Trong khoang thuyền tràn ngập hương trà, khói bay mờ mịt, tất cả mọi người không nói gì, lẳng lặng nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ. Sở Sở không khỏi nhớ lại một bài từ nhẹ giọng ngâm nga:
“Nghe mưa tuổi trẻ lầu ca thượng
Đuốc đỏ mờ la trướng
Nghe mưa tuổi tráng khách thuyền rong
Sông rộng mây rà
Tiếng nhạn vẳng tây phong
Nghe mưa nay ở phòng tăng vắng
Tóc đã phơ phơ trắng
Buồn vui ly hợp thảy vô tình
Mặc sức ngoài thềm
Nhỏ giọt tới bình minh”
(Ngu mỹ nhân kỳ 1 - Thính vũ 虞美人其一-聽雨 • Ngu mỹ nhân kỳ 1 - Nghe mưa – Tưởng Tiệp)
Khang Hi cười một tiếng chỉ vào Sở Sở nói:
“Nhìn nha đầu con mới chỉ mới 17 tuổi lại cảm khái tới như vậy.”
Mọi người cười nhẹ, Lý Quang nói:
“Bài thơ Ngu Mỹ Nhân của Trúc Sơn tiên sinh này thật sự không thích hợp với cách cách, ngược lại rất hợp với vi thần: nghe mưa nay ở phòng tăng vắng; tóc đã phơ phơ trắng.”
Sở Sở nói:
“Không phải con phát cảm khái, chỉ là ý cảnh bây giờ, không lý do liền nhớ lại bài thơ này thôi. Phải nói con thích nhất là đêm mưa bay bay như vậy, có câu nói là: “Đêm khuya xào xạc nghe mưa gió; ngựa sắt băng sông mộng vấn vương”*, con vẫn tương đối thưởng thức Lục Phóng Ông.”
*Lục Du (1125-1210) tự là Vụ Quan, người đời Nam Tống, quê ở Sơn Âm (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), cùng thời với Nhạc Phi, Tần Cối. Ông là một nhà thơ lớn đã từng được người xưa suy tôn là Tiểu Lý Bạch. Là nhà nho nhưng tính tình ông tự do phóng túng, không chịu ràng buộc trong khuôn phép nên có người cười ông là phóng đãng, ông bèn đặt ngay tên hiệu cho mình là “Phóng Ông”.
Bài này còn có tên là “Cảm hoài thi” 懷感詩 (Thơ hoài cảm), được viết vào tháng 11 năm Thiệu Hy thứ 3 (1192) tại Sơn Âm, quê hương của Lục Du. Ông ở nơi thôn trang cô tịch, không hề than oán cảnh ngộ buồn thảm của chính mình, chỉ hận không được vì nước đến trấn thủ Luân Đài. Những đêm mưa to gió lớn, ông thường mơ thấy mình chỉ huy đoàn thiết kỵ vượt dòng sông đóng băng, triển khai chiến đấu với địch quốc phương bắc.
Khang Hi nói:
“Câu này hay, đường đường là nam nhi, chỉ là đêm mưa như vậy, không có tiếng nhạc chẳng phải tiếc nuối. Mau, Dận Đường cùng nha đầu này khảy cho ta nghe một khúc đi.”
Cửu a ca hớn hở đáp ứng, trong thời gian mệnh gã sai vặt lấy cầm hỏi Sở Sở nghĩ hát bài gì, Sở Sở sững sờ thầm nói:
“Ta sống ở đây liền phải lăn lộn gấp đôi, bồi ăn bồi uống, còn phải ca hát cho ông chủ lớn giải trí.”
Nhưng mà hát gì nhỉ, nhìn sang mưa bụi ngoài cửa sổ, đúng rồi, hát bài tình sâu đậm mưa mịt mù, ban đầu mình và Hiểu Oánh thật si mê một thời gian, nghĩ đến chỗ này nói:
“Ta từ từ hát, ngài đánh đàn theo ta là được, nếu bất đắc dĩ quá thì để cho ta hát không cũng được.”
Cửu a ca cười như không cười nói:
“Cách cách mời, vì nàng đệm nhạc là vinh hạnh của kẻ hèn này.”
Trong mắt tràn ngập nụ cười có cái gì đó đang không tiếng động lóe lên nhộn nhạo, làm Sở Sở không dám nhìn cũng không dám nghĩ nhiều, nói với Khang Hi:
“Con liền hát một bài dân ca, đầu tiên con nói trước hát không xuôi tai, cũng không nên trách con.”
Tào Dần tò mò nhìn Sở Sở trước mắt, khí chất ung dung tự tin, khiến cho ngũ quan vốn tưởng như bình thường trong phút giây trở thành cô nương có ánh sáng chói mắt, rất xinh đẹp, càng nhìn càng đẹp. Sở Sở đứng ở bên cửa sổ, mở miệng hát:
“Tình sâu thẳm, mưa mông lung
Bao nhiêu lâu đài chìm trong mưa bụi
Nhớ lại em và anh thuở ban đầu
Xe như nước chảy, ngựa tựa rồng bay
Dù cho gió có nổi, đất có cuộn
Người đẹp như ngọc, kiếm như cầu vồng rực sáng
A, tình sâu thẳm mưa mông lung
Thế giới tất cả trong mắt anh
Tương phùng đâu có muộn, cớ sao phải vội vàng?
Non non nước nước mấy vạn dặm
Một khúc hát cao rơi ngàn giọt lệ
Tình yêu hồi sâu trong từng khúc ruột tê tái
A, tình sâu thẳm mưa mông lung
Đất vô cùng mà trời cũng vô tận
Trăng tròn trên cao, tình này mãi không đổi
Mong anh hết xuân hạ rồi lại đến thu đông
Trông theo ngoái lại nhìn tất cả
Sao chỉ thấy những cánh chim bay về phía cuối chân trời
A, mưa mông lung và tình vẫn mãi sâu thẳm.”
Giọng hát trong suốt vang lên, Cửu a ca dần dần đuổi theo, tiếng đàn cổ phác hòa hoãn, lại làm bài hát này còn có một loại ý vị mưa bụi triền miên. Tiếng hát xuyên qua tiếng mưa rơi, bay ra khỏi thuyền rồng, vang xa ở trong màn đêm, vương vấn trong mưa bụi. Hết bài hát, tiếng đàn yên lặng, qua một lúc lâu, Khang Hi mới nói:
“Bài hát như vậy sao có thể coi như là bài dân ca, bên trong ngậm bao nhiêu câu thơ, Tào Dần ngươi tính xem. “
Tào Dần hơi mỉm cười nói:
“Vâng, bài hát của cách cách cũng không phải tầm thường,”ngựa xe như nước áo quần như nêm” xuất từ “ngắm Giang Nam” của Lý Dục còn “hoa nguyệt đang đón gió xuân; bao nhiêu đài các mưa bụi ở bên trong”, xuất từ “mùa xuân ở Giang Nam” của Đỗ Mục.”
Lý Quang nói tiếp:
““Cặp én bay khuất tầm mắt”, một câu xuất từ “Điệp Luyến Hoa” của Án Thù, “lan khóc sương, cúc buồn khói đọng, lạnh thấm màn buông, cặp én bay đi thẳng”. “
Khang Hi nói:
“Trẫm thích nhất câu “mỹ nhân như ngọc kiếm giống như cầu vồng” rất có khí thế, câu này xuất từ nơi nào? “
Mọi người suy nghĩ hồi lâu cũng không biết, đều nhìn Sở Sở, Sở Sở
“Xuất từ “dạ tọa” của Cung Tự Trân “công cao bái tướng khi bất tử, mới tận xúc động. Ngộ nhỡ thiền quan hoạch nhưng rách, mỹ nhân như ngọc kiếm giống như cầu vồng”. “
Sở Sở nói xong, mọi người càng thêm nghi ngờ, Thập Tam nói:
“Người tên Cung Tự Trân ở đâu, triều đại nào, câu thơ rất là có khí thế, ta thích.”
Sở Sở lúc này mới thầm nhớ ra: ‘Nguy rồi! Thật là sơ sẩy, vị Cung Tự Trân này xuất hiện trong thời Gia Khánh, kể ra là tằng tôn tử (chắt) của Khang Hi’, nhanh chóng ấp úng nói:
“Không nhớ rõ, từng xem trong một quyển tạp thư.”
Thập Tam lại nói:
“Sau này tìm cho gia xem, gia thích loại phong cách hào khí này.”
Khang Hi nói:
“Rất là đại khí, chỉ là so với những thứ này, trẫm ngược lại tò mò, cái người sáng tác bài hát này là ai, có thể mang vào nhiều câu thơ, vả lại thanh mỹ du dương như vậy.”
Sở Sở càng thêm đổ đầy mồ hôi thầm nghĩ:
“Trong phim truyền hình ta đây nào biết do ai viết, nhưng không nói cũng không được.” (lk: ta cũng đổ mồ hôi hột vì tìm mấy lời dịch bài hát + thơ thẩn của nàng! L)
Nhanh chóng thưa dạ nói:
“Là một người tên là Quỳnh Dao viết, con cũng chỉ nghe qua, không biết Quỳnh Dao là người phương nào.”
Sở Sở khẽ cúi đầu có chút ngượng ngùng, lại nhất thời thêm một loại đáng yêu giống như cô gái nhỏ mà thường ngày khó gặp, mọi người bất giác mỉm cười. Lúc này mưa ngoài cửa sổ cũng ngừng, Thập Tứ đẩy cửa sổ ra, trên mặt sông còn sương mù lơ lửng tỏa ra mùi ươn ướt, ánh đèn cũng lộ vẻ mông lung như mộng, trong sương mù Phong Kiều như ẩn như hiện, nơi xa lộ ra một góc của Hàn Sơn tự, tiếng chuông chùa vang vọng.
Khang Hi
“Đây mới là nửa đêm chung thanh đáo khách thuyền, chúng ta cũng tận hứng rồi, giải tán đi”
Đối với Sở Sở cười nói:
“Người kia có ý tưởng nằm nghe gió mưa rơi xem ra là bị trẫm quấy rối, nhưng trẫm đáp ứng, ngày mai bồi con: thuyền đã dời đi xa, mười dặm vẫn còn hương sen”
Mọi người cáo lui, trở lại trong khoang thuyền của mình, Sở Sở âm thầm lau lấy mồ hôi lạnh, thầm nghĩ chuyện đạo văn cũng là rất khảo nghiệm đầu óc. Nghĩ đến vẻ mặt cùng ánh mắt của Cửu a ca càng ngày càng quỷ dị, Sở Sở thở dài. Đêm đã khuya, bên ngoài truyền đến tiếng đàn sâu kín làm Sở Sở nhẹ nhàng tiến vào mộng đẹp.
Ngày hôm sau khi Sở Sở tỉnh dậy thì đã không còn sớm, nàng bị tiếng động bên ngoài đánh thức, vội vàng thu thập ra ngoài, thấy mặt trời đã lên cao, đội thuyền của bọn họ đã chậm rãi đi vào trong thành Tô Châu. Bên tai âm thanh hô vạn tuế ở hai bờ sông không dứt, trên bờ là đường đá xanh bình thường, bức tường màu trắng thấp vẽ một bức tranh thuỷ mặc về cuộc sống Giang Nam, giống như đi vào Giang Nam là một giấc chiêm bao. Trên thuyền rồng trước mặt, Khang Hi suất lĩnh các đại thần đứng ở trên boong thuyền thật cao, gió nhẹ di động long bào màu vàng sáng của ông, dưới ánh mặt trời càng thêm chói mắt, uy nghi của thiên tử tự nhiên lộ ra, rất khiếp người.
Sở Sở không khỏi nghĩ tới Tứ a ca, trong lịch sử nói vị Ung Chính kia không có xuống Giang Nam, cả đời tiết kiệm muốn chết, Sở Sở âm thầm oán trách hắn, anh tiết kiệm, con trai của anh lãng phí tăng gấp bội có ích lợi gì. Đây là kể từ khi Sở Sở rời đi kinh thành gần một tháng qua, lần đầu nghĩ đến Tứ a ca, chính nàng không có cảm thấy, nhưng lại đã mơ hồ có chút nhớ thương Tứ a ca rồi. Trước đây Sở Sở chưa từng nhớ thương Tứ a ca, mà là nhớ thương làng du lịch của mình, nhớ thương cây chuối tây tự tay mình chuyển qua Dung Nguyệt cư, không biết mưa rả rích cả đêm đến lúc trời sáng có sao hay không.
Vào thành Tô Châu lại không kịp đi xem mười dặm hương sen từng nghe nói kia, cũng không có kịp xuống Dương Châu, liền nhận được kinh thành cấp báo Cát Nhĩ Đan vào kinh triều bái. Đám người Khang Hi quay mũi thuyền lại, trực tiếp lên phía Bắc, rất gấp cũng không có cùng ở không, ngắn ngủi mười ngày đã đến kinh thành. Dù sao Sở Sở đã có rất nhiều thu hoạch, nàng đưa cho Cửu a ca bản vẽ cấu trúc xây đựng thanh lâu, dùng phong cách Đại Đường xa hoa lộng lẫy, nàng cảm thấy kiến trúc Giang Nam phần lớn khéo léo tinh xảo xinh đẹp tuyệt trần không thiếu, rất ít phong cách Đường triều: đại khí cởi mở, hơn nữa khi thiết kế có thể làm một thanh lâu không giống như bình thường.
Tỷ như tên đầu tiên đừng có gọi Di Hồng Viện, Thính Hương Các các loại, liền kêu Dạ Nùng Trang nghe hay hơn nhiều. Cũng không trực tiếp, có thể kéo theo danh kỹ các nơi, ra mặt chuộc thân cho các nàng, sau đó lấy hình thức hợp đồng cùng các nàng ký hợp đồng, tích góp bạc chuộc thân, chia làm 5 năm, 10 năm, nếu như thành tích tốt, mang đến cho chúng ta phong phú tiền lời, sẽ suy tính cho nàng thoát tịch, quay lại cuộc sống bình thường.
Vừa bắt đầu Cửu a ca cảm thấy đây quả thực là chuyện ném tiền, nhưng sau khi cẩn thận ngẫm lại, cảm thấy đúng là cái biện pháp rất thông minh, vô luận năm năm hay là mười năm, cũng có thể kiếm ra gấp mười mấy lần thậm chí gấp mấy chục lần số bạc chuộc thân ban đầu, cuối cùng thuận nước giong thuyền, nha đầu này thật là mò thấu lòng người.
Môn hạ của Cửu a ca đều là nhân tài buôn bán, cho nên sau khi hắn và Sở Sở hồi kinh mười ngày, các thanh lâu lớn ở Giang Nam liền bị thu mua, lần nữa tân trang lại xong, lấy một tên hoàn toàn mới “Dạ Nùng Trang” khai trương. Phục vụ đặc sắc, hậu đãi phúc lợi làm gần như tất cả danh kỹ Giang Nam tụ tập về, khách thương tụ tập, nhất thời tên tuổi Dạ Nùng Trang trở thành tiêu kim quật (động tiêu tiền) lớn nhất ở Giang Nam.
Lại nói Sở Sở vừa hồi kinh liền bị Tứ a ca dẫn về Dung Nguyệt cư, Sở Sở còn chưa có hưởng thụ chuyện ngâm ôn tuyền cho thoải mái, đã bị Tứ a ca giằng co đủ, suốt cả một ngày cả đêm không có ra cửa, ngay cả ăn uống đều là Tô ma ma cùng Cao Vô Dung đưa vào cửa. Tứ a ca bưng đồ ăn vào tới đút cho Sở Sở, Tứ a ca thoả mãn rồi, Sở Sở lại ngủ cả đêm mới thoáng bình thường trở lại một chút.
Sở Sở kéo thân thể vẫn đau nhức, đi xử lý chuyện sổ sách mấy ngày nay của làng du lịch. Đại Nữu cùng với nàng đi vào tiểu viện của làng du lịch, thấy Điền Văn Viễn và một người đàn ông trẻ tuổi gầy gò ở trong viện chờ đợi, Sở Sở cười nói:
“Điền đại ca cực khổ, tháng này tăng bạc gấp ba cho
Điền Văn Viễn cười nói:
“Vậy nô tài liền áy náy rồi.”
Mắt Sở Sở nhìn lướt qua Đại Nữu đằng sau, trong mắt lóe lên một tia vui vẻ, mặt Đại Nữu đỏ lên, cúi đầu theo Sở Sở đi vào trong nhà, Sở Sở thấy cười thầm, thầm nghĩ:
“Mình rời đi vài ngày, xem ra lại ghép thành công một đôi uyên ương.”
Sở Sở liếc nhìn sổ sách mấy ngày nay, làng du lịch buôn bán rất tốt, không có một ngày nào để phòng trống, phòng đặt trước cũng đẩy đến cuối năm, xem xong sổ sách, Sở Sở quét mắt người đàn ông bên cạnh Điền Văn Viễn hỏi:
“Đây là nhân viên mới vào làm làng du lịch sao?”
Điền Văn Viễn vội nói:
“Đây là người huynh đệ Điền Văn Kính mà năm trước nô tài nói với ngài, vội tới chào cách cách.”
Sở Sở đang uống một ngụm trà liền phun ra ngoài, Đại Nữu vội vàng đưa khăn cho nàng, Sở Sở lau khóe miệng một cái nói:
“Huynh nói hắn là ai?”
“Huynh đệ ruột thịt của nô tài Điền Văn Kính, Tứ gia nói nghe ngài an bài.”
Lúc này Sở Sở mới nhìn cẩn thận người đàn ông trước mắt, bộ dạng hai mươi ba hai mươi bốn, dáng dấp rất tốt, không hề giống Điền Văn Viễn một chút nào, sắc mặt lạnh lùng, nhìn cũng biết không phải hạng người vòng vo, cũng có chút tướng làm huynh đệ với Tứ a ca, đều là mặt than, không trách được cuối cùng thành thủ hạ của Ung Chính có tên ác quan. Điền Văn Viễn thấy Sở Sở nhìn chằm chằm đệ đệ mình rất là kỳ quái, hỏi:
“Người xem nên để cho đệ đệ nô tài làm những gì?”
Sở Sở khoát tay một cái nói:
“Đệ đệ này của huynh ta coi có tướng làm quan, không phải miếu Bồ Tát nhỏ của chúng ta, huynh chớ xía vào, chút nữa ta nói với Tứ gia.”
Đang nói Tứ a ca vừa sải bước đi vào, nửa đường lời nói của Sở Sở, hỏi:
“Cùng gia nói gì?”
Sở Sở liếc hắn một cái chu mỏ thầm nghĩ: người này nha ngược lại tinh thần phấn chấn mặt mày hớn hở, nhanh chóng nói:
“Chính là đệ đệ của Điền đại ca, ta nói là một người có tướng làm quan, Tứ gia thu dưới làm môn hạ đi, có cơ hội phóng ra ngoài không phải rất tốt sao?”
Tứ a ca điểm đầu của nàng một cái nói:
“Nàng cho rằng làm quan dễ dàng như vậy à. Nàng ở Duyện Châu thu Lý Vệ - chữ đại không biết cho gia, môn hạ truyền tin tới, nói rất cơ trí, Điền Văn Kính này nàng cũng coi trọng sao, biết hiện tại người của triều đình nói sao không, nói kim ốc của Tứ gia ta ẩn dấu vị thần tiên, nói nàng điểm thạch thành kim, hô phong hoán vũ, tát đậu thành binh.”
*Biến đá thành vàng, gọi gió làm mưa, rắc hạt đậu biến thành binh
Sở Sở đứng lên chống nạnh nói:
“Đường mình, mình đi, cứ để cho người khác nói đi.”
Nói xong còn hừ một tiếng, Tứ a ca bất giác bật cười, nhìn Điền Văn Kính một cái nói:
“Hoàng a mã đã nói, Sở Sở rất giỏi nhìn người, nếu cách cách nói ngươi được, gia sẽ thu môn hạ, mấy ngày nữa Tứ Xuyên thiếu một huyện lệnh, ngươi cứ đi đi, đi mang theo bài tử trong phủ đi đi.”
Điền Văn Kính kia vốn chính muốn làm quan, bất đắc dĩ luôn thi không đậu, chỉ đành phải tới tìm huynh trưởng của mình, vốn có ý định này, nhưng không nghĩ tới dễ dàng như vậy. Thiếu nữ trước mắt thiên chân hồn nhiên, thật sự cùng người bên ngoài truyền chính là cách cách hô phong hoán vũ quá không giống nhau, nhưng bên ngoài vẫn có một câu truyền đúng, nàng chính là điểm thạch thành kim, nói tùy ý một câu, so người khác viết 100 phong thư đề cử hữu dụng hơn nhiều, rồi nảy ra chút kích động dập đầu, bái tạ Tứ a ca cùng Sở Sở, theo Điền Văn Viễn đi ra ngoài.
Hai người ra khỏi viện, Điền Văn Viễn quan sát đệ đệ của mình mấy lần, sửa sang lại y phục trên người cho hắn nói:
“Đệ là có tạo hóa, vị cách cách này của chúng ta là người đặc biệt, nàng nói chuyện với hoàng thượng cũng rất linh, đệ vào mắt của nàng, về sau cố gắng làm quan, phải làm thanh quan, nếu không Tứ gia là người đầu tiên không tha cho đệ. Đi đi, lúc lên đường tế bái cha mẹ, để cho bọn họ dưới suối vàng cũng biết, cũng cao hứng một chút!”
Điền Văn Kính xoay người đi trở về phủ lĩnh bài tử đi Lại bộ báo cáo.
Tự nhiên edit chương này nghe mấy bài của Triệu Vy lại nhớ bài Khóc Mưa của chị ấy, mê mệt bài này từ năm lớp 9 cơ, có nghĩa cách đây 16 năm, sau này khi học đại học năm 2 mới tìm đc lời Việt, càng mê hơn. 2 lần thất tình đều nghe bài này đến chai luôn, haizzz...
Quên mất rằng đôi mắt của em phải khép lại như thế nào thì mới có thể nhớ đến anh,
Em hiểu khung rèm cửa sổ của anh kéo sang là do ai, là ánh trăng lạnh lẽo....
Nước mắt của em ko vì anh mà nói dối, có người yêu hy vọng quá nhiều.
Còn có thể có thứ gì đáng quý để em đi cất giấu, là những vết thương của tình yêu.
(có người yêu hy vọng quá nhiều, còn có thứ gì đáng để em đi cất giữ ....)
Nước mắt của em ko vì anh nói dối)
Mỗi lần em thử tha thứ cho anh, cho anh một cơ hội để rút lui một cách đẹp đẽ,
Nhưng chỉ nhìn thấy lòng tin của em, tan vỡ dần trong bàn tay anh.
Chuyện gì cũng có thể tha thứ, chuyện gì cũng có thể quên lãng, chỉ cần anh nói với em một câu.
Chuyện gì cũng có thể trốn tránh, chuyện gì cũng có thể chôn vùi, sự giả tạo hoàn mĩ.”>Chuyện gì cũng có thể tha thứ, chuyện gì cũng có thể quên lãng, trừ phi anh đã ko còn nghĩ nữa.
Chuyện gì cũng có thể trốn tránh, chuyện gì cũng có thể chôn vùi, cho đến khi nhìn thấy cô ấy dựa vào đôi vai anh...
Trong khoang thuyền tràn ngập hương trà, khói bay mờ mịt, tất cả mọi người không nói gì, lẳng lặng nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ. Sở Sở không khỏi nhớ lại một bài từ nhẹ giọng ngâm nga:
“Nghe mưa tuổi trẻ lầu ca thượng
Đuốc đỏ mờ la trướng
Nghe mưa tuổi tráng khách thuyền rong
Sông rộng mây rà
Tiếng nhạn vẳng tây phong
Nghe mưa nay ở phòng tăng vắng
Tóc đã phơ phơ trắng
Buồn vui ly hợp thảy vô tình
Mặc sức ngoài thềm
Nhỏ giọt tới bình minh”
(Ngu mỹ nhân kỳ - Thính vũ 虞美人其一-聽雨 • Ngu mỹ nhân kỳ - Nghe mưa – Tưởng Tiệp)
Khang Hi cười một tiếng chỉ vào Sở Sở nói:
“Nhìn nha đầu con mới chỉ mới tuổi lại cảm khái tới như vậy.”
Mọi người cười nhẹ, Lý Quang nói:
“Bài thơ Ngu Mỹ Nhân của Trúc Sơn tiên sinh này thật sự không thích hợp với cách cách, ngược lại rất hợp với vi thần: nghe mưa nay ở phòng tăng vắng; tóc đã phơ phơ trắng.”
Sở Sở nói:
“Không phải con phát cảm khái, chỉ là ý cảnh bây giờ, không lý do liền nhớ lại bài thơ này thôi. Phải nói con thích nhất là đêm mưa bay bay như vậy, có câu nói là: “Đêm khuya xào xạc nghe mưa gió; ngựa sắt băng sông mộng vấn vương”, con vẫn tương đối thưởng thức Lục Phóng Ông.”
Lục Du (-) tự là Vụ Quan, người đời Nam Tống, quê ở Sơn Âm (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), cùng thời với Nhạc Phi, Tần Cối. Ông là một nhà thơ lớn đã từng được người xưa suy tôn là Tiểu Lý Bạch. Là nhà nho nhưng tính tình ông tự do phóng túng, không chịu ràng buộc trong khuôn phép nên có người cười ông là phóng đãng, ông bèn đặt ngay tên hiệu cho mình là “Phóng Ông”.
Bài này còn có tên là “Cảm hoài thi” 懷感詩 (Thơ hoài cảm), được viết vào tháng năm Thiệu Hy thứ () tại Sơn Âm, quê hương của Lục Du. Ông ở nơi thôn trang cô tịch, không hề than oán cảnh ngộ buồn thảm của chính mình, chỉ hận không được vì nước đến trấn thủ Luân Đài. Những đêm mưa to gió lớn, ông thường mơ thấy mình chỉ huy đoàn thiết kỵ vượt dòng sông đóng băng, triển khai chiến đấu với địch quốc phương bắc.
Khang Hi nói:
“Câu này hay, đường đường là nam nhi, chỉ là đêm mưa như vậy, không có tiếng nhạc chẳng phải tiếc nuối. Mau, Dận Đường cùng nha đầu này khảy cho ta nghe một khúc đi.”
Cửu a ca hớn hở đáp ứng, trong thời gian mệnh gã sai vặt lấy cầm hỏi Sở Sở nghĩ hát bài gì, Sở Sở sững sờ thầm nói:
“Ta sống ở đây liền phải lăn lộn gấp đôi, bồi ăn bồi uống, còn phải ca hát cho ông chủ lớn giải trí.”
Nhưng mà hát gì nhỉ, nhìn sang mưa bụi ngoài cửa sổ, đúng rồi, hát bài tình sâu đậm mưa mịt mù, ban đầu mình và Hiểu Oánh thật si mê một thời gian, nghĩ đến chỗ này nói:
“Ta từ từ hát, ngài đánh đàn theo ta là được, nếu bất đắc dĩ quá thì để cho ta hát không cũng được.”
Cửu a ca cười như không cười nói:
“Cách cách mời, vì nàng đệm nhạc là vinh hạnh của kẻ hèn này.”
Trong mắt tràn ngập nụ cười có cái gì đó đang không tiếng động lóe lên nhộn nhạo, làm Sở Sở không dám nhìn cũng không dám nghĩ nhiều, nói với Khang Hi:
“Con liền hát một bài dân ca, đầu tiên con nói trước hát không xuôi tai, cũng không nên trách con.”
Tào Dần tò mò nhìn Sở Sở trước mắt, khí chất ung dung tự tin, khiến cho ngũ quan vốn tưởng như bình thường trong phút giây trở thành cô nương có ánh sáng chói mắt, rất xinh đẹp, càng nhìn càng đẹp. Sở Sở đứng ở bên cửa sổ, mở miệng hát:
“Tình sâu thẳm, mưa mông lung
Bao nhiêu lâu đài chìm trong mưa bụi
Nhớ lại em và anh thuở ban đầu
Xe như nước chảy, ngựa tựa rồng bay
Dù cho gió có nổi, đất có cuộn
Người đẹp như ngọc, kiếm như cầu vồng rực sáng
A, tình sâu thẳm mưa mông lung
Thế giới tất cả trong mắt anh
Tương phùng đâu có muộn, cớ sao phải vội vàng?
Non non nước nước mấy vạn dặm
Một khúc hát cao rơi ngàn giọt lệ
Tình yêu hồi sâu trong từng khúc ruột tê tái
A, tình sâu thẳm mưa mông lung
Đất vô cùng mà trời cũng vô tận
Trăng tròn trên cao, tình này mãi không đổi
Mong anh hết xuân hạ rồi lại đến thu đông
Trông theo ngoái lại nhìn tất cả
Sao chỉ thấy những cánh chim bay về phía cuối chân trời
A, mưa mông lung và tình vẫn mãi sâu thẳm.”
Giọng hát trong suốt vang lên, Cửu a ca dần dần đuổi theo, tiếng đàn cổ phác hòa hoãn, lại làm bài hát này còn có một loại ý vị mưa bụi triền miên. Tiếng hát xuyên qua tiếng mưa rơi, bay ra khỏi thuyền rồng, vang xa ở trong màn đêm, vương vấn trong mưa bụi. Hết bài hát, tiếng đàn yên lặng, qua một lúc lâu, Khang Hi mới nói:
“Bài hát như vậy sao có thể coi như là bài dân ca, bên trong ngậm bao nhiêu câu thơ, Tào Dần ngươi tính xem. “
Tào Dần hơi mỉm cười nói:
“Vâng, bài hát của cách cách cũng không phải tầm thường,”ngựa xe như nước áo quần như nêm” xuất từ “ngắm Giang Nam” của Lý Dục còn “hoa nguyệt đang đón gió xuân; bao nhiêu đài các mưa bụi ở bên trong”, xuất từ “mùa xuân ở Giang Nam” của Đỗ Mục.”
Lý Quang nói tiếp:
““Cặp én bay khuất tầm mắt”, một câu xuất từ “Điệp Luyến Hoa” của Án Thù, “lan khóc sương, cúc buồn khói đọng, lạnh thấm màn buông, cặp én bay đi thẳng”. “
Khang Hi nói:
“Trẫm thích nhất câu “mỹ nhân như ngọc kiếm giống như cầu vồng” rất có khí thế, câu này xuất từ nơi nào? “
Mọi người suy nghĩ hồi lâu cũng không biết, đều nhìn Sở Sở, Sở Sở
“Xuất từ “dạ tọa” của Cung Tự Trân “công cao bái tướng khi bất tử, mới tận xúc động. Ngộ nhỡ thiền quan hoạch nhưng rách, mỹ nhân như ngọc kiếm giống như cầu vồng”. “
Sở Sở nói xong, mọi người càng thêm nghi ngờ, Thập Tam nói:
“Người tên Cung Tự Trân ở đâu, triều đại nào, câu thơ rất là có khí thế, ta thích.”
Sở Sở lúc này mới thầm nhớ ra: ‘Nguy rồi! Thật là sơ sẩy, vị Cung Tự Trân này xuất hiện trong thời Gia Khánh, kể ra là tằng tôn tử (chắt) của Khang Hi’, nhanh chóng ấp úng nói:
“Không nhớ rõ, từng xem trong một quyển tạp thư.”
Thập Tam lại nói:
“Sau này tìm cho gia xem, gia thích loại phong cách hào khí này.”
Khang Hi nói:
“Rất là đại khí, chỉ là so với những thứ này, trẫm ngược lại tò mò, cái người sáng tác bài hát này là ai, có thể mang vào nhiều câu thơ, vả lại thanh mỹ du dương như vậy.”
Sở Sở càng thêm đổ đầy mồ hôi thầm nghĩ:
“Trong phim truyền hình ta đây nào biết do ai viết, nhưng không nói cũng không được.” (lk: ta cũng đổ mồ hôi hột vì tìm mấy lời dịch bài hát + thơ thẩn của nàng! L)
Nhanh chóng thưa dạ nói:
“Là một người tên là Quỳnh Dao viết, con cũng chỉ nghe qua, không biết Quỳnh Dao là người phương nào.”
Sở Sở khẽ cúi đầu có chút ngượng ngùng, lại nhất thời thêm một loại đáng yêu giống như cô gái nhỏ mà thường ngày khó gặp, mọi người bất giác mỉm cười. Lúc này mưa ngoài cửa sổ cũng ngừng, Thập Tứ đẩy cửa sổ ra, trên mặt sông còn sương mù lơ lửng tỏa ra mùi ươn ướt, ánh đèn cũng lộ vẻ mông lung như mộng, trong sương mù Phong Kiều như ẩn như hiện, nơi xa lộ ra một góc của Hàn Sơn tự, tiếng chuông chùa vang vọng.
Khang Hi
“Đây mới là nửa đêm chung thanh đáo khách thuyền, chúng ta cũng tận hứng rồi, giải tán đi”
Đối với Sở Sở cười nói:
“Người kia có ý tưởng nằm nghe gió mưa rơi xem ra là bị trẫm quấy rối, nhưng trẫm đáp ứng, ngày mai bồi con: thuyền đã dời đi xa, mười dặm vẫn còn hương sen”
Mọi người cáo lui, trở lại trong khoang thuyền của mình, Sở Sở âm thầm lau lấy mồ hôi lạnh, thầm nghĩ chuyện đạo văn cũng là rất khảo nghiệm đầu óc. Nghĩ đến vẻ mặt cùng ánh mắt của Cửu a ca càng ngày càng quỷ dị, Sở Sở thở dài. Đêm đã khuya, bên ngoài truyền đến tiếng đàn sâu kín làm Sở Sở nhẹ nhàng tiến vào mộng đẹp.
Ngày hôm sau khi Sở Sở tỉnh dậy thì đã không còn sớm, nàng bị tiếng động bên ngoài đánh thức, vội vàng thu thập ra ngoài, thấy mặt trời đã lên cao, đội thuyền của bọn họ đã chậm rãi đi vào trong thành Tô Châu. Bên tai âm thanh hô vạn tuế ở hai bờ sông không dứt, trên bờ là đường đá xanh bình thường, bức tường màu trắng thấp vẽ một bức tranh thuỷ mặc về cuộc sống Giang Nam, giống như đi vào Giang Nam là một giấc chiêm bao. Trên thuyền rồng trước mặt, Khang Hi suất lĩnh các đại thần đứng ở trên boong thuyền thật cao, gió nhẹ di động long bào màu vàng sáng của ông, dưới ánh mặt trời càng thêm chói mắt, uy nghi của thiên tử tự nhiên lộ ra, rất khiếp người.
Sở Sở không khỏi nghĩ tới Tứ a ca, trong lịch sử nói vị Ung Chính kia không có xuống Giang Nam, cả đời tiết kiệm muốn chết, Sở Sở âm thầm oán trách hắn, anh tiết kiệm, con trai của anh lãng phí tăng gấp bội có ích lợi gì. Đây là kể từ khi Sở Sở rời đi kinh thành gần một tháng qua, lần đầu nghĩ đến Tứ a ca, chính nàng không có cảm thấy, nhưng lại đã mơ hồ có chút nhớ thương Tứ a ca rồi. Trước đây Sở Sở chưa từng nhớ thương Tứ a ca, mà là nhớ thương làng du lịch của mình, nhớ thương cây chuối tây tự tay mình chuyển qua Dung Nguyệt cư, không biết mưa rả rích cả đêm đến lúc trời sáng có sao hay không.
Vào thành Tô Châu lại không kịp đi xem mười dặm hương sen từng nghe nói kia, cũng không có kịp xuống Dương Châu, liền nhận được kinh thành cấp báo Cát Nhĩ Đan vào kinh triều bái. Đám người Khang Hi quay mũi thuyền lại, trực tiếp lên phía Bắc, rất gấp cũng không có cùng ở không, ngắn ngủi mười ngày đã đến kinh thành. Dù sao Sở Sở đã có rất nhiều thu hoạch, nàng đưa cho Cửu a ca bản vẽ cấu trúc xây đựng thanh lâu, dùng phong cách Đại Đường xa hoa lộng lẫy, nàng cảm thấy kiến trúc Giang Nam phần lớn khéo léo tinh xảo xinh đẹp tuyệt trần không thiếu, rất ít phong cách Đường triều: đại khí cởi mở, hơn nữa khi thiết kế có thể làm một thanh lâu không giống như bình thường.
Tỷ như tên đầu tiên đừng có gọi Di Hồng Viện, Thính Hương Các các loại, liền kêu Dạ Nùng Trang nghe hay hơn nhiều. Cũng không trực tiếp, có thể kéo theo danh kỹ các nơi, ra mặt chuộc thân cho các nàng, sau đó lấy hình thức hợp đồng cùng các nàng ký hợp đồng, tích góp bạc chuộc thân, chia làm năm, năm, nếu như thành tích tốt, mang đến cho chúng ta phong phú tiền lời, sẽ suy tính cho nàng thoát tịch, quay lại cuộc sống bình thường.
Vừa bắt đầu Cửu a ca cảm thấy đây quả thực là chuyện ném tiền, nhưng sau khi cẩn thận ngẫm lại, cảm thấy đúng là cái biện pháp rất thông minh, vô luận năm năm hay là mười năm, cũng có thể kiếm ra gấp mười mấy lần thậm chí gấp mấy chục lần số bạc chuộc thân ban đầu, cuối cùng thuận nước giong thuyền, nha đầu này thật là mò thấu lòng người.
Môn hạ của Cửu a ca đều là nhân tài buôn bán, cho nên sau khi hắn và Sở Sở hồi kinh mười ngày, các thanh lâu lớn ở Giang Nam liền bị thu mua, lần nữa tân trang lại xong, lấy một tên hoàn toàn mới “Dạ Nùng Trang” khai trương. Phục vụ đặc sắc, hậu đãi phúc lợi làm gần như tất cả danh kỹ Giang Nam tụ tập về, khách thương tụ tập, nhất thời tên tuổi Dạ Nùng Trang trở thành tiêu kim quật (động tiêu tiền) lớn nhất ở Giang Nam.
Lại nói Sở Sở vừa hồi kinh liền bị Tứ a ca dẫn về Dung Nguyệt cư, Sở Sở còn chưa có hưởng thụ chuyện ngâm ôn tuyền cho thoải mái, đã bị Tứ a ca giằng co đủ, suốt cả một ngày cả đêm không có ra cửa, ngay cả ăn uống đều là Tô ma ma cùng Cao Vô Dung đưa vào cửa. Tứ a ca bưng đồ ăn vào tới đút cho Sở Sở, Tứ a ca thoả mãn rồi, Sở Sở lại ngủ cả đêm mới thoáng bình thường trở lại một chút.
Sở Sở kéo thân thể vẫn đau nhức, đi xử lý chuyện sổ sách mấy ngày nay của làng du lịch. Đại Nữu cùng với nàng đi vào tiểu viện của làng du lịch, thấy Điền Văn Viễn và một người đàn ông trẻ tuổi gầy gò ở trong viện chờ đợi, Sở Sở cười nói:
“Điền đại ca cực khổ, tháng này tăng bạc gấp ba cho
Điền Văn Viễn cười nói:
“Vậy nô tài liền áy náy rồi.”
Mắt Sở Sở nhìn lướt qua Đại Nữu đằng sau, trong mắt lóe lên một tia vui vẻ, mặt Đại Nữu đỏ lên, cúi đầu theo Sở Sở đi vào trong nhà, Sở Sở thấy cười thầm, thầm nghĩ:
“Mình rời đi vài ngày, xem ra lại ghép thành công một đôi uyên ương.”
Sở Sở liếc nhìn sổ sách mấy ngày nay, làng du lịch buôn bán rất tốt, không có một ngày nào để phòng trống, phòng đặt trước cũng đẩy đến cuối năm, xem xong sổ sách, Sở Sở quét mắt người đàn ông bên cạnh Điền Văn Viễn hỏi:
“Đây là nhân viên mới vào làm làng du lịch sao?”
Điền Văn Viễn vội nói:
“Đây là người huynh đệ Điền Văn Kính mà năm trước nô tài nói với ngài, vội tới chào cách cách.”
Sở Sở đang uống một ngụm trà liền phun ra ngoài, Đại Nữu vội vàng đưa khăn cho nàng, Sở Sở lau khóe miệng một cái nói:
“Huynh nói hắn là ai?”
“Huynh đệ ruột thịt của nô tài Điền Văn Kính, Tứ gia nói nghe ngài an bài.”
Lúc này Sở Sở mới nhìn cẩn thận người đàn ông trước mắt, bộ dạng hai mươi ba hai mươi bốn, dáng dấp rất tốt, không hề giống Điền Văn Viễn một chút nào, sắc mặt lạnh lùng, nhìn cũng biết không phải hạng người vòng vo, cũng có chút tướng làm huynh đệ với Tứ a ca, đều là mặt than, không trách được cuối cùng thành thủ hạ của Ung Chính có tên ác quan. Điền Văn Viễn thấy Sở Sở nhìn chằm chằm đệ đệ mình rất là kỳ quái, hỏi:
“Người xem nên để cho đệ đệ nô tài làm những gì?”
Sở Sở khoát tay một cái nói:
“Đệ đệ này của huynh ta coi có tướng làm quan, không phải miếu Bồ Tát nhỏ của chúng ta, huynh chớ xía vào, chút nữa ta nói với Tứ gia.”
Đang nói Tứ a ca vừa sải bước đi vào, nửa đường lời nói của Sở Sở, hỏi:
“Cùng gia nói gì?”
Sở Sở liếc hắn một cái chu mỏ thầm nghĩ: người này nha ngược lại tinh thần phấn chấn mặt mày hớn hở, nhanh chóng nói:
“Chính là đệ đệ của Điền đại ca, ta nói là một người có tướng làm quan, Tứ gia thu dưới làm môn hạ đi, có cơ hội phóng ra ngoài không phải rất tốt sao?”
Tứ a ca điểm đầu của nàng một cái nói:
“Nàng cho rằng làm quan dễ dàng như vậy à. Nàng ở Duyện Châu thu Lý Vệ - chữ đại không biết cho gia, môn hạ truyền tin tới, nói rất cơ trí, Điền Văn Kính này nàng cũng coi trọng sao, biết hiện tại người của triều đình nói sao không, nói kim ốc của Tứ gia ta ẩn dấu vị thần tiên, nói nàng điểm thạch thành kim, hô phong hoán vũ, tát đậu thành binh.”
Biến đá thành vàng, gọi gió làm mưa, rắc hạt đậu biến thành binh
Sở Sở đứng lên chống nạnh nói:
“Đường mình, mình đi, cứ để cho người khác nói đi.”
Nói xong còn hừ một tiếng, Tứ a ca bất giác bật cười, nhìn Điền Văn Kính một cái nói:
“Hoàng a mã đã nói, Sở Sở rất giỏi nhìn người, nếu cách cách nói ngươi được, gia sẽ thu môn hạ, mấy ngày nữa Tứ Xuyên thiếu một huyện lệnh, ngươi cứ đi đi, đi mang theo bài tử trong phủ đi đi.”
Điền Văn Kính kia vốn chính muốn làm quan, bất đắc dĩ luôn thi không đậu, chỉ đành phải tới tìm huynh trưởng của mình, vốn có ý định này, nhưng không nghĩ tới dễ dàng như vậy. Thiếu nữ trước mắt thiên chân hồn nhiên, thật sự cùng người bên ngoài truyền chính là cách cách hô phong hoán vũ quá không giống nhau, nhưng bên ngoài vẫn có một câu truyền đúng, nàng chính là điểm thạch thành kim, nói tùy ý một câu, so người khác viết phong thư đề cử hữu dụng hơn nhiều, rồi nảy ra chút kích động dập đầu, bái tạ Tứ a ca cùng Sở Sở, theo Điền Văn Viễn đi ra ngoài.
Hai người ra khỏi viện, Điền Văn Viễn quan sát đệ đệ của mình mấy lần, sửa sang lại y phục trên người cho hắn nói:
“Đệ là có tạo hóa, vị cách cách này của chúng ta là người đặc biệt, nàng nói chuyện với hoàng thượng cũng rất linh, đệ vào mắt của nàng, về sau cố gắng làm quan, phải làm thanh quan, nếu không Tứ gia là người đầu tiên không tha cho đệ. Đi đi, lúc lên đường tế bái cha mẹ, để cho bọn họ dưới suối vàng cũng biết, cũng cao hứng một chút!”
Điền Văn Kính xoay người đi trở về phủ lĩnh bài tử đi Lại bộ báo cáo.
Tự nhiên edit chương này nghe mấy bài của Triệu Vy lại nhớ bài Khóc Mưa của chị ấy, mê mệt bài này từ năm lớp cơ, có nghĩa cách đây năm, sau này khi học đại học năm mới tìm đc lời Việt, càng mê hơn. lần thất tình đều nghe bài này đến chai luôn, haizzz...
Quên mất rằng đôi mắt của em phải khép lại như thế nào thì mới có thể nhớ đến anh,
Em hiểu khung rèm cửa sổ của anh kéo sang là do ai, là ánh trăng lạnh lẽo....
Nước mắt của em ko vì anh mà nói dối, có người yêu hy vọng quá nhiều.
Còn có thể có thứ gì đáng quý để em đi cất giấu, là những vết thương của tình yêu.
(có người yêu hy vọng quá nhiều, còn có thứ gì đáng để em đi cất giữ ....)
Nước mắt của em ko vì anh nói dối)
Mỗi lần em thử tha thứ cho anh, cho anh một cơ hội để rút lui một cách đẹp đẽ,
Nhưng chỉ nhìn thấy lòng tin của em, tan vỡ dần trong bàn tay anh.
Chuyện gì cũng có thể tha thứ, chuyện gì cũng có thể quên lãng, chỉ cần anh nói với em một câu.
Chuyện gì cũng có thể trốn tránh, chuyện gì cũng có thể chôn vùi, sự giả tạo hoàn mĩ.”>Chuyện gì cũng có thể tha thứ, chuyện gì cũng có thể quên lãng, trừ phi anh đã ko còn nghĩ nữa.
Chuyện gì cũng có thể trốn tránh, chuyện gì cũng có thể chôn vùi, cho đến khi nhìn thấy cô ấy dựa vào đôi vai anh...