khiến thằng bé sợ co người lại và hét lên, “Chỉ là tai nạn thôi, thưa ngài! Tôi không lấy gì cả!”
“Đúng đấy,” Olivia nói át tiếng thằng bé. “Em thấy chuyện xảy ra mà. Nếu ăn trộm, thằng bé sẽ...”
“Em cứ đợi trong xe ngựa, để ta giải quyết chuyện này,” Lisle cắt ngang trước khi nàng kịp giải thích rằng phải xử sự bần tiện thế nào thì mới là kẻ trộm được. Xét cho cùng, nàng là chuyên gia trong chuyện này.
“Đừng có ngớ ngẩn,” nàng nói. “Em có thể giải quyết chuyện này.”
Lisle cố dẫn nàng đi, nhưng nàng giật tay chàng ra và bước tới chỗ mấy người đàn ông đang tóm chặt thằng bé.
“Để nó đi,” nàng nói. “Đó chỉ là tai nạn.”
Với Lisle, những dấu hiệu cảnh báo đã rất rõ ràng: cổ và má nàng đỏ bừng lên, và cái cách nàng nhấn mạnh từ “tai nạn” như kiểu đang ngầm rủa Các anh là đồ ngu.
Khi không thể dùng sức mạnh để kéo nàng đi thì chàng buộc phải nói thật to để át nàng đi. Nhưng Belder đã lên tiếng trước.
“Em không biết lũ khốn nạn này làm trò gì đâu, tiểu thư Carsington ạ,” anh ta nói. “Chúng lao vào người ta là có mục đích, để trộm ví của ta.”
Lisle lên tiếng, “Có thể là thế nhưng...”
“Không phải cậu bé này,” Olivia tiếp lời. “Nếu đúng là trộm thì sẽ rất nhanh và chính xác, anh chẳng tài nào phát hiện ra nó đâu. Nó sẽ để ý sao cho không đâm phải anh và không thu hút mọi người chú ý vào nó, và nó sẽ không dừng lại mà bỏ chạy ngay. Hơn nữa, chúng thường có đồng bọn.”
Nàng nói quá đúng, bất cứ kẻ có lý trí nào cũng nhận ra điều này.
Nhưng Belder đang giận sôi gan, và thằng bé là mục tiêu gần nhất. Anh ta chỉ mỉm cười kẻ cả với Olivia rồi quay sang đám đông đứng xem xung quanh. “Ai đó gọi cảnh sát đi,” anh ta hô lớn.
“Không!” thằng bé la lên. “Tôi không lấy gì cả!”
Nó giằng giật, cố thoát thân.
Ngài Belder ghì đầu thằng bé xuống.
“Anh là kẻ đại ngu!” Olivia gào lên. Nàng liên tiếp đập mạnh cái ô gập lên vai anh ta.
“Ối!”
“Thả thằng bé ra!” Nàng quật ô vào mấy gã đang giữ thằng bé.
Belder giữ tay nàng để ngăn không cho nàng đánh bạn anh ta.
Lisle thấy bàn tay đeo cái găng bẩn thỉu tóm lấy cánh tay Olivia. Chàng thấy giận điên người.
Chàng bước lên, túm chặt lấy cánh tay Belder giật mạnh ra. “Đừng chạm vào cô ấy,” chàng gằn giọng. “Đừng bao giờ chạm vào cô ấy.”
Bàn tay đeo găng mà Olivia vừa cầm lấy thật là ấm áp và còn mạnh mẽ rắn rỏi hơn nàng nhớ. Khi bàn tay ấy đan vào tay nàng, cả cơ thể nàng ấm rực lên, điều ấy khiến nàng giật nẩy mình - nhưng đây quyết không phải là cú sốc đầu tiên của nàng trong đêm nay.
Trước đây nàng đã bao giờ cầm tay Lisle chưa? Nàng không tài nào nhớ được. Nhưng nàng thấy thật tự nhiên khi nắm tay chàng, đi bên chàng, dù chàng không còn là cậu bé nàng từng biết.
Ví như, chàng to lớn hơn rất nhiều, mà không chỉ về mặt thể xác, dù rằng chỉ riêng sự thay đổi ngoại hình ở chàng cũng đủ ấn tượng lắm rồi.
Mấy phút trước, khi lần đầu chàng tiến lại gần nàng, chàng đã chặn đứng tầm nhìn của nàng với mọi thứ khác trong gian phòng. Chàng luôn cao hơn nàng. Nhưng chàng không còn là một thiếu niên cao ngỏng nữa. Chàng đã trở thành đàn ông, phong thái đầy nam tính của chàng quả thực khiến người ta ngây ngất.
Nàng chẳng phải người duy nhất hoa mắt vì chàng. Trong đám người vây quanh nàng có mấy cô bạn gái. Nàng đã để ý thấy cách họ nhìn Lisle khi chàng tiến lại gần nàng. Giờ đây, khi chàng và nàng bước vào giữa đám đông, đi tới sàn khiêu vũ, nàng thấy bao nhiêu cái đầu quay lại - và lần này thì không chỉ có đàn ông, và không phải tất cả bọn họ đều nhìn nàng.
Nàng cũng đã nhìn chằm chằm ngay khi thấy chàng tiến vào đám đông, dù đã biết rất rõ về chàng. Chàng thu hút người khác bởi vì chàng chẳng giống ai.
Nàng âm thầm xét đoán, đánh giá chàng như nàng vẫn đánh giá mọi người, như bất kỳ ai giống DeLucey Đáng Sợ sẽ làm.
Mặt trời Ai Cập đã nhuộm sẫm da chàng thành màu đồng và tô sáng mái tóc chàng thành màu vàng nhạt, nhưng đó không phải là điểm duy nhất thay đổi ở chàng.
Chiếc áo choàng đen ôm lấy bờ vai vạm vỡ và thân hình mảnh dẻ của chàng, cái quần hằn lên đôi chân dài chắc nịch. Chiếc áo lanh của chàng trắng muốt, còn đôi giày thì đen bóng. Dù chàng cũng mặc đồ dạ tiệc nghiêm chỉnh như bao nhiêu thanh niên khác, nhưng chẳng hiểu sao có cảm giác như chàng không mặc áo quần đầy đủ, có lẽ bởi vì chẳng quý ông nào ý thức mạnh mẽ tới vậy về cơ thể cường tráng ẩn dưới lớp phục trang thanh lịch.
Nàng thấy nhiều cô gái để mắt tới chàng, ngừng trò chuyện để đánh giá chàng hoặc cố gắng bắt được ánh mắt của chàng.
Họ chỉ thấy cái vẻ bề ngoài. Nhưng nàng phải thừa nhận, chỉ riêng ngoại hình của chàng cũng đủ hấp dẫn rồi.
Nàng biết, trong những phương diện ẩn khuất hơn, chàng khác như thế này. Nền giáo dục của chàng không phải như của giới quý tộc thông thường. Daphne Carsington đã dạy dỗ chàng mọi điều, còn nhiều hơn cả những gì chàng học được từ trường trung học công lập và đại học. Rupert Carsington thì dạy chàng các kỹ năng sinh tồn mà chẳng mấy quý ông cần đến: ví như cách cầm dao, hay làm thế nào để quẳng một gã đàn ông qua cửa sổ.
Mấy chuyện này thì nàng rõ. Tuy nhiên, nàng không hề chuẩn bị cho sự thay đổi trong giọng nói của chàng: dấu hiệu lờ mờ như trêu ngươi của một nhịp điệu du dương không phải của tiếng Anh ẩn trong chất giọng quý tộc, và cái cách mà âm thanh ấy gợi lên hình ảnh lều bạt, khăn xếp và phụ nữ bán khỏa thân uể oải trên những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ.
Cách chàng di chuyển cũng không còn như trước đây nữa. Suốt gần mười năm, chàng đã sống trong một thế giới nguy hiểm và phức tạp, ở đó chàng học cách di chuyển lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo hoặc rắn mang bành.
Làn da màu đồng và mái tóc vàng khiến người ta nghĩ đến loài hổ, nhưng như thế không lột tả được sự thay đổi của chàng. Chàng di chuyển như... nước. Khi chàng len qua đám đông, mọi người không ngừng rì rầm bàn tán. Quan sát chàng bước đi, phụ nữ ngất ngây choáng ngợp còn đàn ông thì tính chuyện giết chàng.
Là người đã học được cách nhận thức mọi thứ xung quanh, chàng biết rất rõ điều này, nàng chắc chắn như thế, mặc dù gương mặt chàng chẳng biểu lộ điều gì.
Nhưng vì đã quen chàng từ lâu, nàng biết rõ rằng con người chàng không lạnh lùng như bề ngoài. Ẩn dưới vẻ mô phạm, logic là bản tính bướng bỉnh, dữ dội. Nàng ngờ rằng bản tính ấy không hề thay đổi.
Hơn thế, chàng còn rất nóng nảy - theo chàng bảo thì gần đây cái tính này ngày càng khắc nghiệt hơn.
Nàng giật tay chàng. Chàng nhìn xuống nàng. Dưới ánh nến, đôi mắt xám của chàng lấp lánh ánh bạc.
“Lối này,” nàng cất tiếng.
Nàng dẫn chàng đi ngang qua một đám người hầu đang bê khay, buông tay chàng ra để lấy hai ly sâm banh trên một cái khay, rồi đi ra khỏi phòng khiêu vũ, bước tới hành lang rồi từ đó tiến sang phòng chờ. Sau một giây ngập ngừng, chàng theo nàng vào trong.
“Đóng cửa lại,” nàng nói.
“Olivia,” chàng nhắc.
“Ôi thôi nào,” nàng nói. “Cứ như em còn chút phẩm hạnh nào để mất không bằng.”
Chàng đóng cửa lại. “Sự thật là em có phẩm hạnh, dù ta tin chắc hẳn em đã phá hủy nó trong mấy năm vừa rồi.”
“Có rất ít thứ mà tiền bạc và địa vị không thể mua, trong đó có phẩm hạnh,” nàng đáp. “Ngài hãy cầm lấy một ly để em được chính thức chào đón ngài về nhà.” Chàng đỡ lấy chiếc ly nàng đưa, những ngón tay đeo găng của chàng khẽ chạm phải tay nàng.
Cái va chạm khiến nàng cảm thấy nhói lên dưới lớp găng, dưới làn da. Cả trái tim nàng cũng nhói lên và đập hối hả.
Nàng lùi nửa bước, và chạm ly với chàng.
“Mừng ngài về nhà, bạn thân mến của em,” nàng nói. “Chưa có ai em gặp mà lại thấy vui như khi gặp ngài.”
Nàng muốn quăng mình vào chàng và vòng tay qua cổ chàng. Đáng lý nàng đã làm như thế, bất chấp mọi phép tắc xã hội, nhưng cái nhìn từ đôi mắt lấp lánh của chàng khi lần đầu chạm phải mắt nàng đã khiến nàng phải dừng lại.
Chàng là bạn nàng, phải, và trên đời này chỉ có mỗi Bà Cố hiểu nàng hơn chàng. Nhưng giờ chàng đã là một người đàn ông, không còn là cậu bé mà nàng từng biết nữa.
“Em đã chán ngấy những trò điên rồ,” nàng nói tiếp, “nhưng khi phát hiện ra ngực em, vẻ mặt ngài quả là hết sức khôi hài. Đó là tất cả những gì em có thể làm để giữ mặt nghiêm trang.”
Giờ đây chàng lại nhìn vào đó, từ nơi ấy sức nóng dấy lên, lan rộng và ngấm sâu. Trong một chốc, nàng lại rịn mồ hôi, đúng như lúc trước, khi chàng nhìn nàng lần đầu tiên. Đó là lời cảnh báo mà nàng cần: Đừng đùa với ngọn lửa này.
Chàng ngắm nghía bộ ngực của nàng với vẻ nghiêm túc, y như chàng đang nghiên cứu một dòng chữ tượng hình. “Lần cuối gặp em, ta đâu có thấy nó,” chàng bảo. “Ta quá bối rối. Em lấy nó từ đâu ra vậy?”
“Em lấy nó từ đâu ra ư?” Trời ơi, chàng vẫn như xưa, rối bời vì bộ ngực của nàng cứ như thể nó là một mảnh gốm cổ. “Nó cứ thế phát triển thôi. Mọi thứ đều phát triển. Rất chậm. Điều đó không lạ hay sao? Về mọi phương diện, em đều phát triển sớm hơn bạn bè đồng lứa cơ mà.” Nàng nhấp rượu. “Nhưng đừng bận tâm tới ngực của em, Lisle.”
“Em thì nói thế nào chẳng được. Em đâu phải đàn ông. Còn ta thì chưa quen với nó.”
Nàng cũng chưa quen với cảm giác khi chàng nhìn nàng theo cách đó. Nàng bật cười khanh khách, “Ôi, vậy thì cứ nhìn đi, nếu ngài phải làm thế. Bà Cố nói với em rằng khi đàn ông không muốn nhìn vào đó nữa thì ta trở thành cát bụi, và em nên tận hưởng nó chừng nào còn có thể.”
“Bà chẳng thay đổi chút nào.”
“Bà dễ tổn thương hơn và chóng chán hơn trước, mặc dù bà vẫn còn hăng hái lắm. Em không biết mình sẽ làm gì khi không còn bà nữa.”
Bà Cố là bạn tâm tình của Olivia, người duy nhất biết mọi bí mật của nàng. Nàng không thể kể hết mọi chuyện với mẹ hay dượng. Họ đã cố gắng hết sức với nàng rồi. Sự thật sẽ chỉ khiến họ đau lòng mà thôi. Nàng phải bảo vệ họ khỏi điều đó.
“Tối nay Ta không biết phải làm gì nếu không có bà,” Lisle nói. “Bà đã giam lỏng cha mẹ ta cho ta thoát thân.” Chàng luồn tay vò tóc mình thành một mớ rối nùi, phụ nữ mà thấy chắc phát ngất mất. “Ta biết là không nên bận tâm vì họ, nhưng xem ra ta không giỏi nghệ thuật phớt lờ họ.”
“Lần này ngài không thể lờ chuyện gì vậy?” nàng hỏi.
Chàng nhún vai. “Một trò điên như thường lệ. Không cần phải đi vào chi tiết để làm em phát chán.”
Nàng biết cha mẹ là nỗi khổ mà chàng phải chịu đựng. Cả thế giới của họ chỉ xoay tròn quanh họ. Mọi người khác, kể cả con cái, chỉ là diễn viên trong vở kịch lớn của cuộc đời họ mà thôi.
Bà Cố là người duy nhất có thể dễ dàng lôi họ về với hiện thực, bởi vì bà chỉ nói và làm những gì mình thích. Mọi người khác hoặc quá bối rối, hoặc quá tử tế lịch sự, cũng có thể họ không cần phải chuốc lấy rắc rối làm gì. Ngay cả cha dượng của nàng cũng chẳng làm được gì hơn ngoài việc kiềm chế họ, mà chỉ thế cũng đủ thử thách khả năng bình tĩnh của ông rồi, thế nên ông chỉ can thiệp trong những trường hợp quá khích thôi.
“Ngài phải nói em nghe mọi chuyện,” nàng nói. “Em rất khoái tính điên khùng của ông bà Atherton. Khi đứng cạnh họ, em cảm thấy mình hoàn toàn nghiêm trang, có lý và ngu ngơ đến duyên dáng.”
Chàng khẽ mỉm cười, khóe miệng bên phải hơi nhếch lên.
Tim nàng đột nhiên chao đảo.
Nàng bước tới thả mình xuống một chiếc ghế bành bọc đệm dày cộp đặt bên lò sưởi. “Lại đây sưởi ấm đi,” nàng nói. “Phòng khiêu vũ nóng như địa ngục ấy, nhưng em biết là ngài không cảm thấy thế. Tránh xa khỏi những tấm thân ấm áp ấy, hẳn ngài nghĩ mình đang ở trong nhà mồ.” Nàng khoát tay chỉ vào chiếc ghế đối diện. “Nói em nghe giờ cha mẹ ngài muốn gì ở ngài.”
Chàng đi lại gần lò sưởi nhưng không ngồi xuống ghế. Chàng nhìn lò sưởi hồi lâu, rồi nhìn nàng, nhưng chỉ trong chốc lát, rồi lại quay về phía ánh lửa mê hoặc.
“Họ muốn ta xử lý một lâu đài đổ nát của nhà ta, cách Edinburgh khoảng mười dặm,” chàng nói.
“Ôi lạ quá,” Olivia thốt lên sau khi Lisle đã tóm tắt xong màn kịch của cha mẹ chàng. Chàng biết nàng có thể tự mình thêm thắt vào những chi tiết đầy tính kịch. Trong chín năm trở lại đây, nàng ở bên cha mẹ chàng còn nhiều hơn cả chàng.
“Ta ước chuyện này có gì đó lạ,” chàng nói. “Nhưng với cha mẹ ta thì có gì lạ đâu.”
“Ý em là chuyện ma mãnh ấy,” nàng nói. “Thật lạ khi vì ma quỷ mà công nhân không chịu tới làm. Thử nghĩ xem có bao nhiêu bóng ma ám Tháp London. Có gã đao phủ đuổi nữ Bá tước xứ Salisbury vòng quanh đoạn đầu đài.”
“Anne Boleyn cầm cái đầu của bà ấy.”
“Những hoàng tử trẻ,” nàng nói. “Đấy mới chỉ là vài bóng ma thôi đấy - và mới chỉ là một tòa nhà thôi đấy. Khắp đất nước này chỗ nào mà chẳng có ma, thế nhưng xem ra có ai bận tâm đâu. Thật kỳ lạ khi những công nhân Scotland đó lại thấy sợ. Thế mà em cử tưởng họ thích bị ám cơ đấy.”
“Ta cũng đã nói thế với cha mẹ, nhưng logic là thứ ngôn ngữ mà họ từ chối hiểu,” chàng nói. “Chuyện này chả liên quan gì đến ma mãnh hay lâu đài cả, thật đấy. Đơn giản chỉ là để giữ ta ở nhà thôi.”
“Nhưng ở đây ngài sẽ phát rồ lên mất,” nàng nói.
Nàng luôn hiểu, từ cái ngày hai người gặp nhau và chàng nói với nàng về quyết định đi Ai Cập của mình. Nàng đã gọi đó là Hành trình Chinh phục.
“Lẽ ra ta không nên lấy đó làm phiền,” chàng nói, “nếu họ thực sự cần ta ở đây. Các em trai ta cần ta - chúng cần ai đó - nhưng ta không biết phải làm gì. Nếu ta đưa bọn nhỏ sang Ai Cập thì chưa chắc cha mẹ ta đã nhớ chúng. Nhưng chúng còn bé quá. Trẻ con lớn lên giữa khí hậu miền Bắc khó mà phát triển khỏe mạnh được ở đó.”
Nàng hơi ngửa đầu ra sau ngước nhìn chàng. Khi đôi mắt xanh to tròn ấy nhìn lên khuôn mặt chàng, có điều gì đó xảy ra bên trong chàng, những điều cực kỳ phức tạp, không chỉ liên quan đến bản năng thú vật và cơ quan sinh sản của chàng. Những điều đó nẩy lên trong lồng ngực khiến chàng cảm thấy nhoi nhói như bị kim châm.
Chàng quay mặt đi, lại nhìn vào lò sưởi.
“Ngài sẽ làm gì?” nàng hỏi.
“Ta chưa quyết định,” chàng đáp. “Cái gọi là khủng hoảng chỉ mới nổ ra mấy phút trước khi gia đình ta đi dự tiệc tối nay. Ta chưa có thời gian để nghĩ xem phải làm gì. Nói thế không có nghĩa là ta định làm gì với cái lâu đài vớ vẩn đó. Ta cần nghĩ đến mấy đứa em. Ta sẽ phải dành thêm thời gian cho chúng, rồi sau đó sẽ quyết định.”
“Ngài nói đúng,” nàng nói. “Cái lâu đài ấy đâu đáng để chàng bận tâm. Thật quá lãng phí thời gian. Nếu ngài...”
Nàng ngừng lại giữa chừng vì cánh cửa bật mở và Quý bà Rathbourne bước vào. Tóc đen sẫm, mắt không xanh như mắt cô con gái, nhưng bà vẫn là một nhan sắc tuyệt trần.
Với bà, Lisle luôn có cảm giác bình yên, quý mến và không bị xáo trộn.
“Vì Chúa, Olivia, Belder đã tìm con khắp nơi,” bà nói. “Con đã hứa sẽ khiêu vũ với cậu ta cơ mà. Lisle, đáng lẽ cháu phải hiểu biết hơn mới phải, sao lại để Olivia lôi kéo cháu vào một nơi riêng tư như thế.”
“Mẹ à, bọn con đã không gặp nhau năm năm rồi!”
“Lisle có thể gọi con vào ngày mai, nếu cậu ấy không ngại xông xáo qua một đám quý ông trì độn,” bà Rathbourne lên tiếng. “Lúc này, những cô gái trẻ khác đang la hò đòi nhảy với cậu ấy đấy. Cậu ấy đâu phải của riêng con, và sự vắng mặt quá lâu của con sẽ khiến Belder kích động đấy. Thôi nào, Lisle, ta chắc cháu không muốn kết thúc bữa tiệc bằng việc đánh nhau với một trong những người cầu hôn lúc nào cũng sôi sục ghen tuông của Olivia, những kẻ khờ khạo đáng thương. Quá lố bịch không thể diễn tả thành lời.”
Họ rời khỏi phòng chờ, Lisle và Olivia chia tay nhau, nàng tới với ngài Belder và những gã si tình khác, còn chàng bước vào vòng vây của những cô gái không giống nàng, như thể họ thuộc về những giống loài khác.
Cho tới tận khuya, khi đang khiêu vũ với một cô gái, chàng mới nhớ ra điều mà mình đã nhìn thấy, ngay trước khi phu nhân Rathbourne cắt ngang cuộc trò chuyện của hai người: đó là tia sáng lấp lánh trong đôi mắt xanh ngời của Olivia trước khi sự biểu lộ của họ chuyển sang hướng vào nội tâm theo cái kiểu mà chàng đã học được cách nhận biết từ nhiều năm trước.
Suy tính. Lúc ấy nàng đang suy tính.
Và điều đó, như mẹ nàng có thể nói với bất cứ ai bà gặp, luôn rất nguy hiểm.
Dinh thự Somerset, London
Thứ Tư, ngày , tháng Mười
Đây không phải là cuộc gặp chính thức của Hội Khảo cổ. Thứ nhất, họ thường họp vào thứ Năm. Thứ hai, phải tháng Mười một mới đến kỳ họp.
Nhưng Lisle chẳng mấy khi trở về London, mà có vẻ như chàng sẽ lại đi trước tháng Mười một. Mọi học giả hứng thú với những di tích cổ của Ai Cập đều muốn nghe chàng nói chuyện, và dù diễn ra khá đột ngột nhưng sự kiện này vẫn thu hút rất đông người tới dự.
Lần về nhà gần đây nhất, chàng mới mười tám tuổi, tuy nhiên chàng đã trình bày một tài liệu rất đáng chú ý về tên của các pharaoh Ai Cập. Nói chính xác thì giải mã chữ tượng hình vốn là chuyên môn của Daphne Carsington. Ai cũng biết điều này. Ai cũng biết bà là một thiên tài. Vấn đề ở chỗ bà là phụ nữ. Phải có một người đàn ông đại diện cho bà, nếu không các khám phá và học thuyết của bà sẽ gặp phải sự đả kích châm biếm không thương tiếc từ đám đông toàn những kẻ to mồm sự và ghét phụ nữ thông minh, chưa kể lại còn thông minh hơn họ.
Em trai bà, người thường đại diện cho bà, đã ra nước ngoài. Chồng bà, Rupert Carsington, dù không ngốc nghếch như mọi người vẫn tưởng nhưng không thể nào đọc hết một bài nghiên cứu mà mặt mày vẫn tươi tỉnh - ấy là nếu ông không ngủ gật mất trong lúc đang đọc.
Vì Lisle và bà Daphne đã cộng tác nhiều năm nay, và vì chàng luôn tuyệt đối đề cao khả năng của bà, nên chàng vô cùng hạnh phúc được đại diện trình bày bài viết mới nhất của bà với sự trang trọng mà nó đáng được nhận.
Nhưng có một vị khán giả cho rằng toàn bộ bài viết ấy là trò lố.
Ngài Belder ngồi ở hàng đầu, ngay cạnh Olivia, anh ta đã chế nhạo từng lời Lisle thốt ra.
Nếu anh ta đang cố gây ấn tượng với Olivia bằng trò đó thì đúng nhầm to rồi.
Nhưng có vẻ như Belder chỉ muốn chọc tức Lisle. Hôm qua, khi Lisle gọi Olivia, chắc hẳn anh ta cũng ở đó. Nhưng khi ấy có đến phân nửa thế giới đang ở nhà cha mẹ nàng, thế nên Lisle chỉ nói được đôi lời với nàng. Chàng nói với nàng về bài viết chàng sẽ trình bày, nàng bảo nàng sẽ tới nghe, và Belder bảo rằng anh ta sẽ hộ tống nàng. Anh ta tuyên bố: Anh ta không tưởng tượng được mình lại có thể bỏ lỡ “bài giảng nho nhỏ” của ngài Lisle.
Tính khí Lisle rất dễ nổi nóng. Lúc này, vì danh dự của Daphne nên chàng bực điên lên: Belder đang nhạo báng công trình nghiên cứu vất vả của bà. Nhưng chàng tự nhủ, thằng ngớ ngẩn này sẽ không thể khua môi múa mép thêm nữa. Đây đâu phải phòng khiêu vũ hay dạ hội, và những khán giả có mặt cũng chẳng tài nào kiên nhẫn nổi với kiểu cư xử của Belder.
Quả nhiên, Lisle vừa nghĩ đến đó thì một học giả đã lên tiếng. “Thưa ông,” quý ông đó lạnh lùng nói, “ông làm ơn để dành sự dí dỏm của mình cho một hoàn cảnh thích hợp: Ví như câu lạc bộ của ông, hoặc tiệm cà phê hay quán rượu nào đó chẳng hạn. Chúng tôi tới đây để nghe quý ông trên bục diễn thuyết, không phải nghe ông nói.”
Lisle vờ phủi vết bụi bám trên giấy. Không hề ngẩng lên, chàng cất tiếng, “Dí dỏm ư? Đấy có phải là sự dí dỏm không nhỉ? Tôi xin lỗi, ngài Belder, vì đã không hưởng ứng lời bình luận của ngài. Tôi lại nhầm tưởng ngài là một vị thánh cơ đấy.”
“Một vị thánh?” Belder cười lớn - rõ ràng là đang làm bộ làm tịch với Olivia, để tỏ ra mình chẳng quan tâm tới chuyện vừa bị mắng giữa đám đông như một cậu học trò thô lỗ.
“Đúng thế,” Lisle nói. “Ngài biết đấy, ở Ai Cập, những kẻ chậm hiểu hay mít đặc đều bị gọi là thánh, và sự quái dị của chúng từ dáng vẻ, lời nói tới hành động đều được xem là dấu hiệu ban phước của thần linh.”
Đám đông khán giả cười ầm lên. Các học giả ra sức châm chọc Belder để trả đũa. Đáp lại họ, mặt anh ta còn đỏ hơn cả tóc của Olivia.
Chấp nhận thái độ xin được bỏ qua của Belder, Lisle trình bày phần còn lại công trình nghiên cứu của Daphne trong hòa bình.
Khi Lisle trả lời xong các câu hỏi và khán giả bắt đầu giải tán, chàng băng qua đám đông vây quanh Olivia - đúng là một bầy gà ngu ngốc túm tụm xung quanh một con cá sấu mơ màng, chàng thầm nghĩ - và đề nghị đưa nàng về nhà. Quay người khỏi Belder, nàng dành tặng cho Lisle một nụ cười ngất ngây tới nỗi chàng không dám nhìn thẳng trong một lúc. Rồi nàng khoác tay chàng. Họ đi ra xe ngựa. Theo sau là Bailey, người hầu của nàng.
Cô hầu đặt bậc tam cấp lên xe ngựa, Olivia đang đi về phía đó thì trên vỉa hè một thằng bé lao như bay tới. Nó phi hết tốc lực, luồn lách qua đám đông các học giả đang vừa thả bộ dọc phố Strand vừa tranh luận về pharaoh.
Nó lách qua Lisle, nhưng rồi đứng sững lại khi thấy Olivia, nhan sắc rực rỡ của nàng khiến nó mờ mắt và mất thăng bằng. Nó chùn chân và mất tập trung, dù vẫn tiếp tục chạy.
Đúng lúc đó, ngài Belder đang vội vã bước về phía xe ngựa của Olivia. Thằng bé đâm sầm vào anh ta, và cả hai cùng loạng choạng. Nó ngã xuống vỉa hè còn Belder ngã vào rãnh nước.
Thằng bé lồm cồm đứng lên, nhìn Belder vẻ khiếp đảm rồi lại cắm đầu chạy.
“Thằng trộm kia, đứng lại!” Belder gầm lên. Hai người bạn của anh ta tóm lấy thằng bé khi nó cố chạy qua họ.
Ngài Belder đứng lên khỏi rãnh nước. Người quen đi ngang qua đều châm chọc anh ta không ngớt: “Vừa ngủ dậy à Belder?” hoặc “Kia có phải là loại sữa tắm dưỡng da mới nhất không, Belder?”, cứ thế cứ thế.
Rác rưởi bùn lầy nâu nâu đen đen nhuốm bẩn cái quần màu be và chiếc áo màu xanh của ngài Belder, cả cái nơ bướm chải chuốt, áo vest và găng tay nữa. Anh ta nhìn xuống bộ quần áo, rồi nhìn sang thằng bé. Cái nhìn khiến thằng bé sợ co người lại và hét lên, “Chỉ là tai nạn thôi, thưa ngài! Tôi không lấy gì cả!”
“Đúng đấy,” Olivia nói át tiếng thằng bé. “Em thấy chuyện xảy ra mà. Nếu ăn trộm, thằng bé sẽ...”
“Em cứ đợi trong xe ngựa, để ta giải quyết chuyện này,” Lisle cắt ngang trước khi nàng kịp giải thích rằng phải xử sự bần tiện thế nào thì mới là kẻ trộm được. Xét cho cùng, nàng là chuyên gia trong chuyện này.
“Đừng có ngớ ngẩn,” nàng nói. “Em có thể giải quyết chuyện này.”
Lisle cố dẫn nàng đi, nhưng nàng giật tay chàng ra và bước tới chỗ mấy người đàn ông đang tóm chặt thằng bé.
“Để nó đi,” nàng nói. “Đó chỉ là tai nạn.”
Với Lisle, những dấu hiệu cảnh báo đã rất rõ ràng: cổ và má nàng đỏ bừng lên, và cái cách nàng nhấn mạnh từ “tai nạn” như kiểu đang ngầm rủa Các anh là đồ ngu.
Khi không thể dùng sức mạnh để kéo nàng đi thì chàng buộc phải nói thật to để át nàng đi. Nhưng Belder đã lên tiếng trước.
“Em không biết lũ khốn nạn này làm trò gì đâu, tiểu thư Carsington ạ,” anh ta nói. “Chúng lao vào người ta là có mục đích, để trộm ví của ta.”
Lisle lên tiếng, “Có thể là thế nhưng...”
“Không phải cậu bé này,” Olivia tiếp lời. “Nếu đúng là trộm thì sẽ rất nhanh và chính xác, anh chẳng tài nào phát hiện ra nó đâu. Nó sẽ để ý sao cho không đâm phải anh và không thu hút mọi người chú ý vào nó, và nó sẽ không dừng lại mà bỏ chạy ngay. Hơn nữa, chúng thường có đồng bọn.”
Nàng nói quá đúng, bất cứ kẻ có lý trí nào cũng nhận ra điều này.
Nhưng Belder đang giận sôi gan, và thằng bé là mục tiêu gần nhất. Anh ta chỉ mỉm cười kẻ cả với Olivia rồi quay sang đám đông đứng xem xung quanh. “Ai đó gọi cảnh sát đi,” anh ta hô lớn.
“Không!” thằng bé la lên. “Tôi không lấy gì cả!”
Nó giằng giật, cố thoát thân.
Ngài Belder ghì đầu thằng bé xuống.
“Anh là kẻ đại ngu!” Olivia gào lên. Nàng liên tiếp đập mạnh cái ô gập lên vai anh ta.
“Ối!”
“Thả thằng bé ra!” Nàng quật ô vào mấy gã đang giữ thằng bé.
Belder giữ tay nàng để ngăn không cho nàng đánh bạn anh ta.
Lisle thấy bàn tay đeo cái găng bẩn thỉu tóm lấy cánh tay Olivia. Chàng thấy giận điên người.
Chàng bước lên, túm chặt lấy cánh tay Belder giật mạnh ra. “Đừng chạm vào cô ấy,” chàng gằn giọng. “Đừng bao giờ chạm vào cô ấy.”