Ở khu vực Hà Tây
Lúc này trên cao nguyên Cô Tạng, nơi tọa lạc của vương triều Nguyệt Thị đâu đâu cũng thấy người và ngựa, khung cảnh hỗn loạn bày ra trước mắt. Vì né tránh mũi quân tiên phong của người Hung Nô, vừa mới đây Nguyệt Thị Vương đã hạ lệnh cho tất cả bộ tộc rời khỏi Tây Vực.
Tuy rằng rất luyến tiếc khu vực Hà Tây có đồng cỏ tươi tốt và nguồn nước phong phú, nhưng những người Nguyệt Thị đã không còn cách nào khác.
Người Hung Nô hùng mạnh không phải là đối tượng mà người Nguyệt Thị có đủ khả năng đối kháng, tuy bộ lạc Nguyệt Thị có hơn bốn mươi vạn nhân khẩu, cùng với hơn mười vạn tráng đinh, nhưng số nhân khẩu và tráng đinh của người Hung Nô còn nhiều hơn gấp đôi, trước đó không lâu Hung Nô cũng đã thôn tính được bộ lạc Hưu chư và Hỗn Tà Bộ Lạc,do vậy người Nguyệt Thị càng thêm phần thế cô lực độc.
Tuy nói nước Đại Hán từng phái sứ giả tới, tỏ ý muốn liên minh cùng Nguyệt Thị chống chọi với Hung Nô, nhưng Nguyệt Thị Vương cũng không quá trông chờ, kỳ vọng vào người Hán, trước kia đúng là Trung Nguyên đế quốc (Đại Tần) từng có lực lượng kỵ binh hùng mạnh và đã từng đánh tơi tả quân Hung Nô, khiến suốt ba mươi năm sau còn không dám bước chân xuống phía nam, nhưng hiện tại, kỵ binh của người Trung Nguyên đã suy yếu đi nhiều.
Cho nên, Nguyệt Thị Vương cuối cùng đã quyết định phải di chuyển, di chuyển đến một nơi cách xa hẳn Tây Vực.
Trên cao nguyên Cô Tạng, đàn ông bộ lạc Nguyệt Thị đang bận rộn thu dỡ lều trại,đem tất cả các nhu yếu phẩm thiết yếu như đồ gốm, đồ gỗ chất lên xe bò, những người phụ nữ thì vội vàng tập hợp dê bò súc vật, còn những đứa trẻ có thể đi đứng được đều đang giúp người lớn thu dọn hành trang, những đứa trẻ nít không có bàn tay chăm sóc của người lớn đang la khóc trên mặt đất, chỉ thấy một cảnh tượng thê lương đang bày ra trước mắt.
"Đi, đi, đi..." Một thiếu niên Nguyệt Thị chừng mười tuổi tay cầm roi dài, đang ne đuổi đàn dê nhà mình đi lên phía trước, đột nhiên, dường như hắn cảm nhận được hoặc là nghe được cái gì, liền quay đầu lại nhìn lên, chỉ thấy trên đường chân trời ở hướng đông bắc xuất hiện một dải màu đen quỷ mị. Đó là... Người Hung Nô?!
- Quân Hung Nô! - Thiếu niên quăng cây roi dài trong tay, vừa chạy vừa hoảng hốt kêu to - Quân Hung Nô đến rồi!
- Quân Hung Nô đến rồi!
- Quân Hung Nô đến rồi!
- Quân Hung Nô đến rồi!
Thoáng chốc, tin quân Hung Nô đánh đến nơi đã như gió truyền khắp cả vương triều Nguyệt Thị, đám đàn ông Nguyệt Thị đang sắp xếp hành trang liền dừng việc, vội vàng cầm lấy những cây xào ba chạc hoặc là rút từ trong bao hành lý những thanh đoản kiếm bằng đồng dài không quá hai gang tay. Sau đó nhảy phốc lên ngựa phóng như bay về phía vương triều.
Bấy giờ người bộ lạc Nguyệt Thị vẫn còn đang ở trong thời đại đồng thau.
Trên thực tế,thời bấy giờ ở châu Âu, Ai Cập cùng với Tiểu Á Tế Á hầu hết đã tiến vào thời đại đồ sắt, nhưng khắp phương Đông cũng chỉ có tộc người Hoa Hạ có được kỹ thuật luyệt sắt, các bộ tộc man di ở chung quanh như Hung Nô, Đông Hồ, Nguyệt Thị, Khương Đẳng chủ yếu vẫn đang ở thời đại đồ đồng, thậm chí là thời kì đồ đá.
Trong nhiều bộ phim của đời sau đều thấy người Hung Nô và Nguyệt Thị cơ bản đều sử dụng đao quắm, điều này thật là nực cười, đúng ra mãi đến thời nhà Tùy Đường mới có đao quắm do người phương Tây truyền vào Đông thổ. Đó chính là đao quắm Đại mã sĩ cách nổi tiếng, trước đó ở phương Đông về cơ bản không có đao quắm, với kỹ thuật luyện sắt thời kỳ Tần Hán cũng chưa đúc được đao có hình dáng uốn cong.
Cho nên nói, bấy giờ bất kể là người Hung Nô hay là người Nguyệt Thị, ngoài cung tên ra thì binh khí chủ yếu cũng chỉ có đoản kiếm được chế tạo từ đồng thau. Hơn nữa chỉ có những dũng sĩ trong tộc mới có tư cách được trang bị đoản kiếm đồng thau, những kỵ binh người Hồ bình thường thì chỉ có thể sử dụng chạc rũi cỏ hoặc chạc chăn ngựa được làm từ gỗ, hoặc là dùng những cây mác được mài giũa từ xương thú.
Nửa khắc đồng hồ sau, hơn sáu vạn kỵ binh của Vương triều Nguyệt Thị đã tập kết đầy đủ.
Cả bộ lạc Nguyệt Thị tuy có hơn mười vạn kỵ binh, nhưng lại bị phân tán ở hơn một trăm ốc đảo rải khắp khu vực Hà Tây để chăn thả gia súc. Do vậy, trong lúc cần kíp nếu Nguyệt Thị Vương muốn triệu tập tất cả kỵ binh trong bộ lạc đến Vương đình là điều không thể thực hiện. Trên thực tế, đối với Nguyệt Thị Vương có thể tập hợp được hơn nửa số kỵ binh đến vương đình đã là quá tốt rồi.
Nếu Nguyệt Thị Vương có thể mang theo hơn sáu vạn kỵ binh này di chuyển đến Tây Vực, như vậy về cơ bản nguyên khí của cả bộ lạc Nguyệt Thị Bộ Lạc có thể được bảo lưu lại. Với lực lượng ấy, sau khi Tới Tây Vực cũng có thể nhanh chóng chiếm cứ một vùng đồng cỏ và nguồn nước, rồi từ đó mà trùng hưng lại bộ lạc Nguyệt Thị, nhưng tiếc là quân Hung Nô đến quá nhanh.
Khi Nguyệt Thị Vương dẫn theo mấy trăm dũng sĩ tới nơi thì quân Hung Nô cũng đã đến rất gần.
Chỉ thấy phía đông bắc thảo nguyên đã hoàn toàn bị quân kỵ binh Hung Nô vây đen kín, đưa mắt nhìn xa, suốt vài dặm trước mắt chỉ thấy toàn là đầu ngựa cùng với vô số đầu người, khắp một thảo nguyên xanh ngút ngát trước đây không lâu giờ đã không còn nhìn thấy được một chấm xanh nào. Nguyệt Thị Vương không khỏi trầm lòng xuống, quân kỵ binh Hung Nô quả là quá đông!
##########
"Yzù..." Mạo Đốn nhẹ nhàng hãm ngựa, đồng thời từ từ giơ tay phải lên.
Trong nháy mắt, từ đội hình kỵ binh của Hung Nô liền vang lên tiếng tù và trầm hùng, nương theo những âm thanh trầm hùng bất tận ấy, những kỵ binh Hung Nô đang ào ạt lên trước liền bắt đầu giảm tốc độ, và cuối cùng đã dừng lại hoàn toàn.
Mạo Đốn Du Nhiên quay đầu, chỉ thấy sau lưng những kỵ binh Hung Nô đang lố nhố lay động, giống như đại hải bát ngát khôn cùng, liền sau đó, Mạo Đốn vưỡn ngực oai vệ, ngón trỏ tay phải chỉ về phía trước nhẹ nhàng áp xuống, dặn dò Tả Cốc Lãi Vương Cao A Đóa đi bên cạnh: - Tả Cốc Lãi Vương, hãy phái sứ giả lên trước chiêu hàng.
"Rõ!" Tả Cốc Lãi Vương đưa một tay lên bạ trước ngực hướng Mạo Đốn phụng mệnh, rồi quay đầu lại vẫy tay một cái, một kỵ binh Hung Nô tách khỏi đám đông mà ra, nhanh như chớp điện phi thẳng đến trận địa của quân kỵ binh Nguyệt Thị cách vài dặm trước mặt.
Chưa đầy một khắc, sứ giả Hung Nô đã tới trước trận địa của quân Nguyệt Thị.
- Người đến dừng bước! Một dũng sĩ Nguyệt Thị tiến lên, chặn sứ giả Hung Nô.
Sứ giả Hung Nô nghe vậy thì ghìm ngựa lại nhưng vẫn ngẩng cao đầu, ngạo nghễ nói: - Đại Hung Nô sứ giả, phụng lệnh Đại Thiền Vu đến truyền lời, Nguyệt Thị Vương đâu?!
Nguyệt Thị Vương thúc ngựa tiến lên, nói: - Bổn vương ở đây, tôn sứ có lời gì mau nói?
Sứ giả Hung Nô lạnh lùng liếc nhìn Nguyệt Thị một cái, lớn tiếng nói: - Nguyệt Thị Vương nghe cho kỹ đây, Đại Thiền Vu Mạo Đốn chính là hậu duệ của Thiên Lang thần, chúa tể của cả thảo nguyên! Đại Hung Nô ta có ngàn dặm thảo nguyên, dê bò vô số, kỵ binh tinh nhuệ có đến trăm vạn quân!
- Trăm vạn kỵ binh của Đại Hung Nô nếu tất cả nhấc chân một cái thì ngay cả Kỳ Liên sơn cũng bị đạp phá, nếu tất cả cùng giương cung thì trận mưa tên bắn ra thậm chí có thể che hết ánh nắng mặt trời, bộ lạc Nguyệt Thị nhỏ bé của các ngươi nếu không muốn bị diệt tộc, Nguyệt Thị Vương ngươi nếu không muốn đầu của mình bị Đại Thiền Vu chặt xuống làm bình rượu, thì hãy lệnh cho cả tộc đầu hàng Đại Hung Nô ta!
- Đáng ghét! nguồn TruyenFull.vn
- Ở đâu ra cái lý lẽ đó!
- Thằng nhãi này quá kiêu ngạo!
- Đại vương, hãy giết tên này!
- Đúng vậy, người Nguyệt Thị chúng ta không phải là hạng thấy lớn thì sợ, hừ!
Trong chốc lát, mấy chục Vạn phu trưởng, Thiên phu trưởng đứng quanh Nguyệt Thị Vương bỗng hò la rầm rầm. Phàm là những tộc người du mục trên thảo nguyên, không lúc nào là không phải đấu tranh với môi trường tự nhiên nghiệt ngã nên ít nhiều đều có huyết tính trong người, trước một sứ giả Hung Nô không biết kiêng nể gì, ỷ thế hiếp người không coi ai ra gì như vậy thì thử hỏi có mấy người Nguyệt Thị có thể chịu được?
Nguyệt Thị Vương đưa tay ra rồi hét lớn: - Đem Bảo điêu cung của bổn vương ra đây!
Lập tức một dũng sĩ Nguyệt Thị đem Bảo điêu cung dâng lên, Nguyệt Thị Vương đón lấy cây cung rồi rút một mũi trọng tiễn làm bằng răng sói lắp vào dây cung, sứ giả Hung Nô thấy tình thế không ổn toan thúc ngựa quay đầu bỏ chạy. Nhưng sự việc nói thì chậm xảy ra thì nhanh, Nguyệt Thị Vương sớm đã kéo căng dây cung, chỉ đợi phóng tiễn. Sau một tiếng "Pưng" vang lên, tên sứ giả Hung Nô chưa chạy được vài bước liền ngã khỏi mình ngựa.
Đám kỵ binh Nguyệt Thị ở mấy hàng trước thấy vậy liền reo hò ầm vang như sóng biển vỗ vào vách núi.
##########
Trước trận địa quân Hung Nô.
Nhìn thấy Nguyệt Thị Vương bắn chết sứ giả Hung Nô, Mạo Đốn không những không tức giận, khóe miệng ngược lại hé lộ điệu cười ngụy dị, rồi lại giơ tay phải lên hướng về phía trước nhẹ nhàng áp xuống, thản nhiên nói: - Các bộ lạc Hưu Chư, Hồn Tà, lên hết cho ta.
Hưu Chư Vương, Hồn Tà Vương đang ở trên lưng ngựa xoay nhẹ người, đưa tay bạ trước ngực hương Mạo Đốn phụng mệnh, rồi phăng phăng rút ra thanh trường kiếm hai lưỡi giơ lên cao quá đầu, hung hăng dẫn đầu, hơn ba vạn kỵ binh Hưu Chư ở cánh tả cùng hơn hai vạn kỵ binh Hồn Tà ở cánh hữu tức tốc rút ra những thanh đoản kiếm đồng thau hoặc là giơ cao mã trạc xiên, gào thét xông về phía trận địa kỵ binh của quân Nguyệt Thị.
Tả Cốc Lãi Vương Cao A Đóa không hiểu ra, hỏi Mạo Đốn nói: - Đại Thiền Vu, bọn người Hưu Chư và Hồn Tà là những kẻ nhu nhược, người Xanh Lê (người trời) chúng ta chỉ cần năm nghìn dũng sĩ cũng đủ để đánh bại năm vạn kỵ binh của bọn chúng, tại sao lại phái bọn chúng đánh tiên phong? Nếu chẳng may thất bại thì thật là mất mặt người Xanh Lê chúng ta quá, đâu còn thể diện của Đại Hung Nô chúng ta nữa chứ.
- Cao A Đóa, ngươi thì biết cái gì? Mạo Đốn buồn hừ một tiếng, nghiêng đầu liếc nhìn người công thúc bên cạnh nói.
Trước ánh nhìn sắc bén của Mạo Đốn, công thúc chỉ còn biết cười nhạt cầu tài. Để cho hai bộ lạc vừa mới đầu hàng là Hưu Chư và Hông Tà đánh trận đầu chính là kiến nghị mà công thúc đề xuất với Mạo Đốn, Công Thúc cho rằng, chỉ có bộ lạc Xanh Lê của Mạo Đốn mới là bộ lạc trung tâm của Hung Nô, chỉ khi bộ lạc Xanh Lê đủ mạnh thì Hung Nô mới có thể cường thịnh.
Cho nên nói, để cho bộ lạc Hưu Chư và Hồn Tà đánh trận đầu rõ ràng là rất cần thiết, như vậy trước có thể tiêu hao nhuệ khí của quân Nguyệt Thị để tiện cho dũng sĩ của bộ lạc Xanh Lê dễ dàng tung đòn chí mạng đối với kỵ binh của quân Nguyệt Thị, sau thì có thể nhân cơ hội này mày làm suy giảm thực lực của bộ lạc Hưu Chư và Hồn Tà, đó gọi là nhất cử lưỡng tiện.
##########
Trước trận địa Nguyệt Thị.
Nhìn thấy hàng loạt kỵ binh Hung Nô phóng ra từ hai cánh tả hữu, Nguyệt Thị Vương không chút do dự liền rút ra trường kiếm xông thẳng tới trước dẫn đường, hơn sáu vạn kỵ binh Nguyệt Thị ở phía sau nghiêm trận sẵn sàng đánh địch cũng đã lên ngựa, hò la nghênh đón đám kỵ binh Hung Nô đang hùng dũng tiến đến. Trong tiếng vó ngựa như sóng triều vỗ bến, những kỵ binh Nguyệt Thị nhanh chóng đã hợp thành một cơn bão kỵ binh hùng mạnh tiến lên.
Rất nhanh, hai nhánh kỵ binh đã lọt vào tầm bắn của cung tên kỵ binh.
Nói thì chậm xảy ra thì nhanh, những kỵ binh xung phong liều chết ở phía trước của quân Nguyệt Thị và quân Hung Nô dường như giương cung cùng lúc, ngay sau đó, vô số mũi tên từ trận địa của Nguyệt Thị và Hung Nô vút lên không trung bay về phía trận địa của đối phương, hai lớp mũi tên đan vào nhau trên không trung tạo thành một màn mưa tên dày đặc phủ kín bầu trời, sau đó hướng phía mục tiêu của mỗi bên rồi giáng xuống tàn ác.
Tức thì một lớp người ngựa ở tiền trận của hai bên trúng tên ngã xuống, tiếng xương gãy vỡ nghe răng rắc, tiếng quân sĩ kêu la thảm thiết cùng với tiếng ngựa hí hoảng loạn cơ hồ làm nổ tung bầu trời. Cảnh tượng trước mặt, không chỉ kỵ binh Nguyệt Thị mà cả kỵ binh Hung Nô đều đang giãy giụa ngã xuống vũng máu trong màn mưa tên bạo liệt do hai bên tạo ra...
- Các vị, có cách hay gì không?
Bọn người Hạng Tha, Hạng Đà, Vũ Thiệp ngồi nhìn nhau không nói gì, Phạm Tăng cũng vô kế khả thi.
Bách Lý Hiền phe phẩy chiếc quạt lông vũ, đột nhiên hướng sang Hạng Trang, Phạm Tăng nói:
- Đại vương, lão quân sư, việc đã đến nước này, chỉ còn hai con đường có thể đi, một là thỏa hiệp với bọn họ…
- Không được, tuyệt đối không được!
Bách Lý Hiền còn chưa kịp nói nói hết đã bị Hạng Trang quả quyết ngắt lời.
Phạm Tăng nhẹ nhàng vuốt râu, cũng nói:
- Không sai, thà đem bốn mươi sáu huyện giao cho bọn huyện úy cai trị, thà để cho bọn lính đầu to đó làm hỏng thì thôi, chứ tuyệt đối không thể thỏa hiệp với bọn khốn này!
Ngừng một lát, Phạm Tăng lại tiếp:
- Lão phu sớm đã nói rồi, kẻ chống đối lại luật pháp chính là kẻ địch của họ Hạng ta, đối với bọn chúng nhất định phải trấn áp!
Bách Lý Hiền thở dài một hơi, nói:
- Vậy thì chỉ còn cách mượn người thôi.
- Mượn người?
Hạng Trang nghe vậy vẻ mặt có chút trấn động, nói:
- Tử Lương, lời này nên hiểu thế nào?
Hai con mắt của Phạm Tăng thì sáng rực lên, vui vẻ nói:
- Kin hi, ý của Tử Lương là mượn quan của nước Hoài Nam!
Mượn quan của nước Hoài Nam?! Hạng Trang, Hạng Tha nghe vậy trấn động trong lòng, Hạng Đà, Vũ Thiệp thì thấy đầu óc mù mịt, từ xưa tới giờ chỉ nghe nói mượn binh, mượn lương, chứ chưa từng nghe nói "mượn quan"? Hơn nữa, tuy là nước Hoài Nam đã kết đồng minh với nước Sở, nhưng chưa chắc Anh Bố đã chịu cho nước Sở mượn quan viên của nước Hoài Nam. Phải hiểu rằng, nước Sở không phải là mượn vài người, mà là vài trăm quan viên đó.
Hạng Trang vuốt vuốt đám râu rậm bên mép, nói:
- Tử Lương, ngươi nói việc này rốt cuộc có mấy phần khả năng thành công?
Bách Lý Hiền khẽ mỉm cười, nói:
- Thần cho rằng chắc đến chín phần, lý do có ba lý do: đầu tiên, nước Hoài Nam hiện giờ cũng đang cải cách, tuy phương hướng cải cách không hẳn giống với nước Sở ta, nhưng tôn chỉ của họ cũng giống như của ta, đó là muốn giúp cho Hoài Nam vương nắm chắc lấy quyền kiểm soát các quận huyện. Cho nên giữa Hoài Nam vương và các thế tộc của Hoài Nam cũng có tồn tại mâu thuẫn.
- Uhm, nói nghe cũng có lý.
Phạm Tăng vui vẻ nói:
- Nói không chừng Anh Bố còn mong chúng ta hỏi hắn mượn người cũng nên.
Bách Lý Hiền ngừng giây lát, đoạn giơ tiếp ngón tay thứ hai lên, nói tiếp:
- Thứ hai, Hoài Nam trước kia vốn là đất thuộc nước Sở, các sỹ tộc của Hoài Nam phần lớn cũng đều là dân Sở trước kia. Luật pháp mới của nước Hoài Nam mà được thi hành thì không khỏi khiến lợi ích của các sỹ tộc bị tổn hại. Đến lúc đó đại vương chỉ cần một đạo chiếu cầu hiền, thì số sỹ tộc Hoài Nam này hoàn toàn có khả năng sẽ lập tức chuyển nhà về Giang Đông, cho vương triều ta sử dụng.
- Uhm.
Hạng Trang gục gặc đầu, nói:
- Còn gì nữa?
Cuối cùng, Bách Lý Hiền giơ ngón tay thứ ba lên, nói tiếp:
- Lý do cuối cùng, cũng là lý do quan trọng nhất, đó chính là những sỹ tộc Hoài Nam này đều là những hộ ngoại lai, không có chút gốc rễ nào ở Giang Đông cả. Nếu bọn họ muốn đứng được vững ở Giang Đông này, thì nhất định phải nhờ vào sự ủng hộ to lớn của Đại vương, chính vì lẽ đó, những sỹ tộc Hoài Nam này mới dốc hết sức ủng hộ luật pháp mới!
Hạng Tha nghe rồi vẫn cảm thấy có chút lo lắng, đứng dậy hướng sang Hạng Trang nói:
- Nhưng, e rằng số sỹ tộc Hoài Nam thực sự muốn chuyển đến Giang Đông là không nhiều, cùng lắm thì cũng được chừng một trăm họ tộc, số nhân tài có thể đứng ra lo việc ở các quận huyện e rằng còn ít hơn nữa. Thần lo rằng chỉ với một ly nước này, sợ rằng không thể dập được ngọn lửa hừng hừng cháy của các sỹ tộc ở bốn mươi sáu quận.
- Không hẳn vậy.
Bách Lý Hiền mỉm cười phản bác:
- Lời của Lệnh doãn quả cũng có lý. Nhưng trong trường hợp đó các sỹ tộc Giang Đông cũng không thể giữ vững như một khối sắt được nữa. Một khi các sỹ tộc Hoài Nam gia nhập vào Giang Đông, và cướp đi một phần lợi ích về quan quyền của bọn họ, thì các thế tộc Giang Đông tất sẽ có sự rạn nứt. Một bộ phận sỹ tộc có thái độ thiếu kiên định, chỉ e là sẽ chuyển hướng ngay tức khắc.
Lời này của Bách Lý Hiền quả không sai chút nào, Giang Đông có bao nhiêu chức quan thì có bấy nhiêu sỹ tộc, về cơ bản là "mỗi cây củ cải vào một hố".
Sở dĩ các sỹ tộc ở Giang Đông dám chống lại vương quyền, là vì ỷ y rằng mình có đường rút lui. Nhưng một khi có các sỹ tộc Hoài Nam chen ngang vào, thì tình hình lập tức không còn như lúc trước nữa, đến lúc đó "củ cải" chỉ có nhiều lên chứ không có ít đi, nhưng "hố" trồng củ cải vẫn chỉ có vậy. Với cục diện như vậy, các sỹ tộc Giang Đông sẽ rất khó giữ được bình tĩnh, bởi vì nếu cứ bình tĩnh mà đứng thì "hố" sớm đã bị người khác giành hết mất rồi.
- Hay!
Hạng Trang kích động khen ngợi:
- Cái này gọi là "hòa thượng từ nơi khác đến sẽ niệm kinh"!
- "Hòa thượng từ nơi khác đến"? "niệm kinh"?
Bọn người Bách Lý Hiền, Phạm Tăng, Hạng Tha, Hạng Đà, Vũ Thiệp nghe vậy ngơ ngác nhìn nhau. Phải nói thêm rằng, vào thời này phật giáo vẫn chưa được truyền bá vào Hoa Hạ, cho nên từ "hòa thượng" này căn bản là chưa từng xuất hiện, cho nên mới khiến cho ngay cả những học giả hàng đầu đương thời như Phạm Tăng, Bách Lý Hiền cũng cảm thấy mờ mịt không hiểu.
- Á…
Hạng Trang vội lái sang chuyện khác:
- Cái đó, hãy bàn bạc xem phái ai đi sứ đến nước Hoài Nam trước đã.
Bách Lý Hiền phe phẩy chiếc quạt lông, có chút ngạc nhiên nói:
- Đại vương, việc này e là không cần phải bàn thêm gì nữa chứ? Thượng đại phu đương nhiên là ứng viên số một để phái đi sứ nước Hoài Nam rồi.
Vũ Thiệp cũng đứng dậy thi lễ nói: nguồn
- Đại vương, thần nguyện xin đi.
Hạng Trang có chút ngượng ngùng nói:
- Vậy được, ngươi hãy về nhà chuẩn bị một chút, rồi đi luôn trong hôm nay!
Nói đoạn Hạng Trang lại tiếp:
- À, đúng rồi, ngươi cũng đừng đi tay không, hãy đến trại ngựa chọn lấy năm trăm con ngựa chân thấp để đưa tới Bành thành. Coi như đó là lễ vật của quả nhân tặng cho Hoài Nam vương, luôn thể thay quả nhân chuyển lời thăm hỏi tới Hoài Nam vương.
- Vâng.
Vũ Thiệp vái chào một cái, đoạn nhận lệnh đi ra.
Nhắc đến ngựa chân thấp, Hạng Trang đột nhiên nghĩ tới một việc, bèn hỏi Hạng Tha:
- Tử Dực, đội thuyền của Qua Thắng chắc cũng rời khỏi Đơn Đồ được chừng ba tháng rồi nhỉ?
Lần trước chiếc thuyền Sở do Công Thâu Xa đôn đốc chế tạo có biểu hiện xuất sắc nổi trội trong lúc chạy thử, cho dù có gặp phải gió to sóng lớn vẫn có thể bình yên vượt qua. Sau lần đó, Công Thâu Xa lại phụng mệnh của Hạng Trang, động viên một lượng lớn nhân lực, vật lực, chế tạo thêm mười chiếc thuyền Sở nữa. Rồi Hạng Trang bổ nhiệm Qua Thắng làm Giáo úy thuyền Sở, dẫn theo hai ngàn tinh binh, chia ra đi trên mười chiếc thuyền Sở đó, thuận gió thẳng xuống vùng biển Nam Hải.
Chuyến hành trình ra biển lần này, nhiệm vụ mà Hạng Trang giao cho Qua Thắng thực ra rất đơn giản, chủ yếu là bồi dưỡng cho được một lứa thủy thủ thành thục, huấn luyện lấy một cánh thủy quân tinh nhuệ. Nếu có thể thì tiện thể gom luôn một số đặc sản của Nam Dương mang về, đặc biệt là bông, cái thứ này rất hay, việc nữa là thăm dò chút tình hình của nước Nam Việt.
Theo sử sách ghi lại, thì có lẽ bây giờ Triệu Đà đã thành lập nước Nam Việt rồi, có điều chắc nền móng chưa được vững vàng lắm.
Nếu có thể, thì Hạng Trang không ngại quấy rối nước Nam Việt một chút, cho dù không đủ để lật đổ nước Nam Việt thì chí ít cũng phải bắt lấy trăm mấy hai trăm ngàn người mang về. Phải biết rằng, số quân Tần bị Triệu Đà đóng cửa, chặn đường vây khốn ở nước Nam Việt lên tới năm trăm ngàn người, trong số đó, ít nhất có hai trăm ngàn là các tráng đinh của nước Sở, trời ạ, là hai trăm ngàn tráng đinh đấy!
Quan trọng hơn cả, là tộc người Hoa Hạ từ xa xưa đã có mối gắn kết rất bền chặt với đất mẹ, năm trăm ngàn quân Tần bị Triệu Đà vây khốn ở nước Nam Việt không lúc nào là không mong ngóng về nhà. Chỉ có điều là bọn họ e sợ uy vọng của Triệu Đà, cũng như chính sách đàn áp của y mà không dám biểu hiện ra mà thôi. Nhưng một khi có ngoại lực xâm nhập vào Nam Việt, thì số quân Tần này đi hay ở thì thật khó mà nói chắc.
Tóm lại, số quân Tần ở Nam Việt chính là một miếng thịt béo, Hạng Trang từ trước tới giờ chưa từng bỏ lỡ nếu có cơ hội được ăn thịt.
Đợi sau này, thủy quân Giang Đông lớn mạnh lên rồi, bước tiếp theo mục tiêu của Hạng Trang sẽ là lưu vực Lưỡng Hã của Trung Đông. Đương nhiên, Hạng Trang cũng không hề có ý định đi chiếm lĩnh, thống trị Lưỡng Hà bằng đường biển, việc đó căn bản là không thực tế. Sở dĩ Hạng Trang hướng ánh mắt đến khu vực lưu vực Lưỡng Hà, mục tiêu duy nhất chính là muốn có được giống ngựa Ả Rập của lưu vực Lưỡng Hà, để cải tạo giống ngựa chân thấp của Mông Cổ.
Về phần tương lai, nếu quả thật nước Sở có cơ hội nhất thống thiên hạ, Hạng Trang cũng không đắn đo gì mà không gầy dựng một đội thủy quân lớn mạnh. Sau đó vượt qua Thái Bình Dương sang châu Mỹ LaTin tìm kiếm những loại cây nông nghiệp vừa có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường khắc nghiệt, vừa cho sản lượng cao như khoai lang, khoai tây, ngô… xây dựng cơ sở kiên cố cho sự bùng nổ nhân khẩu của tộc người Hoa Hạ trong tương lai.
Tuy nhiên tất cả những điều này đều còn rất xa vời, nếu không gom góp năm ba mươi năm thì tuyệt nhiên không có khả năng thành hiện thực. Hơn nữa cho dù gom góp trong vòng năm ba mươi năm được một lượng thủy thủy giỏi đầy đủ, thì cũng chưa chắc vượt qua được Thái Bình Dương. Phải biết rằng, Thái Bình Dương là vùng biển rộng lớn nhất trên trái đất, vào thời cổ đại chưa có la bàn, thì việc muốn vượt qua Thái Bình Dương chẳng khác nào nằm mơ giữa ban ngày.
Hạng Tha không cần nghĩ ngợi nhiều, đáp:
- Đại vương, Qua Thắng rời khỏi Giang Đông được ba tháng lẻ mười ngày rồi.
- Ồ.
Hạng Trang gật gật đầu, thấp giọng lẩm bẩm:
- Ba tháng lẻ mười ngày, nhẩm tính thời gian, chắc cũng sắp trở về từ Nam Việt rồi đây, không biết là tên tiểu tử Qua Thắng này có mang được giống cây bông về hay không.
Hàm Dương, dinh thự Tả Tướng.
Trong khi Hạng Trang đang phải đối mặt với sự "bãi công" của các sỹ tộc Giang Đông, thì Tả Tướng mới được Lưu Bang bổ nhiệm là Bạch Mặc cũng đang ngày đêm gấp rút chuẩn bị cho việc cải cách pháp luật.
Nếu đem so với chính sách để các thế khanh, sỹ tộc cũng phải nộp thuế như dân thường của nước Sở, thì chính sách cải cách của Bạch Mặc còn kịch liệt hơn.
Chính sách thuế mà Bạch Mặc chuẩn bị đưa ra, không chỉ khiến các thế khanh, sỹ tộc cũng phải nộp thuế như dân thường, mà còn căn cứ theo tỉ lệ nhất định, tính thêm thuế đầu người, thuế nô dịch vào thuế ruộng đất nữa. Theo như chính sách thuế mới của Bạch Mặc, thì các thế khanh, sỹ tộc của nước Hán từ giờ trở đi không chỉ phải nộp thuế, mà còn phải nộp nhiều vì sở hữu ruộng đất nhiều!
Không nghi ngờ gì nữa, đây sẽ là cuộc cải cách kịch liệt nhất, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, mức độ kịch liệt của nó thậm chí còn hơn cả cuộc cải cách luật pháp của Vệ Ưởng thời Tần Hiến Công. Cuộc cải cách luật pháp của Vệ Ưởng chỉ có thể làm giảm bớt chút lợi ích của các gia đình thế tộc nước Tần, còn cải cách của Bạch Mặc thì sẽ làm suy yếu mạnh mẽ sức ảnh hưởng của các đại thế gia, và sỹ tộc ở Quan Trung, từ đó đẩy mạnh vương quyền một cách tối đa.
Cuộc cải cách kịch liệt như vậy, nếu không có lực lượng vũ trang hùng hậu hậu thuẫn ở phía sau thì tuyệt nhiên không thể thành công.
Nhằm ủng hộ Bạch Mặc trong cải cách luật pháp, Lưu Bang thậm chí còn định ủy nhiệm Chu Quan Phu làm hộ pháp tướng quân, dốc hết sức phối hợp với Bạch Mặc thực hiện cải cách. Kể từ sau khi Phàn Khoái chết trận, thì Chu Quan Phu có thể nói là đệ nhất kiêu tướng trong quân đội Hán. Lưu Bang ủy nhiệm Chu Quan Phu làm hộ pháp tướng quân, có thể thấy được quyết tâm cải cách của hắn kiên định tới mức nào, đương nhiên, phải đợi sau khi Chu Quan Phu về tới Hàm Dương rồi mới có thể nhậm chức.
Còn hiện tại, Chu Quan Phu còn đang ở dưới trướng của Phiêu Kỵ tướng quân, đánh nhau với quân Hung Nô kia.
Hai ngày trước, khoái mã từ phương bắc cấp báo, hai mươi ngàn kỵ binh của Lã Đài đã vượt ra khỏi phía tây Trường Thành mà Tần Thủy Hoàng xây dựng, sắp xâm nhập vào hành lang Hà Tây. Cùng lúc, mật thám nằm vùng sẵn ở Cửu Nguyên cũng truyền tin về báo, Thuyền Vu Mạo Đốn của Hung Nô đã dẫn đại quân Hung Nô rời khỏi doanh trại cũ ở Cửu Nguyên, chắc hẳn là đi thảo phạt tộc người Nguyệt Thị rồi.
Cuộc chiến giữa kỵ binh Hán và kỵ binh Hung Nô, đã vào thế hết sức căng thẳng.