Lông trên chân. Quá ư là nhiều. Ashling đang ở trong tình trạng khó xử về khoản lông lá. Cô đã tẩy lông chân bằng sáp vài tuần trước đó trong dịp Mùa hè Huyền ảo[Đợt bán hàng mùa hè với giá khuyến mại, diễn ra vào mùa nào đó trong năm không phải là mùa hè, phổ biến ở những nước có thời tiết lạnh, nhiều mưa như Ireland.], vì thế đám lông vẫn còn quá ngắn để làm lại lần nữa. Nhưng chúng lại quá dài, ôi vâng, quả dài, để lên giường với một ai đó.
Vậy ra là cô đang có kế hoạch ngủ với Marcus Valentine? Chậc, ai mà biết được, cô nghĩ Nhưng cô không muốn cặp chân lông lá của mình trở thành điều ngăn trở.
Cô có thể cạo chúng, cô tự nhủ. Trừ một điều là cô không thể. Một khi đã bắt đầu tẩy lông chân bằng sáp, phải cấm [Verboten - Tiếng Đức trong nguyên bản.]ngặt không được làm hỏng tất cả công sức đó bằng cách cạo chúng đi để rồi lông sẽ mọc cứng và tua tủa trở lại. Julie, cô gái đã tẩy lông chân cho cô, sẽ giết cô mất.
Chắc chăn phải dùng đồ tẩy lông Immac và do sai sót kinh khủng nào đó, Ashling lại hết mất. Ted được phái tới hiệu thuốc gần nhất với một mảnh giấy viết tay.
“Tại sao cậu lại không đi được?” anh chàng cằn nhằn, xấu hổ.
Ashling chỉ vào đám giấy bạc quấn quanh đầu cô. “Tóc tớ đang hấp dầu nóng. Nếu tớ ra ngoài như thế này mọi người sẽ nghĩ là người ngoài hành tinh vừa hạ cánh.”
“Đừng hòng! Họ sẽ biết ngay là người ngoài hành tinh không đời nào tìm được một chỗ hạ cánh trong cái thành phố này. Ashling,” anh ta phàn nàn. “tớ phải đưa tờ giấy này cho cô gái à? Chẳng nhẽ tớ không thể lấy thẳng trên giá sao?”
“Không. Có quá nhiều biến thể mà cậu lại là đàn ông. Tớ muốn loại kem không mùi còn cậu sẽ quay về với thứ gel hương chanh. Hoặc tệ hơn, thậm chí có khi cậu còn lấy cho tớ loại phải cạy bằng bay ấy chứ. Giờ thì làm ơn đi đi!”
Thật kinh ngạc, nhiệm vụ lại thành công và Ashling chui ngay vào phòng tắm để đứng trong bồn, hai chân cô sôi xèo xèo với cái thứ chất màu trắng độc hại trong khi cô chờ đám lông cháy hết. Cô thở dài. Nhiều khi làm phụ nữ thật khó khăn.
Màn điên cuồng làm đẹp được khởi động khi Marcus gọi điện vào chiều thứ Hai và gợi ý, “Thế nào nhỉ?”
“Cái gì thế nào?”
“Gì cũng được. Một chầu uống? Một túi khoai tây? Sex tới bến luôn?”
“Một chầu uống nghe có vẻ tuyệt đấy. Một túi khoai tây cũng vậy.” Anh ta im lặng một lát. “Vậy còn màn sex tới bến luôn?” anh ta gặng hỏi, như một cậu bé tinh quái.
Ashling nuốt ực và cố làm ra vẻ đùa cợt. “Chúng ta sẽ phải xem chuyện đó sau.”
“Nếu anh ngoan chứ gì?”
“Nếu anh ngoan.”
Và rồi Ashling lao vào hành động, một màn nhoáng nhoàng xoa cái này lên hoặc xoa cái kia xuống. Suốt cả buổi chiều cô gội và xả tóc thật kỹ lưỡng, kỳ cọ khắp người, tẩy bỏ lớp sơn sứt sẹo khỏi các móng chân và quét lớp mới, cho phăng teo đám lông chân, thoa vô tội vạ lên người thứ kem dưỡng ẩm Gucci Envy vón chỉ được lôi ra trong những dịp đặc biệt, chải một phần tư lọ kem làm mượt lên mái tóc, trát kín người bằng đồ trang điểm - đây không phải là lúc cho sự tinh tế - và tự làm ướt sũng người bằng Envy eau de parfum.
Ted lại mò xuống để giám sát những khâu chuẩn bị cuối cùng. Anh ta hớn hở vì Marcus và Ashling tỏ ra tâm đầu ý hợp thế là anh ta có thể thúc đẩy sự nghiệp tấu hài của mình thông qua mối quan hệ gần gũi với Marcus. “Trông thật sexy vào,” anh chàng giục, vừa ngồi xuống giường, vừa nhìn cô chải lớp mascara thứ ba và cũng là cuối cùng.
“Tớ đang CỐ đây!” Cô nghe thấy mình quát lên. Rõ ràng cô đang hồi hộp hơn là cô nghĩ. Hãy xem những gì hy vọng đã gây ra với cô! Chất chứa tất cả niềm khao khát tình yêu và sự ổn định của cô vào cơn giận dữ, rồi biến cô thành một kẻ suy nhược thần kinh. Nhiều khi, như lúc này, cô nghĩ có lẽ cô đã dằn vặt quá nhiều. Liệu điều này có bình thường không? Cô tự hỏi. Có lẽ. Và nếu không phải thì sao? Thì, tại mình đã có một tuổi thơ thiếu thốn, cô chua chát nghĩ.
Được rồi, có thể không phải là thiếu thốn kiểu túng quẫn. Nhưng là thiếu thốn những cái thông thường, thiếu thốn những điều bình dị. Sau đợt trầm cảm đầu tiên của mẹ cô, sự chăm lo bình thường không bao giờ thực sự khôi phục được nữa. Thay vào đó, cuộc sống như tất cả họ vẫn biết trước đó đã trượt dần đi. Mãi mãi: cho dù khi ấy họ không hề biết điều đó.
Điều trớ trêu của nó là ở chỗ, ban đầu Ashling còn lấy làm phấn khích khi những giờ ăn đều đặn bắt đầu bị bỏ bê. Khi cô bị một vết bẩn trên chiếc áo len của mình, cô sung sướng vì không bị quát mắng. Nhưng khi ngày cứ dần trôi qua, cuối cùng thậm chí chính cô cũng có thể thấy là những quần áo cô mặc lên người đều dơ bẩn. Niềm sung sướng đã nhường chỗ cho nỗi lo âu. Thế này không ổn.
“Hôm nay con sẽ mặc cái này nhé?” Cô tự trình diễn trước mặt mẹ mình trong một chiếc váy mùa hè bẩn thỉu. Để ý đến con đi, để ý đến con đi.
Đôi mắt đờ đẫn của mẹ cô nhìn ra từ một khuôn mặt chảy xị xuống trong nỗi thống khổ vô hình. “Nếu con muốn.”
Chuyện ăn mặc của Janet và Owen không khá gì hơn. Và cả mẹ cô cũng thế - trước kia bà vẫn luôn xinh đẹp và ăn mặc cầu kỳ vậy mà bây giờ thậm chí còn không để ý là mình xuất hiện ở chỗ đông người với chiếc áo dính vết trứng.
Mùa hè năm đó họ rất hay tới cái công viên gần nhà. Monica thường thốt lên, “Mẹ không thể nào chịu nổi ở trong cái nhà này,” rồi lùa tất cả mấy chị em ra. Nhưng ngay cả ở trong công viên bà cũng hiếm khi thôi khóc, và bà không bao giờ có một chiếc khăn tay. Do đó Ashling, vì nghĩ là cũng không hay khi mẹ cô lau nước mắt bằng ống tay áo của bà, bắt đầu gấp một gói khăn giấy vào túi áo len của bà mỗi lần mấy mẹ con ra ngoài.
Khi ra đến công viên Ashling thường đạo diễn mọi chuyện sao cho ít nhất Janet và Owen thấy vui vẻ. Khi chúng mè nheo đòi kem, Ashling rất sốt sắng bảo đảm cho chúng có ngay: nhỡ may mà chúng hờn dỗi, cô sợ là điều đó sẽ làm bung bét tất cả. Nhưng mẹ cô không bao giờ nhớ mang theo đồng nào, vì vậy Ashling có một chiếc ví nhựa màu nâu và hồng có hình dáng như mặt của một con chó và cô bắt đầu mang theo thay mẹ.
Khi mùa hè nhích dần, Monica hình thành một thói quen mới rất đáng sợ. Mỗi khi ngồi đờ đẫn trên một chiếc ghế dài, bà lại cạy và bóc một vết cắt trên cánh tay, chỉ vừa lòng khi nó bắt đầu chảy máu. Chính quãng thời gian này là khi Ashling bắt đầu mang theo trong người một tập nhỏ những miếng Band-Aid.
Phải có cách gì đó chứ. Chắc hẳn phải có ai đó để ý chứ?
Cô bắt đầu cầu nguyện rằng mẹ mình sẽ khỏi bệnh và rằng bố cô sẽ không đi biệt tăm mỗi sáng thứ Hai và không ló mặt về đến tận thứ Sáu. Và rồi, khi những lời cầu nguyện không mang lại kết quả mong muốn, cô ấp ủ niềm tin kỳ quái rằng nếu cô xả nước toilet ba lần mỗi khi sử dụng, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. Sau đó cô hình thành ý nghĩ rằng mỗi khi đi xuống cầu thang cô phải xoay ngưòi một vòng ở dưới chân. Đơn giản là phải thế, và nếu cô quên không làm vậy cô lại phải quay lên cầu thang và thực hiện lại toàn bộ nghi thức một lần nữa.
Những trò mê tín bắt đầu có tầm quan trọng to lớn. Nếu cô nhìn thấy một con ác là - buồn - cô lại phải khắc khoải lia mắt khắp bầu trời tìm một con thứ hai - vui. Một hôm cô làm đổ muối và để tránh có thêm nước mắt cô ném một chút qua vai trái của mình. Để rồi chúng rơi vào cái bánh kem. Mẹ cô thẫn thờ nhìn chằm chằm vào những hạt muối đang tan vào trong lớp kem, rồi gục đầu xuống bàn làm bếp và khóc. Chẳng thay đổi được gì.
***
Cái giọng ông ổng của Ted đưa cô quay trở về thực tại. “Ashling, nói cho tớ đi! Những quân bài tarot nói gì về đêm nay?”
Cô nhanh chóng trấn tĩnh lại, rất, rất mừng vì đang ở hiện tại chứ không phải ngày xưa nữa. “Không tệ. Bốn chiếc cốc.” Không cần phải nhắc đến việc trước đó cô đã rút và tráo đi quân Mưòi thanh kiếm đen đủi hơn. “Và tử vi của tớ trên hai trong số những tờ báo Chủ nhật đều tốt cả,” cô nói tiếp. Và không tốt lắm trong hai tờ báo khác, nhưng có hại gì chư? “Và quân bài Thiên thần Tiên tri mà tớ rút được lại là quân Phép màu Tình yêu.” Cuối cùng thì cũng phải là nó, sau những quân Trưởng thành, Sức khỏe, Sáng tạo và Khôn ngoan.
“Đó là cái cậu sẽ mặc sao?” Ted hất đầu về phía chiếc quần lửng dài- ba-phần-tư màu đen và chiếc áo chít eo của cô.
“Thì sao?” Ashling hỏi với vẻ đề phòng. Cô đã mặc thử rất cẩn thận và thấy đặc biệt vừa lòng với chiếc áo bởi vì, do một thủ thuật ánh sáng nào đó, nó tạo ra hội chứng eo giả.
“Cậu không có cái váy ngắn nào à?”
“Tớ không bao giờ mặc váy ngắn cả,” cô càu nhàu, vừa lo lắng tự hỏi không biết mình đánh phấn hồng có quá tay không. “Tớ ghét chân của tớ. Tớ có đánh quá nhiều phấn không?”
“Cái nào là phấn hồng? Cái thứ màu đỏ trên má cậu ấy à? Không, đánh thêm ít nữa đi.”
Ngay lập tức Ashling lau vợi đi. Động cơ của Ted rất đáng ngờ. “Cậu gặp anh ta ở đâu? Quán Kehoe à? Tớ sẽ đi với cậu đến đó.” “Không, cậu đếch đi đâu hết,” Ashling nói dứt khoát.
“Nhưng tớ chỉ...”
“Không!”
Điều cuối cùng Ashling muốn là Ted lẵng nhẵng xung quanh, quấy rầy Marcus một cách tha thiết, hỏi xem liệu cậu ta có thể là người bạn thân mới của anh được không.
“Chẹp, vậy thì chúc may mắn,” Ted thiểu não nói, trong khi Ashling thảy viên sỏi may mắn vào chiếc túi xách thêu mới của mình, xỏ chân vào đôi guốc đế liền và sẵn sàng lên đường. “Tớ hy vọng đây là chuyện tình được xếp đặt từ thiên đường.”
“Tớ cũng thế,” Ashling thú nhận, rồi vội vàng mấp máy môi cầu nguyện Chúa, hoặc bất kỳ ai là Thiên sứ phụ trách Tình yêu, “nếu quả là như vậy.”
“Đếch có đâu,” Ted khinh bỉ.
Một màn xoa tượng Phật nhoáng nhoàng, và Ashling lên đường.
Mình sẽ thích Marcus Valentine và anh ấy sẽ thích mình, mình sẽ thích Marcus Valentỉne và anh ấy sẽ thích mình... Khi cô đang thả dáng dọc trên phố Grafton với đôi guốc buộc phải đi lả lướt của mình, màn tụng kinh kiểu Lousie L. Hay của cô bị cắt ngang bởi một tiếng huýt sáo. Chẳng lẽ đã là Marcus Valentine rồi sao? Lạy Chúa, cái bài Lousie L. Hay quả là đỉnh thật!
Nhưng hóa ra không phải Marcus Valentine. Ở phía bên kia đường, là Boo, thiếu mất cái chăn màu cam. Anh ta đi cùng với hai người đàn ông khác, khuôn mặt không cạo và những bộ quần áo kỳ khôi của những người này - loại mà bạn dù có cố cũng không mua được - nói lên rằng họ cũng là người vô gia cư nốt. Họ đang ăn bánh sanchvich.
Thoáng bốc đồng vì lịch sự thúc cô băng qua đường.
“Vậy ra Ashling,” Boo vụt nở nụ cười lởm khởm của anh ta, “chị không đi nghỉ lễ sao?”
Ashling lắc đầu.
“Tôi cũng không đi,” Boo nói với vẻ nghiêm trang. Rồi anh ta vỗ trán vì sự luống cuống của mình và khoát tay choàng lấy hai người đàn ông đi cùng với mình. Một người còn trẻ, tóc tai bòm xờm và gầy tong teo, cạp chiếc quần thun anh ta mặc chỉ vừa đủ níu lấy phần hông chết đói của anh ta. Người kia lớn tuổi hơn và khuôn mặt anh ta bị vùi kín trong một bộ râu quai nón khổng lồ cùng mái tóc điên rồ, trông như thể người ta đã dán bọn mèo hoang lên khắp viền mặt anh ta bằng băng dính Sellorape. Anh ta diện đôi giày thể thao đã từng có một thời màu trắng và một bộ vest dạ tiệc rõ ràng là vốn được may riêng cho một người đàn ông thấp hơn nhiều so với anh ta.
Boo, so với họ, trông còn gần như là bình thường.
“Xin lỗi! Ashling, đây Jà JohnJohn,” anh ta trỏ gã trẻ hơn trong hai người đàn ông. “Còn đây là Dave Râu. Các cậu, đây là Ashling, thỉnh thoảng là hàng xóm của tôi và luôn luôn là một con người tốt bụng.”
Cảm thấy hơi xấu hổ, Ashling bắt tay với cả hai người. Giả sử mà Clodagh nhìn thấy cô lúc này - chắc bạn cô sẽ ngất xỉu mất! Đặc biệt là Chewbacca[Hay còn gọi là Chevvy, nhân vật hư cấu thuộc một loài sinh vật ngoài hành tinh trong loạt phim khoa học viễn tưởng"Chiến tranh giữa các vì sao”, có đặc điểm nổi bật là toàn thân phù kín lông, ở đây ám chỉ Dave Râu.] trông có vẻ dơ dáy và khi bàn tay anh ta xiết lấy tay Ashling, cô phải cố cưỡng lại cảm giác muốn rùng mình.
Một người qua đường gần như vặn nghoéo cả đầu mình lại khi anh ta nhìn thấy cái nhóm bộ tứ lạ thường ấy, Ashling thì sạch bong và thơm nức, ba người kia thì hoàn toàn ngược lại.
“Trông chị thật là hết sảy,” Boo nhận xét với vẻ ngưỡng mộ không giấu diếm. “Chắc chắn là chị đang hẹn hò với một gã nào rồi.”
“Quả là thế thật,” cô nói. Rồi, bị kích động bởi sự cảm tình đột ngột dành cho Boo, cô thừa nhận, “Cậu sẽ không bao giờ đoán được là ai đâu.”
“Ai?” Cả ba người bọn họ cùng há hốc miệng và châu lại gần hơn. Ashling phải nín thở.
“Marcus Valentine,” cô nói, buột cả câu với một hơi thở ra.
Boo phá lên cười đến tít cả mắt.
“Anh ta là nghệ sĩ hài phải không?” Dave Râu hỏi, trong một tiếng gầm gừ chậm rãi và trầm đục.
Ashling gật đầu.
“Người chuyên biểu diễn về cú chứ gì?” JohnJohn cực kỳ háo hức.
Lạy Chúa toàn năng. Chẳng lẽ danh tiếng của Ted lại lan xa đán nỗi ngay cả những công dân ngoài lề xã hội cũng biết về cậu ta hay sao? Cứ chờ đến khi cô kể với cậu ta cho mà xem!
“Đấy là Ted Mullins Chim cú,” Boo giải thích với JohnJohn. “Marcus Valentine biểu diễn về bơ và bông tuyết.”
“Không biết anh ta.” JohnJohn thất vọng
“Anh ta tuyệt lắm. Ashling, đây đúng là tin hết sảy! ừm, tôi hy vọng chị thấy vui vẻ.”
“Cám ơn. Tôi sẽ để các anh dùng bữa tối trong yên ổn vậy.” Ashling chỉ những chiếc sandwich mà họ đã dừng ăn khi cô xuất hiện.
“Mark & Spencer đấy,” Boo nói. “Họ cho chúng tôi bất kỳ thứ gì họ không bán được. Tôi biết là quần áo của họ hơi tẻ nhạt một chút, nhưng bánh mỳ kẹp của họ thì ngon tuyệt!”
Đột nhiên ba người đàn ông cứng đờ người như thể cảm thấy nguy hiểm. Ashling nhìn theo. Hai viên cảnh sát ở đầu đường có vẻ như là vấn đề.
“Trông họ có vẻ buồn chán.” JohnJohn tỏ ra lo lắng.
“Đi thôi!” Boo giục, và họ chạy mất hút. “Tạm biệt Ashling.”
***
Khi cô tới quán rượu, Marcus đã có mặt ở đó, ngồi chờ trong trang phục quân lính và áo thun, một vại bia Guinness trước mặt anh ta. Có gì đó giật nẩy lên trong Ashling khi nhìn thấy anh ta. Anh ấy đã đến. Chuyện này đang thực sự xảy ra.
Một cảm giác mơ hồ giằng xé trong cô - cô cảm thấy như thế nào về anh ta nhỉ? Có phải anh ta là gã thộn mặt tàn nhang với thái độ săn đón mà cô đã từ chối bellez? Hay là người nghệ sĩ biểu diễn đầy tự tin có cú điện thoại mà cô khao khát? vẻ ngoài của anh ta không giúp được gì trong việc giải tỏa điều trăn trở, không hấp dẫn đến rồ dại nhưng cũng chẳng dị hợm đến nực cười. Không thể cãi vào đâu được - anh ta trông thật bình thường. Tóc anh ta màu nâu vàng để kiểu húi cua, đôi mắt không rõ ràng là màu gì, và tất nhiên còn cả vấn đề nhỏ là những vết tàn nhang. Nhưng cô thích những gì bình thưòng. Cô xứng đáng với những gì bình thường. Bay sát mặt trời quá cũng chẳng ích gì.
Và cho dù là người bình thường, thì chiều cao của anh ta có nghĩa là ít nhất anh ta cũng thuộc dạng binh thường hạng sang. Anh ta còn có thân hình đẹp nữa.
Khi trông thấy cô anh ta đứng dậy và ra hiệu. Có một khoảng trống cạnh anh ta trên băng ghế và cô lèn người vào.
“Xin chào,” anh ta trịnh trọng nói, khi cô đã ổn định xong.
“Xin chào,” cô trả lời, cũng trịnh trọng không kém.
Và rồi cả hai cùng bật cười khúc khích. Giờ thì anh ta cũng thế.
“Anh lấy cho em thứ gì đó uống nhé?” anh ta hỏi.
“Vâng. Một ly vodka-và-tonic, cám ơn.”
Khi anh ta quay lại với đồ uống của cô, Ashling nhoẻn miệng nở với anh ta một nụ cười thoải mái. Anh ta tỏ ra thân mật đến nỗi khó có thể coi chuyện này là nghiêm túc. Điều đó làm rỉ ra một dòng suối thất vọng đến ngao ngán len lỏi trong cô. Cô không hề phải lòng anh ta. Bao nhiêu hồi hộp chờ đợi cú điện thoại của anh ta, vứt đi. Cô thăm dò thêm một chút, hết nhảy cóc từ những vết tàn nhang của anh ta sang cảm xúc của cô và ngược lại. Không, chắc chắn là cô không hề phải lòng anh ta. Lẽ ra đám lông vẫn có thể ở yên trên chân cô. Lẽ raTed đã có thể thoát khỏi chuyến đi phát ngượng tới hiệu thuốc. Hừm, vậy đấy. Nhưng có lẽ họ có thể là bạn. Trong thực tế, xét cho cùng có khi anh ta còn có thể giúp đỡ sự nghiệp biểu diễn của Ted.
Rất trâng tráo cô mỉm cười với anh ta và hỏi, “Vậy dạo này anh đang làm gì?”
Bất thình lình cô chợt nhớ ra rằng đây chính là người đàn ông sắp, nói theo cách của Lisa, “lên hàng sao”, và ngay lập tức vẻ thiếu tôn trọng suồng sã của cô bốc hơi mất. Mới chỉ vài giây trước tưởng chừng cô đã có thể hỉ hả kể với anh ta những khoảnh khắc trớ trêu nhất của mình, nhưng thật lạ lùng, bộ óc cô như vừa tự xóa sạch tất cả những chủ đề trò chuyện.
“Thì nhì nhăng cái này một chút, cái kia một chút,” anh ta trả lời.
Đến lượt cô. Cô nên nói gì nhỉ? Điều cuối cùng, điều cực kỳ cuối cùng mà cô nên đề cập tới là sự nghiệp biểu diễn hài của anh ta. Như thế sẽ là quá ngờ nghệch, và bởi vì đã thành công đến thế thì chắc hẳn anh ta đã chán ngấy việc được tán tụng và khen ngợi.
Vì thế cô hết sức ngạc nhiên khi để phá vỡ sự im lặng bối rối anh ta nói, “Vậy em có thích buổi biểu diễn thứ Bảy tuần trước không?”
“Có chứ,” cô nói. “Tất cả mọi người đều rất khôi hài.”
Cô cảm thấy sự chờ đợi từ phía anh ta, vì vậy cô thận trọng nói tiếp, “Em nghĩ anh thật tuyệt vời.’ “À, đó chưa phải là một trong những màn tốt nhất của anh đâu,” anh ta nháy mắt, thấp thoáng vẻ dễ tổn thương ngây ngô như trên sân khấu. Thái độ như vừa thở phào nhẹ nhõm của anh ta hiện lên rõ mồn một.
Lại đến lượt Ashling. “Anh có công việc nào khác, anh biết đấy, ngoài việc, ờ, diễn hài không?”
“Anh viết phần mềm cho Cablelink, nâng cấp mạng thành sợi cáp quang ấy mà.”
“À ờ, thật vậy sao?”
“Công việc đến là hay ho,” anh ta mỉm cười khổ sở. “Chẳng trách anh phải biểu diễn tấu hài. Vậy em làm gì?”
Ôi ôi. “Em làm cho một tạp chí dành cho phụ nữ.”
“Tên nó là gì nhỉ?”
“À, ờ, Colleen
“Colleen’ Về mặt anh ta chợt thay đổi. “Họ đang yêu cầu anh viết một chuyên mục. Cái cô Lisa gì đó.”
“Edwards. Lisa Edwards. Cô ấy là sếp của em,” Ashling thừa nhận, cảm thấy tội lỗi cho dù chẳng việc gì phải thế cả.
Nỗi ngờ vực làm biến đổi khuôn mặt anh ta thành thứ gì đó gay gắt ,và lạnh lùng. “Đó là lý do tại sao em lại đi chơi với anh phải không? Để thuyết phục anh viết một chuyên mục?”
“Không! Hoàn toàn không.” Cô khiếp sợ bị nghĩ là người mưu mô. “Em chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả và em cũng không quan tâm nếu anh không bao giờ làm công việc đó.”
Không hoàn toàn chính xác. Nếu anh đồng ý phụ trách chuyên mục thì đó sẽ là một chiến công[Nguyên văn "chiếc lông trên mũ của cô.”] của cô, nhưng cô sẽ không đời nào giục giã làm gì. Nhưng cô thấy động lòng trước sự cảnh giác của anh ta và không hiểu từ đâu một nỗi thôi thúc chở che trỗi dậy trong cô.
“Nói thật lòng,” cô nhẹ nhàng nói, “em ở đây chỉ vì em muốn thế. Hoàn toàn không dính dáng tới bất kỳ điều gì khác.”
“OK,” anh ta gật đầu tư lự. Rồi anh ta bật cười, “Anh tin em, em có khuôn mặt rất thật thà.”
Ashling chun mũi lên. “Chúa ơi, gì chứ có cái đó thì thật kinh khủng.” Cỏ chỉ vào vại bia cạn của anh ta. “Thêm trà chứ, cha xứ?”
“À? Không. Ashling, anh hỏi em một chút,” giọng anh ta đầy vẻ xin lỗi, “em có phiền không nếu chúng ta ghé qua một buổi diễn hài? Chỉ trong khoảng nửa tiếng thôi? Có một người mà anh rất muốn ngó qua một chút.”
“Được chứ, sao lại không?” Rõ ràng đầy sẽ không phải là buổi hẹn hò kiểu ánh-sáng-dịu-dàng-và-bữa-tối-đắt-tiền. Thực ra thì cũng đâu có sao.
Buổi diễn chỉ cách đó có vài con phố, trong một quán rượu khác. Marcus được chào đón ở cửa như người của hoàng tộc và, trước sự thích thú của Ashling, cả hai người đều được vẫy cho qua mà không phải trả tiền. Trong căn phòng đông nghẹt, hết người này đến người khác bước lại gần anh - hầu hết là những nghệ sĩ hài khác - và Marcus giới thiệu Ashling với tất cả bọn họ. Mình có thể làm quen với chuyện này, Ashling thầm nghĩ.
Buổi biểu diễn cũng tương tự như những lần mà Ashling đã tham dự. Hàng đống người lèn vào trong một căn phòng chật chội tối tăm, với một mảng sân khấu bé tí ở trong góc. Nghệ sĩ hài mà Marcus quan tâm bắt chước dáng vẻ của một người trầm cảm rầu rĩ và tự xưng là Người Lithium.
Khi anh ta kết thúc màn diễn dài mười phút của mình, Marcus khẽ chạm vào Ashling. “Giờ thì chúng ta có thể đi được rồi.”
“Nhưng em cũng không phiền nếu chúng ta ở lại...”
Anh ta lắc đầu. “Không. Anh muốn nói chuyện với em.”
Anh ta mỉm cười qua màn tranh tối tranh sáng, và Ashling chợt nhận ra rằng mặc dù chỉ là một người bình thường, nhưng anh ta lại phạm phải sai lầm là, thuộc vào loại đẹp trai của kiểu người bình thường đó.
Khi họ đã yên vị trong một quán rượu khác, Marcus hỏi, “Vậy em nghĩ thế nào về Người Lithium?”
Ashling ngập ngừng. “Nói thật nhé, em không thích anh ta lắm.” “Vậy sao? Như thế nào cơ?” Marcus có vẻ rất quan tâm đến quan điểm của cô, và cô thấy thật hãnh diện.
“Em không nghĩ đó là điều thông minh khi cười nhạo bệnh thần kinh,” cô thú nhận. “Trừ khi bạn thực sự hài hước, còn anh ta thì không rồi.”
“Vậy em nghĩ ai là ngưòi hài hước,” anh ta chăm chú hỏi.
“À, hiển nhiên là anh rồi.” Cô cười hơi chói tai khi nói câu đó, nhưng có vẻ như anh ta không lấy thế làm phiền. “Anh thích ai?”
“À, hiển nhiên là anh rồi.” Họ cười khúc khích đầy ý đồ khi Narcus nói câu đó. “Và Samuel Beckett.”[Samuel Barklay Beckett (1906-1989): Nhà văn, nhà viết kịch Ireland, đoạt giải Nobel Văn học năm 1969.]
Ashling cười khanh khách cho đến khi cô nhận ra là anh ta hoàn toàn nghiêm túc. Chết tiệt.
“Anh nghĩ ông ta là nhà soạn hài kịch giỏi nhất của thế kỷ,” Marcus trầm trồ.
“Em đã có lần xem vở Đời Godot,” Ashling ngập ngừng nói. Không cần phải nói rõ rằng đó là một buổi ngoại khóa ở trường và cô hoàn toàn không hiểu đầu đuôi vở kịch ra làm sao cả. Nhưng ngoài trục trặc về Beckett ra, buổi tối trôi qua mà không có sự vụ gì. Đồ uống chảy tràn còn Marcus thì quyến rũ và quan tâm tới cô. Do những vết tàn nhang của anh ta, cô thấy thoải mái khi ở bên anh ta và kể cho anh ta nghe rất nhiều chuyện, về những buổi học salsa của cô - cô phải thú nhận cô rất phấn khích là cô đã thực sự theo đuổi nó vì chắc hẳn trông cô có vẻ giống như một người có “sở thích”. Rồi sự đam mê của cô đối với túi xách và rằng, phần lớn thời gian, cô yêu công việc mới của mình ở Colleen như thế nào. “Mặc dù đó không hề có gì là bóng gió cả.”
“Anh biết. Nhưng nói thật nhé, em có phải chịu áp lực là mang về cho họ đầu của Marcus Valentine không?”
“K-không,” cô lúng búng.
“Và ở chỗ làm họ không dựa dẫm gì vào em về chuyện này chứ?”
“Không đời nào.” Ashling nói chắc như đinh đóng cột. “Thật ra thì không có đả động gì đến chuyện đó cả.”
“À.” Sau một thoáng im lặng anh ta nói thêm, “Anh hiểu... Anh hiểu”
Vừa đắm đăm nhìn dưới hàng mi, anh ta vừa khẽ mỉm cười với cô, và với một cảm giác ấm áp bất chợt trào lên trong lòng, Ashling nhận ra rằng cô thấy anh thật quyến rũ. Chắc hẳn anh phải là mẫu người mà bạn càng lúc càng thấy cảm tình hơn. Và anh thực sự không hề giống với con người trên sân khấu của mình chút nào. Thế cũng tốt - những kẻ đầu đất xuẩn ngốc không hẳn là người tiếp lửa trong phòng ngủ.
Rồi anh ta nhích người, nghiêng đầu về phía Ashling rồi nói bằng một giọng khe khẽ, đầy ý nghĩa, “Em có muốn một túi khoai tây chiên không?”
“Không, cảm ơn.”
“Vậy là chúng ta vừa có một chầu uống, em không muốn ăn khoai tây chiên, tất cả những gì còn lại của chương trình là...” Sex tới bến luôn. Mặc dù cô không thể nhớ nổi được số cốc mà cô đã uống, ý nghĩ đó vẫn choán lấy cô đến độ sững sờ một cách đột ngột và không thể nào giải thích nổi. Không hẳn là sợ hãi, nhưng cũng không hẳn là không sợ hãi. Cô thực sự thích anh ta, cô thấy anh ta thật quyến rũ, nhưng...
“Ôi, anh có phiền... Anh biết đấy, em không có ý định đi quá khuya trong buổi tối hôm nay. Sáng ra còn phải đi làm và đại loại thế.”
“À đúng! Nhất định rồi,” anh ta bình thản nói, nhưng anh ta không nhìn thẳng vào mắt cô. “Nếu vậy chúng ta nên về thôi.”
Anh ta hôn cô khi thả cô xuống trước nhà, nhưng không hiểu sao cô không thấy yên tâm cho lắm.
Lông trên chân. Quá ư là nhiều. Ashling đang ở trong tình trạng khó xử về khoản lông lá. Cô đã tẩy lông chân bằng sáp vài tuần trước đó trong dịp Mùa hè Huyền ảo[Đợt bán hàng mùa hè với giá khuyến mại, diễn ra vào mùa nào đó trong năm không phải là mùa hè, phổ biến ở những nước có thời tiết lạnh, nhiều mưa như Ireland.], vì thế đám lông vẫn còn quá ngắn để làm lại lần nữa. Nhưng chúng lại quá dài, ôi vâng, quả dài, để lên giường với một ai đó.
Vậy ra là cô đang có kế hoạch ngủ với Marcus Valentine? Chậc, ai mà biết được, cô nghĩ Nhưng cô không muốn cặp chân lông lá của mình trở thành điều ngăn trở.
Cô có thể cạo chúng, cô tự nhủ. Trừ một điều là cô không thể. Một khi đã bắt đầu tẩy lông chân bằng sáp, phải cấm [Verboten - Tiếng Đức trong nguyên bản.]ngặt không được làm hỏng tất cả công sức đó bằng cách cạo chúng đi để rồi lông sẽ mọc cứng và tua tủa trở lại. Julie, cô gái đã tẩy lông chân cho cô, sẽ giết cô mất.
Chắc chăn phải dùng đồ tẩy lông Immac và do sai sót kinh khủng nào đó, Ashling lại hết mất. Ted được phái tới hiệu thuốc gần nhất với một mảnh giấy viết tay.
“Tại sao cậu lại không đi được?” anh chàng cằn nhằn, xấu hổ.
Ashling chỉ vào đám giấy bạc quấn quanh đầu cô. “Tóc tớ đang hấp dầu nóng. Nếu tớ ra ngoài như thế này mọi người sẽ nghĩ là người ngoài hành tinh vừa hạ cánh.”
“Đừng hòng! Họ sẽ biết ngay là người ngoài hành tinh không đời nào tìm được một chỗ hạ cánh trong cái thành phố này. Ashling,” anh ta phàn nàn. “tớ phải đưa tờ giấy này cho cô gái à? Chẳng nhẽ tớ không thể lấy thẳng trên giá sao?”
“Không. Có quá nhiều biến thể mà cậu lại là đàn ông. Tớ muốn loại kem không mùi còn cậu sẽ quay về với thứ gel hương chanh. Hoặc tệ hơn, thậm chí có khi cậu còn lấy cho tớ loại phải cạy bằng bay ấy chứ. Giờ thì làm ơn đi đi!”
Thật kinh ngạc, nhiệm vụ lại thành công và Ashling chui ngay vào phòng tắm để đứng trong bồn, hai chân cô sôi xèo xèo với cái thứ chất màu trắng độc hại trong khi cô chờ đám lông cháy hết. Cô thở dài. Nhiều khi làm phụ nữ thật khó khăn.
Màn điên cuồng làm đẹp được khởi động khi Marcus gọi điện vào chiều thứ Hai và gợi ý, “Thế nào nhỉ?”
“Cái gì thế nào?”
“Gì cũng được. Một chầu uống? Một túi khoai tây? Sex tới bến luôn?”
“Một chầu uống nghe có vẻ tuyệt đấy. Một túi khoai tây cũng vậy.” Anh ta im lặng một lát. “Vậy còn màn sex tới bến luôn?” anh ta gặng hỏi, như một cậu bé tinh quái.
Ashling nuốt ực và cố làm ra vẻ đùa cợt. “Chúng ta sẽ phải xem chuyện đó sau.”
“Nếu anh ngoan chứ gì?”
“Nếu anh ngoan.”
Và rồi Ashling lao vào hành động, một màn nhoáng nhoàng xoa cái này lên hoặc xoa cái kia xuống. Suốt cả buổi chiều cô gội và xả tóc thật kỹ lưỡng, kỳ cọ khắp người, tẩy bỏ lớp sơn sứt sẹo khỏi các móng chân và quét lớp mới, cho phăng teo đám lông chân, thoa vô tội vạ lên người thứ kem dưỡng ẩm Gucci Envy vón chỉ được lôi ra trong những dịp đặc biệt, chải một phần tư lọ kem làm mượt lên mái tóc, trát kín người bằng đồ trang điểm - đây không phải là lúc cho sự tinh tế - và tự làm ướt sũng người bằng Envy eau de parfum.
Ted lại mò xuống để giám sát những khâu chuẩn bị cuối cùng. Anh ta hớn hở vì Marcus và Ashling tỏ ra tâm đầu ý hợp thế là anh ta có thể thúc đẩy sự nghiệp tấu hài của mình thông qua mối quan hệ gần gũi với Marcus. “Trông thật sexy vào,” anh chàng giục, vừa ngồi xuống giường, vừa nhìn cô chải lớp mascara thứ ba và cũng là cuối cùng.
“Tớ đang CỐ đây!” Cô nghe thấy mình quát lên. Rõ ràng cô đang hồi hộp hơn là cô nghĩ. Hãy xem những gì hy vọng đã gây ra với cô! Chất chứa tất cả niềm khao khát tình yêu và sự ổn định của cô vào cơn giận dữ, rồi biến cô thành một kẻ suy nhược thần kinh. Nhiều khi, như lúc này, cô nghĩ có lẽ cô đã dằn vặt quá nhiều. Liệu điều này có bình thường không? Cô tự hỏi. Có lẽ. Và nếu không phải thì sao? Thì, tại mình đã có một tuổi thơ thiếu thốn, cô chua chát nghĩ.
Được rồi, có thể không phải là thiếu thốn kiểu túng quẫn. Nhưng là thiếu thốn những cái thông thường, thiếu thốn những điều bình dị. Sau đợt trầm cảm đầu tiên của mẹ cô, sự chăm lo bình thường không bao giờ thực sự khôi phục được nữa. Thay vào đó, cuộc sống như tất cả họ vẫn biết trước đó đã trượt dần đi. Mãi mãi: cho dù khi ấy họ không hề biết điều đó.
Điều trớ trêu của nó là ở chỗ, ban đầu Ashling còn lấy làm phấn khích khi những giờ ăn đều đặn bắt đầu bị bỏ bê. Khi cô bị một vết bẩn trên chiếc áo len của mình, cô sung sướng vì không bị quát mắng. Nhưng khi ngày cứ dần trôi qua, cuối cùng thậm chí chính cô cũng có thể thấy là những quần áo cô mặc lên người đều dơ bẩn. Niềm sung sướng đã nhường chỗ cho nỗi lo âu. Thế này không ổn.
“Hôm nay con sẽ mặc cái này nhé?” Cô tự trình diễn trước mặt mẹ mình trong một chiếc váy mùa hè bẩn thỉu. Để ý đến con đi, để ý đến con đi.
Đôi mắt đờ đẫn của mẹ cô nhìn ra từ một khuôn mặt chảy xị xuống trong nỗi thống khổ vô hình. “Nếu con muốn.”
Chuyện ăn mặc của Janet và Owen không khá gì hơn. Và cả mẹ cô cũng thế - trước kia bà vẫn luôn xinh đẹp và ăn mặc cầu kỳ vậy mà bây giờ thậm chí còn không để ý là mình xuất hiện ở chỗ đông người với chiếc áo dính vết trứng.
Mùa hè năm đó họ rất hay tới cái công viên gần nhà. Monica thường thốt lên, “Mẹ không thể nào chịu nổi ở trong cái nhà này,” rồi lùa tất cả mấy chị em ra. Nhưng ngay cả ở trong công viên bà cũng hiếm khi thôi khóc, và bà không bao giờ có một chiếc khăn tay. Do đó Ashling, vì nghĩ là cũng không hay khi mẹ cô lau nước mắt bằng ống tay áo của bà, bắt đầu gấp một gói khăn giấy vào túi áo len của bà mỗi lần mấy mẹ con ra ngoài.
Khi ra đến công viên Ashling thường đạo diễn mọi chuyện sao cho ít nhất Janet và Owen thấy vui vẻ. Khi chúng mè nheo đòi kem, Ashling rất sốt sắng bảo đảm cho chúng có ngay: nhỡ may mà chúng hờn dỗi, cô sợ là điều đó sẽ làm bung bét tất cả. Nhưng mẹ cô không bao giờ nhớ mang theo đồng nào, vì vậy Ashling có một chiếc ví nhựa màu nâu và hồng có hình dáng như mặt của một con chó và cô bắt đầu mang theo thay mẹ.
Khi mùa hè nhích dần, Monica hình thành một thói quen mới rất đáng sợ. Mỗi khi ngồi đờ đẫn trên một chiếc ghế dài, bà lại cạy và bóc một vết cắt trên cánh tay, chỉ vừa lòng khi nó bắt đầu chảy máu. Chính quãng thời gian này là khi Ashling bắt đầu mang theo trong người một tập nhỏ những miếng Band-Aid.
Phải có cách gì đó chứ. Chắc hẳn phải có ai đó để ý chứ?
Cô bắt đầu cầu nguyện rằng mẹ mình sẽ khỏi bệnh và rằng bố cô sẽ không đi biệt tăm mỗi sáng thứ Hai và không ló mặt về đến tận thứ Sáu. Và rồi, khi những lời cầu nguyện không mang lại kết quả mong muốn, cô ấp ủ niềm tin kỳ quái rằng nếu cô xả nước toilet ba lần mỗi khi sử dụng, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. Sau đó cô hình thành ý nghĩ rằng mỗi khi đi xuống cầu thang cô phải xoay ngưòi một vòng ở dưới chân. Đơn giản là phải thế, và nếu cô quên không làm vậy cô lại phải quay lên cầu thang và thực hiện lại toàn bộ nghi thức một lần nữa.
Những trò mê tín bắt đầu có tầm quan trọng to lớn. Nếu cô nhìn thấy một con ác là - buồn - cô lại phải khắc khoải lia mắt khắp bầu trời tìm một con thứ hai - vui. Một hôm cô làm đổ muối và để tránh có thêm nước mắt cô ném một chút qua vai trái của mình. Để rồi chúng rơi vào cái bánh kem. Mẹ cô thẫn thờ nhìn chằm chằm vào những hạt muối đang tan vào trong lớp kem, rồi gục đầu xuống bàn làm bếp và khóc. Chẳng thay đổi được gì.
Cái giọng ông ổng của Ted đưa cô quay trở về thực tại. “Ashling, nói cho tớ đi! Những quân bài tarot nói gì về đêm nay?”
Cô nhanh chóng trấn tĩnh lại, rất, rất mừng vì đang ở hiện tại chứ không phải ngày xưa nữa. “Không tệ. Bốn chiếc cốc.” Không cần phải nhắc đến việc trước đó cô đã rút và tráo đi quân Mưòi thanh kiếm đen đủi hơn. “Và tử vi của tớ trên hai trong số những tờ báo Chủ nhật đều tốt cả,” cô nói tiếp. Và không tốt lắm trong hai tờ báo khác, nhưng có hại gì chư? “Và quân bài Thiên thần Tiên tri mà tớ rút được lại là quân Phép màu Tình yêu.” Cuối cùng thì cũng phải là nó, sau những quân Trưởng thành, Sức khỏe, Sáng tạo và Khôn ngoan.
“Đó là cái cậu sẽ mặc sao?” Ted hất đầu về phía chiếc quần lửng dài- ba-phần-tư màu đen và chiếc áo chít eo của cô.
“Thì sao?” Ashling hỏi với vẻ đề phòng. Cô đã mặc thử rất cẩn thận và thấy đặc biệt vừa lòng với chiếc áo bởi vì, do một thủ thuật ánh sáng nào đó, nó tạo ra hội chứng eo giả.
“Cậu không có cái váy ngắn nào à?”
“Tớ không bao giờ mặc váy ngắn cả,” cô càu nhàu, vừa lo lắng tự hỏi không biết mình đánh phấn hồng có quá tay không. “Tớ ghét chân của tớ. Tớ có đánh quá nhiều phấn không?”
“Cái nào là phấn hồng? Cái thứ màu đỏ trên má cậu ấy à? Không, đánh thêm ít nữa đi.”
Ngay lập tức Ashling lau vợi đi. Động cơ của Ted rất đáng ngờ. “Cậu gặp anh ta ở đâu? Quán Kehoe à? Tớ sẽ đi với cậu đến đó.” “Không, cậu đếch đi đâu hết,” Ashling nói dứt khoát.
“Nhưng tớ chỉ...”
“Không!”
Điều cuối cùng Ashling muốn là Ted lẵng nhẵng xung quanh, quấy rầy Marcus một cách tha thiết, hỏi xem liệu cậu ta có thể là người bạn thân mới của anh được không.
“Chẹp, vậy thì chúc may mắn,” Ted thiểu não nói, trong khi Ashling thảy viên sỏi may mắn vào chiếc túi xách thêu mới của mình, xỏ chân vào đôi guốc đế liền và sẵn sàng lên đường. “Tớ hy vọng đây là chuyện tình được xếp đặt từ thiên đường.”
“Tớ cũng thế,” Ashling thú nhận, rồi vội vàng mấp máy môi cầu nguyện Chúa, hoặc bất kỳ ai là Thiên sứ phụ trách Tình yêu, “nếu quả là như vậy.”
“Đếch có đâu,” Ted khinh bỉ.
Một màn xoa tượng Phật nhoáng nhoàng, và Ashling lên đường.
Mình sẽ thích Marcus Valentine và anh ấy sẽ thích mình, mình sẽ thích Marcus Valentỉne và anh ấy sẽ thích mình... Khi cô đang thả dáng dọc trên phố Grafton với đôi guốc buộc phải đi lả lướt của mình, màn tụng kinh kiểu Lousie L. Hay của cô bị cắt ngang bởi một tiếng huýt sáo. Chẳng lẽ đã là Marcus Valentine rồi sao? Lạy Chúa, cái bài Lousie L. Hay quả là đỉnh thật!
Nhưng hóa ra không phải Marcus Valentine. Ở phía bên kia đường, là Boo, thiếu mất cái chăn màu cam. Anh ta đi cùng với hai người đàn ông khác, khuôn mặt không cạo và những bộ quần áo kỳ khôi của những người này - loại mà bạn dù có cố cũng không mua được - nói lên rằng họ cũng là người vô gia cư nốt. Họ đang ăn bánh sanchvich.
Thoáng bốc đồng vì lịch sự thúc cô băng qua đường.
“Vậy ra Ashling,” Boo vụt nở nụ cười lởm khởm của anh ta, “chị không đi nghỉ lễ sao?”
Ashling lắc đầu.
“Tôi cũng không đi,” Boo nói với vẻ nghiêm trang. Rồi anh ta vỗ trán vì sự luống cuống của mình và khoát tay choàng lấy hai người đàn ông đi cùng với mình. Một người còn trẻ, tóc tai bòm xờm và gầy tong teo, cạp chiếc quần thun anh ta mặc chỉ vừa đủ níu lấy phần hông chết đói của anh ta. Người kia lớn tuổi hơn và khuôn mặt anh ta bị vùi kín trong một bộ râu quai nón khổng lồ cùng mái tóc điên rồ, trông như thể người ta đã dán bọn mèo hoang lên khắp viền mặt anh ta bằng băng dính Sellorape. Anh ta diện đôi giày thể thao đã từng có một thời màu trắng và một bộ vest dạ tiệc rõ ràng là vốn được may riêng cho một người đàn ông thấp hơn nhiều so với anh ta.
Boo, so với họ, trông còn gần như là bình thường.
“Xin lỗi! Ashling, đây Jà JohnJohn,” anh ta trỏ gã trẻ hơn trong hai người đàn ông. “Còn đây là Dave Râu. Các cậu, đây là Ashling, thỉnh thoảng là hàng xóm của tôi và luôn luôn là một con người tốt bụng.”
Cảm thấy hơi xấu hổ, Ashling bắt tay với cả hai người. Giả sử mà Clodagh nhìn thấy cô lúc này - chắc bạn cô sẽ ngất xỉu mất! Đặc biệt là Chewbacca[Hay còn gọi là Chevvy, nhân vật hư cấu thuộc một loài sinh vật ngoài hành tinh trong loạt phim khoa học viễn tưởng"Chiến tranh giữa các vì sao”, có đặc điểm nổi bật là toàn thân phù kín lông, ở đây ám chỉ Dave Râu.] trông có vẻ dơ dáy và khi bàn tay anh ta xiết lấy tay Ashling, cô phải cố cưỡng lại cảm giác muốn rùng mình.
Một người qua đường gần như vặn nghoéo cả đầu mình lại khi anh ta nhìn thấy cái nhóm bộ tứ lạ thường ấy, Ashling thì sạch bong và thơm nức, ba người kia thì hoàn toàn ngược lại.
“Trông chị thật là hết sảy,” Boo nhận xét với vẻ ngưỡng mộ không giấu diếm. “Chắc chắn là chị đang hẹn hò với một gã nào rồi.”
“Quả là thế thật,” cô nói. Rồi, bị kích động bởi sự cảm tình đột ngột dành cho Boo, cô thừa nhận, “Cậu sẽ không bao giờ đoán được là ai đâu.”
“Ai?” Cả ba người bọn họ cùng há hốc miệng và châu lại gần hơn. Ashling phải nín thở.
“Marcus Valentine,” cô nói, buột cả câu với một hơi thở ra.
Boo phá lên cười đến tít cả mắt.
“Anh ta là nghệ sĩ hài phải không?” Dave Râu hỏi, trong một tiếng gầm gừ chậm rãi và trầm đục.
Ashling gật đầu.
“Người chuyên biểu diễn về cú chứ gì?” JohnJohn cực kỳ háo hức.
Lạy Chúa toàn năng. Chẳng lẽ danh tiếng của Ted lại lan xa đán nỗi ngay cả những công dân ngoài lề xã hội cũng biết về cậu ta hay sao? Cứ chờ đến khi cô kể với cậu ta cho mà xem!
“Đấy là Ted Mullins Chim cú,” Boo giải thích với JohnJohn. “Marcus Valentine biểu diễn về bơ và bông tuyết.”
“Không biết anh ta.” JohnJohn thất vọng
“Anh ta tuyệt lắm. Ashling, đây đúng là tin hết sảy! ừm, tôi hy vọng chị thấy vui vẻ.”bg-ssp-{height:px}
“Cám ơn. Tôi sẽ để các anh dùng bữa tối trong yên ổn vậy.” Ashling chỉ những chiếc sandwich mà họ đã dừng ăn khi cô xuất hiện.
“Mark & Spencer đấy,” Boo nói. “Họ cho chúng tôi bất kỳ thứ gì họ không bán được. Tôi biết là quần áo của họ hơi tẻ nhạt một chút, nhưng bánh mỳ kẹp của họ thì ngon tuyệt!”
Đột nhiên ba người đàn ông cứng đờ người như thể cảm thấy nguy hiểm. Ashling nhìn theo. Hai viên cảnh sát ở đầu đường có vẻ như là vấn đề.
“Trông họ có vẻ buồn chán.” JohnJohn tỏ ra lo lắng.
“Đi thôi!” Boo giục, và họ chạy mất hút. “Tạm biệt Ashling.”
Khi cô tới quán rượu, Marcus đã có mặt ở đó, ngồi chờ trong trang phục quân lính và áo thun, một vại bia Guinness trước mặt anh ta. Có gì đó giật nẩy lên trong Ashling khi nhìn thấy anh ta. Anh ấy đã đến. Chuyện này đang thực sự xảy ra.
Một cảm giác mơ hồ giằng xé trong cô - cô cảm thấy như thế nào về anh ta nhỉ? Có phải anh ta là gã thộn mặt tàn nhang với thái độ săn đón mà cô đã từ chối bellez? Hay là người nghệ sĩ biểu diễn đầy tự tin có cú điện thoại mà cô khao khát? vẻ ngoài của anh ta không giúp được gì trong việc giải tỏa điều trăn trở, không hấp dẫn đến rồ dại nhưng cũng chẳng dị hợm đến nực cười. Không thể cãi vào đâu được - anh ta trông thật bình thường. Tóc anh ta màu nâu vàng để kiểu húi cua, đôi mắt không rõ ràng là màu gì, và tất nhiên còn cả vấn đề nhỏ là những vết tàn nhang. Nhưng cô thích những gì bình thưòng. Cô xứng đáng với những gì bình thường. Bay sát mặt trời quá cũng chẳng ích gì.
Và cho dù là người bình thường, thì chiều cao của anh ta có nghĩa là ít nhất anh ta cũng thuộc dạng binh thường hạng sang. Anh ta còn có thân hình đẹp nữa.
Khi trông thấy cô anh ta đứng dậy và ra hiệu. Có một khoảng trống cạnh anh ta trên băng ghế và cô lèn người vào.
“Xin chào,” anh ta trịnh trọng nói, khi cô đã ổn định xong.
“Xin chào,” cô trả lời, cũng trịnh trọng không kém.
Và rồi cả hai cùng bật cười khúc khích. Giờ thì anh ta cũng thế.
“Anh lấy cho em thứ gì đó uống nhé?” anh ta hỏi.
“Vâng. Một ly vodka-và-tonic, cám ơn.”
Khi anh ta quay lại với đồ uống của cô, Ashling nhoẻn miệng nở với anh ta một nụ cười thoải mái. Anh ta tỏ ra thân mật đến nỗi khó có thể coi chuyện này là nghiêm túc. Điều đó làm rỉ ra một dòng suối thất vọng đến ngao ngán len lỏi trong cô. Cô không hề phải lòng anh ta. Bao nhiêu hồi hộp chờ đợi cú điện thoại của anh ta, vứt đi. Cô thăm dò thêm một chút, hết nhảy cóc từ những vết tàn nhang của anh ta sang cảm xúc của cô và ngược lại. Không, chắc chắn là cô không hề phải lòng anh ta. Lẽ ra đám lông vẫn có thể ở yên trên chân cô. Lẽ raTed đã có thể thoát khỏi chuyến đi phát ngượng tới hiệu thuốc. Hừm, vậy đấy. Nhưng có lẽ họ có thể là bạn. Trong thực tế, xét cho cùng có khi anh ta còn có thể giúp đỡ sự nghiệp biểu diễn của Ted.
Rất trâng tráo cô mỉm cười với anh ta và hỏi, “Vậy dạo này anh đang làm gì?”
Bất thình lình cô chợt nhớ ra rằng đây chính là người đàn ông sắp, nói theo cách của Lisa, “lên hàng sao”, và ngay lập tức vẻ thiếu tôn trọng suồng sã của cô bốc hơi mất. Mới chỉ vài giây trước tưởng chừng cô đã có thể hỉ hả kể với anh ta những khoảnh khắc trớ trêu nhất của mình, nhưng thật lạ lùng, bộ óc cô như vừa tự xóa sạch tất cả những chủ đề trò chuyện.
“Thì nhì nhăng cái này một chút, cái kia một chút,” anh ta trả lời.
Đến lượt cô. Cô nên nói gì nhỉ? Điều cuối cùng, điều cực kỳ cuối cùng mà cô nên đề cập tới là sự nghiệp biểu diễn hài của anh ta. Như thế sẽ là quá ngờ nghệch, và bởi vì đã thành công đến thế thì chắc hẳn anh ta đã chán ngấy việc được tán tụng và khen ngợi.
Vì thế cô hết sức ngạc nhiên khi để phá vỡ sự im lặng bối rối anh ta nói, “Vậy em có thích buổi biểu diễn thứ Bảy tuần trước không?”
“Có chứ,” cô nói. “Tất cả mọi người đều rất khôi hài.”
Cô cảm thấy sự chờ đợi từ phía anh ta, vì vậy cô thận trọng nói tiếp, “Em nghĩ anh thật tuyệt vời.’ “À, đó chưa phải là một trong những màn tốt nhất của anh đâu,” anh ta nháy mắt, thấp thoáng vẻ dễ tổn thương ngây ngô như trên sân khấu. Thái độ như vừa thở phào nhẹ nhõm của anh ta hiện lên rõ mồn một.
Lại đến lượt Ashling. “Anh có công việc nào khác, anh biết đấy, ngoài việc, ờ, diễn hài không?”
“Anh viết phần mềm cho Cablelink, nâng cấp mạng thành sợi cáp quang ấy mà.”
“À ờ, thật vậy sao?”
“Công việc đến là hay ho,” anh ta mỉm cười khổ sở. “Chẳng trách anh phải biểu diễn tấu hài. Vậy em làm gì?”
Ôi ôi. “Em làm cho một tạp chí dành cho phụ nữ.”
“Tên nó là gì nhỉ?”
“À, ờ, Colleen
“Colleen’ Về mặt anh ta chợt thay đổi. “Họ đang yêu cầu anh viết một chuyên mục. Cái cô Lisa gì đó.”
“Edwards. Lisa Edwards. Cô ấy là sếp của em,” Ashling thừa nhận, cảm thấy tội lỗi cho dù chẳng việc gì phải thế cả.
Nỗi ngờ vực làm biến đổi khuôn mặt anh ta thành thứ gì đó gay gắt ,và lạnh lùng. “Đó là lý do tại sao em lại đi chơi với anh phải không? Để thuyết phục anh viết một chuyên mục?”
“Không! Hoàn toàn không.” Cô khiếp sợ bị nghĩ là người mưu mô. “Em chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả và em cũng không quan tâm nếu anh không bao giờ làm công việc đó.”
Không hoàn toàn chính xác. Nếu anh đồng ý phụ trách chuyên mục thì đó sẽ là một chiến công[Nguyên văn "chiếc lông trên mũ của cô.”] của cô, nhưng cô sẽ không đời nào giục giã làm gì. Nhưng cô thấy động lòng trước sự cảnh giác của anh ta và không hiểu từ đâu một nỗi thôi thúc chở che trỗi dậy trong cô.
“Nói thật lòng,” cô nhẹ nhàng nói, “em ở đây chỉ vì em muốn thế. Hoàn toàn không dính dáng tới bất kỳ điều gì khác.”
“OK,” anh ta gật đầu tư lự. Rồi anh ta bật cười, “Anh tin em, em có khuôn mặt rất thật thà.”
Ashling chun mũi lên. “Chúa ơi, gì chứ có cái đó thì thật kinh khủng.” Cỏ chỉ vào vại bia cạn của anh ta. “Thêm trà chứ, cha xứ?”
“À? Không. Ashling, anh hỏi em một chút,” giọng anh ta đầy vẻ xin lỗi, “em có phiền không nếu chúng ta ghé qua một buổi diễn hài? Chỉ trong khoảng nửa tiếng thôi? Có một người mà anh rất muốn ngó qua một chút.”
“Được chứ, sao lại không?” Rõ ràng đầy sẽ không phải là buổi hẹn hò kiểu ánh-sáng-dịu-dàng-và-bữa-tối-đắt-tiền. Thực ra thì cũng đâu có sao.
Buổi diễn chỉ cách đó có vài con phố, trong một quán rượu khác. Marcus được chào đón ở cửa như người của hoàng tộc và, trước sự thích thú của Ashling, cả hai người đều được vẫy cho qua mà không phải trả tiền. Trong căn phòng đông nghẹt, hết người này đến người khác bước lại gần anh - hầu hết là những nghệ sĩ hài khác - và Marcus giới thiệu Ashling với tất cả bọn họ. Mình có thể làm quen với chuyện này, Ashling thầm nghĩ.
Buổi biểu diễn cũng tương tự như những lần mà Ashling đã tham dự. Hàng đống người lèn vào trong một căn phòng chật chội tối tăm, với một mảng sân khấu bé tí ở trong góc. Nghệ sĩ hài mà Marcus quan tâm bắt chước dáng vẻ của một người trầm cảm rầu rĩ và tự xưng là Người Lithium.
Khi anh ta kết thúc màn diễn dài mười phút của mình, Marcus khẽ chạm vào Ashling. “Giờ thì chúng ta có thể đi được rồi.”
“Nhưng em cũng không phiền nếu chúng ta ở lại...”
Anh ta lắc đầu. “Không. Anh muốn nói chuyện với em.”
Anh ta mỉm cười qua màn tranh tối tranh sáng, và Ashling chợt nhận ra rằng mặc dù chỉ là một người bình thường, nhưng anh ta lại phạm phải sai lầm là, thuộc vào loại đẹp trai của kiểu người bình thường đó.
Khi họ đã yên vị trong một quán rượu khác, Marcus hỏi, “Vậy em nghĩ thế nào về Người Lithium?”
Ashling ngập ngừng. “Nói thật nhé, em không thích anh ta lắm.” “Vậy sao? Như thế nào cơ?” Marcus có vẻ rất quan tâm đến quan điểm của cô, và cô thấy thật hãnh diện.
“Em không nghĩ đó là điều thông minh khi cười nhạo bệnh thần kinh,” cô thú nhận. “Trừ khi bạn thực sự hài hước, còn anh ta thì không rồi.”
“Vậy em nghĩ ai là ngưòi hài hước,” anh ta chăm chú hỏi.
“À, hiển nhiên là anh rồi.” Cô cười hơi chói tai khi nói câu đó, nhưng có vẻ như anh ta không lấy thế làm phiền. “Anh thích ai?”
“À, hiển nhiên là anh rồi.” Họ cười khúc khích đầy ý đồ khi Narcus nói câu đó. “Và Samuel Beckett.”[Samuel Barklay Beckett (-): Nhà văn, nhà viết kịch Ireland, đoạt giải Nobel Văn học năm .]
Ashling cười khanh khách cho đến khi cô nhận ra là anh ta hoàn toàn nghiêm túc. Chết tiệt.
“Anh nghĩ ông ta là nhà soạn hài kịch giỏi nhất của thế kỷ,” Marcus trầm trồ.
“Em đã có lần xem vở Đời Godot,” Ashling ngập ngừng nói. Không cần phải nói rõ rằng đó là một buổi ngoại khóa ở trường và cô hoàn toàn không hiểu đầu đuôi vở kịch ra làm sao cả. Nhưng ngoài trục trặc về Beckett ra, buổi tối trôi qua mà không có sự vụ gì. Đồ uống chảy tràn còn Marcus thì quyến rũ và quan tâm tới cô. Do những vết tàn nhang của anh ta, cô thấy thoải mái khi ở bên anh ta và kể cho anh ta nghe rất nhiều chuyện, về những buổi học salsa của cô - cô phải thú nhận cô rất phấn khích là cô đã thực sự theo đuổi nó vì chắc hẳn trông cô có vẻ giống như một người có “sở thích”. Rồi sự đam mê của cô đối với túi xách và rằng, phần lớn thời gian, cô yêu công việc mới của mình ở Colleen như thế nào. “Mặc dù đó không hề có gì là bóng gió cả.”
“Anh biết. Nhưng nói thật nhé, em có phải chịu áp lực là mang về cho họ đầu của Marcus Valentine không?”
“K-không,” cô lúng búng.
“Và ở chỗ làm họ không dựa dẫm gì vào em về chuyện này chứ?”
“Không đời nào.” Ashling nói chắc như đinh đóng cột. “Thật ra thì không có đả động gì đến chuyện đó cả.”
“À.” Sau một thoáng im lặng anh ta nói thêm, “Anh hiểu... Anh hiểu”
Vừa đắm đăm nhìn dưới hàng mi, anh ta vừa khẽ mỉm cười với cô, và với một cảm giác ấm áp bất chợt trào lên trong lòng, Ashling nhận ra rằng cô thấy anh thật quyến rũ. Chắc hẳn anh phải là mẫu người mà bạn càng lúc càng thấy cảm tình hơn. Và anh thực sự không hề giống với con người trên sân khấu của mình chút nào. Thế cũng tốt - những kẻ đầu đất xuẩn ngốc không hẳn là người tiếp lửa trong phòng ngủ.
Rồi anh ta nhích người, nghiêng đầu về phía Ashling rồi nói bằng một giọng khe khẽ, đầy ý nghĩa, “Em có muốn một túi khoai tây chiên không?”
“Không, cảm ơn.”
“Vậy là chúng ta vừa có một chầu uống, em không muốn ăn khoai tây chiên, tất cả những gì còn lại của chương trình là...” Sex tới bến luôn. Mặc dù cô không thể nhớ nổi được số cốc mà cô đã uống, ý nghĩ đó vẫn choán lấy cô đến độ sững sờ một cách đột ngột và không thể nào giải thích nổi. Không hẳn là sợ hãi, nhưng cũng không hẳn là không sợ hãi. Cô thực sự thích anh ta, cô thấy anh ta thật quyến rũ, nhưng...
“Ôi, anh có phiền... Anh biết đấy, em không có ý định đi quá khuya trong buổi tối hôm nay. Sáng ra còn phải đi làm và đại loại thế.”
“À đúng! Nhất định rồi,” anh ta bình thản nói, nhưng anh ta không nhìn thẳng vào mắt cô. “Nếu vậy chúng ta nên về thôi.”
Anh ta hôn cô khi thả cô xuống trước nhà, nhưng không hiểu sao cô không thấy yên tâm cho lắm.