Ta khẽ nhíu mày, đã là ngày thứ tám, muộn mất rồi! Tuy nghĩ vậy nhưng cũng tiến về phía chuông đồng xem người đó là ai. Không ngờ vẫn là Ngô Chân Lưu. Bên cạnh anh ta còn có một người, đang bất tỉnh nửa nằm nửa ngồi dựa vào một gốc cây gần đó. Ta lập tức hiện thân, hỏi han sự tình.
Ngô Chân Lưu quỳ rạp xuống:
- Thưa Đại Tiên, đệ tử đang trên đường xuống núi thì bắt gặp cô nương này bất tỉnh nằm giữa đường. Đệ tử gọi mãi nhưng cô nương vẫn không tỉnh lại. Bất đắc dĩ, đệ tử đành phải cõng cô ấy lên đây. Đệ tử vướng phải tội “nam nữ thụ thụ bất thân”, xin Đại Tiên trách phạt.
Ta xua xua tay:
- Cứu mạng người là quan trọng, há phải để tâm đến tiểu tiết đó. Ngươi cứ quay về đi!
Ngô Chân Lưu nghe lời lại tiếp tục xuống núi. Ta làm phép gọi mây đỡ cô gái lên, thì ra là một sơ tiên, gốc là loài chuồn chuồn kim; bắt qua mạch thì thấy nàng ta bất tỉnh do kiệt sức liền đưa về am Uyển.
Minh Sương đón ta trước cửa, nhìn thấy ta mang theo một người đang bất tỉnh trở về, chưa kịp hỏi gì, lập tức kêu người soạn sửa một phòng trống rồi giúp ta đỡ cô gái lên giường. Ta bắt mạch kỹ hơn. Cha và anh ba đều là lang y có tiếng tăm nên đối với một số bệnh nhẹ, ta không đến nỗi vô dụng. Ngoài việc bất tỉnh do kiệt sức, kinh mạch của cô nương này còn bị nhiễu loạn. Ta sai Đào nấu nước nóng rồi trở về phòng lấy một ít dụng cụ. Vừa ra đến cửa liền thấy mấy người học viên khác đang tiến đến. Mãng Thương Xà nhìn thấy ta lập tức lên tiếng:
- Hồ Thiên Ly, ta nghe nói ngươi mang người lạ vào am có đúng không?
Ta gấp gáp:
- Nàng ta bị trọng thương! Cứu người đã rồi nói sau!
Nghe nói liên quan đến tính mạng, mấy người kia thôi không gặng hỏi nữa. Báo Hồng Hoa nói với theo ta:
- Chữa trị xong, ngươi đến Hương Xá giải thích cho rõ ngọn ngành đi!
Ta lấy hộp kim châm cứu làm từ gai cây hoàng ngưu mộc được anh ba Nhật Ly điều chế riêng. Sau khi nhúng kim vào nước nóng, ta truyền một ít nội lực vào từng cây kim rồi châm cứu ở các huyệt mạch chủ cho cô gái. Sau nửa canh giờ mới rút kim châm ra, kiểm tra thấy kinh mạch đã ổn định, ta thu dọn đồ nghề rồi tiến về phía Hương Xá. Đó là nơi mà các học viên bọn ta hay tọa thiền hoặc luyện pháp. Ta đến nơi thì thấy mọi người đã có mặt đông đủ, ngoại trừ Trà Ngạn My vừa xuống núi để làm một số việc cho sư phụ. Minh Sương nhìn thấy ta, chạy ngay lại, khuôn mặt hớn hở như sắp được xem kịch hay, đúng là bạn tốt. Ta lên tiếng trước khi bị mấy người kia tra hỏi:
- Trên đường về am thì ta gặp cô nương này bị bất tỉnh, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Bất đắc dĩ mới phải mang về am Uyển để cứu người.
Mãng Thương Xà nói to:
- Sư phụ đã lệnh không được đưa người lạ vào am, sư phụ hiện không ở nhà nên ngươi làm trái lệnh người sao?
- Lúc đó việc cứu mạng người là quan trọng nhất, đâu có thời gian nghĩ được nhiều như thế!
Báo Hồng Hoa giọng nghiêm khắc:
- Ngươi cũng biết lệnh sư ẩn thân ở nơi hoang vu này đã lâu, không muốn nhiều người biết đến để tránh bị làm phiền. Ngươi làm việc không suy nghĩ trước sau, ảnh hưởng đến việc tu luyện của sư phụ, ngươi không có gì để nói sao?
Ta bình tĩnh đáp lại:
- Ta tự biết việc mình làm ảnh hưởng đến sư phụ. Nhưng lúc đó tình thế nguy kịch! Đến khi sư phụ trở về, nếu người trách phạt, ta sẽ tự mình chịu trách nhiệm.
Mấy người kia lập tức vây lại, mỗi người nói một câu trách móc ta:
- Ngươi đừng ỷ lại được sư phụ yêu thương mà lộng hành!
- Sư phụ không ở nhà nhưng còn có chúng ta, dù sao cũng là đệ tử của người, có trách nhiệm bảo vệ nơi tu luyện của sư phụ được thanh sạch.
- Ta thấy ngươi được sư phụ nuông chiều quá nên không coi ai ra gì rồi!
…
Lúc này, Minh Sương mới lười biếng ngáp một cái sau đó lên tiếng giải vây cho ta:
- Được rồi, Thiên Ly nàng ta cũng đã nói sẽ tự mình chịu toàn bộ trách nhiệm. Mấy người nói nhiều thế để làm gì?
Các học viên khác tuy không thích Minh Sương, nhưng dù sao nàng cũng là con nuôi của sư phụ nên có mấy phần kiêng dè. Nàng ấy đã lên tiếng, mấy người kia biết ý im lặng, tự động giải tán kéo nhau về phòng. Chuyện tưởng như xong nhưng ta thừa biết, khi sư phụ trở về mấy người đó sẽ tha hồ mà bới móc, nói xấu ta. Minh Sương cùng ta quay về phòng của cô nương chuồn chuồn kim, nhìn ta bắt mạch cho cô nương đó, hờ hững nói:
- Cũng không đến mức bị nguy hiểm tính mạng như ngươi nói, sao phải lo lắng cho cô ta đến vậy?
Sau khi bắt thấy kinh mạch của cô nương kia vẫn ổn định, ta mới kéo tay Minh Sương lại ngồi tại bộ bàn ghế trong phòng, kể cho nàng ta nghe chuyện Ngô Chân Lưu đã cõng cô nương đó từ dưới chân núi lên như thế nào. Lúc đó ta hoàn toàn có thể sai người đi tìm cha hoặc anh ba đến mang cô ấy về để chữa bệnh, nhưng lại bị cảm động trước sự lương thiện của Ngô Chân Lưu. Anh ta một lòng cứu người, vậy thì đích thân ta sẽ chữa trị cho cô gái. Minh Sương nghe xong, thở dài buông một câu:
- Nhà sư kia cũng thật là, một mình lên núi đã mệt muốn chết còn ngu ngốc vác theo cô nương kia làm cái gì? Đi qua nhìn thấy, không gọi dậy được thì ném lại một cái bánh bao là xong rồi. Chốn núi rừng hoang vu này, bất đắc dĩ phải tự sinh tự diệt thôi!
Ta lườm cho nàng ta một cái:
- Thầy Uyển Như cũng thật là, sống một mình đang bình yên, sao còn phải nhận ngươi về làm con nuôi để làm gì? Chốn núi rừng hoang vu này, bất đắc dĩ phải tự sinh tự diệt thôi!
Minh Sương cười ha hả, đá tung cửa đi về phòng. Trước khi về còn buông một câu:
- Ngươi cứ chờ đi, sư phụ về chắc chắn sẽ trách phạt ngươi!
Nàng ta trước giờ vốn khẩu xà tâm Phật, ta cũng chẳng buồn nói lại làm gì.
Ta dự tính ba ngày sau cô nương đó sẽ tỉnh lại, không ngờ chưa đến hai ngày, nàng ta đã mở tròn mắt nhìn ta và Minh Sương đang nói chuyện cạnh giường, lập tức ngồi dậy đòi hành lễ:
- Xin cảm tạ ơn cứu mạng của ân nhân!
- Không cần đa lễ, bọn ta không phải là ân nhân của ngươi!
Ta ghì cô nương đó nằm xuống giường cho đỡ choáng váng. Nàng ta lại hỏi:
- Xin hỏi hai vị, đây là nơi nào ạ?
- Đây là am Uyển trên núi Bạch Vân Sơn, nơi tu luyện ngàn năm của thượng thần Uyển Khuyên Bạch Như.
Ta lườm Minh Sương, một mực trách ta mang người lạ về am nhưng nàng lại khai vanh vách địa điểm tu hành của sư phụ. Minh Sương biết mình lỡ lời, vội im bặt. Cô nương kia lại bật dậy, hỏi giọng gấp gáp:
- Xin hỏi trong hai vị ai là thượng thần Uyển Khuyên?
Ta ngạc nhiên ấn cô ta nằm xuống giường:
- Sư phụ bọn ta hiện không ở tại am. Ngươi tìm người có việc gì sao?
- À không!
Cô nương đó nói giọng đầy luyến tiếc.
Cô nương tên Lệ Kim, không còn ai thân thích ruột thịt. Lý do tại sao Lệ Kim bị bất tỉnh nằm giữa rừng thì cô không nói, ta cũng không hỏi. Tên người ân nhân trực tiếp cứu mạng, cô không hỏi, ta cũng không nói. Mấy ngày sau ta bắt mạch, thấy khí huyết Lệ Kim đã ổn định, nhưng cô liên tục bị choáng đầu và đi lại không vững. Ta có gợi ý việc nhờ người đi mời lang y đến nhưng cô nương Lệ Kim có vẻ không đồng ý, nói nghỉ ngơi vài ngày khỏi rồi sẽ rời đi không làm phiền bọn ta nữa. Bất đắc dĩ, ta đành phải để cô ở lại am. Mấy người học viên khác tỏ ý không bằng lòng nhưng cũng bận rộn nên chưa nói gì. Thêm mấy ngày trôi qua, sư phụ vẫn chưa về. Ta còn nhiệm vụ thực hiện nguyện vọng của cha Ngô Chân Lưu, nếu không làm sớm e là ông ta sẽ đầu thai sang kiếp khác mất. Ta bàn bạc nhờ Minh Sương để ý cô nương Lệ Kim đó cho ta vài ngày, nàng ta làu bàu một lúc rồi cũng đồng ý. Buổi chiều, ta ghé qua dặn dò Lệ Kim về việc nghỉ ngơi và uống thuốc, cô nghiêm túc gật gù nhưng có vẻ không để tâm đến lời của ta cho lắm. Khi ta bước ra từ phòng Lệ Kim, Mãng Thương Xà đang hớt hải chạy đến, nhìn thấy ta mắt sáng rỡ, thân thiết nói:
- Thiên Ly, mau ra ngoài, có người đến am tìm ngươi!
Thái độ lạ kỳ như vậy làm ta mơ mơ hồ hồ tiến ra phía đình ngoài hay tiếp khách. Quả thật thấy thấp thoáng một vạt áo trắng, dáng người cao cao nhưng rất uy nghiêm, mái tóc đen dài được buộc hờ hững sau đầu, tay phải cầm quạt, tay trái đặt sau lưng. Dáng người quen thuộc này? Người đó quay lại, nở một nụ cười ấm áp, gọi tên ta:
- Tiểu Thiên!
Ta tròn mắt ngạc nhiên, suýt thì nhảy cẫng lên vì vui mừng:
- Đại huynh Quang Ly, sao huynh lại ở đây?
Mấy ngàn năm không gặp, huynh cả nhíu mày, câu thứ hai nói với ta là:
- Sao muội lại phát tướng như thế này?
Được rồi, huynh cứ thử suốt ngày ăn, ngủ và ở một chỗ không di chuyển xem có bị béo ra như muội không. Ta không thèm để ý, lôi xềnh xệch vạt áo của huynh ấy vào chỗ bàn đá trong đình. Ta ngồi xuống rót trà, còn huynh ấy đứng yên khẽ phe phẩy quạt nhìn ta từ trên xuống dưới. Ta nói giọng bất mãn:
- Huynh không phải nhìn, muội bị người nhà của chúng ta bỏ rơi nên mới ra nông nỗi này!
Quang Ly khẽ thở dài, xoa xoa đầu ta, hỏi một câu:
- Tiểu Thiên, muội sống ở đây có tốt không?
Ta gật đầu, vốn không phải người yếu đuối, vậy mà sống mũi bỗng cay cay:
- Tốt!
- Thượng thần Uyển Như có tốt với muội không?
Ta nghĩ ngợi, ngoại trừ lúc thầy nghiêm khắc thì nói chung cũng được, liền gật đầu:
- Cũng tốt!
- Các học viên khác có tốt với muội không?
Ta nhìn nhìn ra mấy cái dáng người đang lấp ló thoắt ẩn thoắt hiện phía sau mấy cây hoa lan, miễn cưỡng gật gật:
- Tốt, tốt, tất cả đều tốt! Muội sống ở đây rất tốt! Ai cũng tốt với muội! Chỉ có điều nhớ gia đình mình đến phát điên thôi.
Đại huynh không có ý kiến, ngồi xuống im lặng uống trà. Ta tự thấy mình xả cục tức không đúng người, huynh ấy chắc cũng lâu rồi không về núi Bạch Mộc. Thật sự rất muốn hỏi huynh ấy đi khắp nơi như vậy, không lúc nào thấy nhớ nhà sao? Vậy mà ta lại hỏi sang một câu khác:
- Tại sao hôm nay huynh lại đến đây?
Đại huynh Quang Ly đặt chén ngọc xuống bàn rồi nói:
- Đợt vừa rồi huynh có ghé về nhà, thấy mẹ nói muội đang tu luyện ở xa nhưng không nói là ở đâu. Mấy ngày trước huynh có việc đi ngang qua đây, nhìn thấy muội đang mang một người bay về phía am này. Lúc đấy có việc gấp phải đi ngay, hôm nay xong việc nên ghé qua đây xem thử, quả nhiên đúng là nơi muội tu luyện.
Ta tỏ ra thất vọng:
- Cứ tưởng là huynh sắp thành thân chứ!
Đại huynh bật cười thành tiếng, rồi lại phất phất tay quạt nhưng không nói gì.
Hai huynh muội bọn ta ngồi nói chuyện một lúc nữa, sau đó đại huynh vội đi, ta cũng phải về nghỉ sớm để sáng mai lên Thiên Đình. Đại huynh nhìn ta thở dài một cái rồi lướt mây đi mất.
Về đến phòng thì thấy Minh Sương đang chờ ngoài cửa. Nàng ấy nhìn ta chằm chằm, ta ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì?
- Mỹ nam kia là gì với ngươi? Vị hôn phu?
- Đại huynh Quang Ly.
Ta nói năng bình thản mà Minh Sương giật mình như có tiếng sét ngang tai:
- Cái gì?... - Sau đó đổi giọng chì chiết ta. - Tên hồ ly nhà ngươi, trước đến giờ kể cho ta nghe nào là lão huynh già cả năm mươi ngàn tuổi, nào là ông già ham chơi. Ta còn hình dung huynh ấy tóc trắng hơn cả sư phụ, da nhăn nheo hơn cả lão thổ địa trong rừng. Không ngờ huynh Quang Ly lại là một trang nam tử tuấn kiệt như vậy. Ta thật uổng phí đối tốt với một người lừa bịp, dối trá như ngươi…
Ta mặc kệ cái đồ háo sắc ấy đứng lảm nhảm, ngáp dài một cái thay cho tiếng chào rồi đi vào phòng mình. Nàng ta chắc chắn đang hậm hực dẫm chân phía sau lưng.
Sáng hôm sau, ta dậy sớm, nói một tiếng với đám học viên trong nhà sau đó gọi mây bay về phía Thiên Đình.
Ta dừng ở trước cửa cung Nam Tào, không đi vào nhà mà vòng ra phía sau chỗ ao sen. Quả nhiên nhìn thấy hai dáng người trên bàn ngọc dưới cây liễu đang rung đùi đánh cờ. Một người thân hình mảnh khảnh, quần áo lụa là thư sinh, khuôn mặt luôn giữ nét tươi như hoa. Một người thì cao lớn, quần áo kiểu binh giáp võ tướng, khuôn mặt có chút hung dữ. Ta lên tiếng:
- Tào, Đẩu, đã lâu không gặp! Sáng sớm mà có hứng đánh cờ rồi sao?
Phải nói sơ qua một chút về hai người bằng hữu này. Họ vốn dĩ được sinh ra trước cả con tiểu hồ ly đầu tiên trong họ tộc ta. Có tố chất và năng lực phù hợp, được Ngọc Hoàng tin cậy và giao cho trọng trách “sinh tử” của dân gian. Nam Tào mặt trắng, mũi cao, tướng mạo tươi vui, hay giữ nét cười nơi đáy mắt được giao nhiệm vụ viết và giữ sổ sinh. Bắc Đẩu thân hình cao lớn, tướng tá có phần hung hăng, thích việc chân tay hơn bàn giấy, được giao viết và giữ sổ tử. Tuy nhiên tâm hồn hai người lúc nào cũng như đứa trẻ con mới lớn, nhất là cái tên mặt mũi hung tợn Bắc Đẩu kia. Vậy cho nên, khi ta được mẹ nuôi đưa về Thiên Đình để nuôi dưỡng một thời gian, bọn họ là hai người mà ta thân thiết nhất. Họ luôn cùng ta bày ra những trò nghịch ngợm của trẻ con. Chúng ta thân thiết như bằng hữu nên cũng không câu nệ thứ bậc và tuổi tác, mặc nhiên xưng hô ngang hàng với nhau.
Hai người nhìn thấy ta, mắt sáng rỡ. Nam Tào vẫy vẫy tay:
- Tiểu Thiên, ngươi mau lại đây phân xử giúp ta ván cờ này, ta và Bắc Đẩu đã chơi từ hôm qua đến hôm nay vẫn chưa xong.
Ta bật cười. Trò chơi cờ này là do ta nghĩ ra. Bọn ta sẽ dựa vào luật cờ tướng có sẵn từ trước đến nay, từ đó thay đổi luật lệ cho dễ hiểu, mỗi ngày nghĩ ra một quy luật mới khiến trò chơi vốn dĩ dành riêng cho các bô lão lại trở thành trò yêu thích của trẻ con. Không ngờ lâu như vậy, hai người bọn họ vẫn tiếp tục duy trì trò này.
- Hai ngươi thật là ấu trĩ, đến giờ này vẫn còn chơi đánh cờ, định mãi không chịu lớn sao?
Nam Tào bĩu bĩu môi:
- Dạo gần đây thiên cơ lỏng lẻo, dưới dương gian người ma lẫn lộn, bọn ta khó kiểm soát sinh tử nên thường xuyên bị mắc sai lầm. Mỗi lần như vậy Ngọc Hoàng lại tức giận giáng tiên vi của chúng ta xuống, làm giảm đến mấy trăm năm tu hành. Sợ là bây giờ số năm còn lại cũng không bằng của ngươi đâu.
Bắc Đẩu gạt đi:
- Tào thối, Tiểu Thiên lâu lắm mới có dịp ghé qua, đừng có than thở chuyện vớ vẩn ấy! Thiên Ly, tại sao lâu như vậy không đến chơi với bọn ta? Hay ngươi gặp phải chuyện gì?
Ta cười:
- Chuyện dài lắm, kể cả ngày chắc cũng không hết. Hôm nay ta sợ là không có thời gian để hàn huyên với hai ngươi, bởi ta đến để nhờ một việc quan trọng.
Nghe nhắc đến công việc, hai người kia lập tức cất đi bộ cờ trên bàn. Nam Tào mặt lúc nào cũng tươi như hoa lại tỏ ra nghiêm túc, ta thật sự nhìn không quen nhưng cố gạt đi cơn buồn cười, kể cho hai người đó nghe chuyện lời ước của Ngô Chân Lưu. Nghe xong hai người kia gật gù hiểu điều ta đang muốn nhờ cậy. Việc đầu tiên chúng ta cần biết là tuổi thọ của Ngô Xương Ngập. Bắc Đẩu nhanh chóng lấy ra một quyển sổ dày cộm có bìa đen. Sau khi xem xong, Nam Tào nói:
- Bây giờ cho ngươi đầu thai xuống dương gian thành một người có liên quan đến cha của hắn thì không khó…
- Nhưng sợ là người đó sẽ không kịp chờ ngươi lớn lên. - Bắc Đẩu tiếp lời còn ta gật đầu. Đó cũng là điều ta lo sợ. Nam Tào nhăn nhó:
- Nếu cho ngươi nhập vào một người nào đó vừa chết đi thì mới to chuyện. Ta sẽ phải trình lên trên và chờ chỉ thị của Ngọc Hoàng, còn Bắc Đẩu phải đi bàn bạc với Diêm Vương.
Ta lắc đầu:
- Như thế cũng lâu lắm.
Bắc Đẩu liếm môi:
- Ta có một cách nhanh hơn!
Thấm thoắt cũng đã được năm ngàn năm xa nhà, chẳng ai thèm đến thăm ta lấy một lần. Mỗi buổi chiều rảnh rỗi ta lại leo lên chóp núi nhô cao này, nhìn về phía Bạch Mộc Lương Tử xa xa, nơi có gia đình ta mà chạnh lòng, không biết bao giờ mới được trở về.
- Tiểu Thiên, mau về am, thầy cho vời mọi người!
Uyển Minh Sương đứng dưới chân núi réo tên ta. Nàng là bạn thân nhất khi ta theo học ở đây, chính là học viên đi cửa sau còn lại, gốc vốn là một con chồn sương, bị mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được sư phụ Uyển Như mang về nuôi. Sau khi thầy cảm thấy nàng ấy đã lĩnh hội đủ tinh hoa, thầy bỏ qua luôn các vòng thi bậc Sơ Tiên, Trung Tiên, Thượng Tiên, một bước cho nàng lên học cấp Đại. Một người là con ông cháu cha, một người là gia đình lo lót, hai chúng ta trở thành hai học viên bị tẩy chay ở đây, tự nhiên mà xích lại gần nhau.
- Được, ta về ngay!
Ta nuối tiếc ngoái nhìn một lần nữa về hướng núi Bạch Mộc rồi thoăn thoắt leo xuống, sánh bước cùng Minh Sương về am Uyển.
Về đến am, tám người kia đã tụ tập đông đủ trong phòng học. Thầy bước vào, bọn chúng ta hành lễ chào. Thầy gật đầu sau đó cho phép mọi người ngồi xuống bàn của mình. Thầy khoan thai bước lên chỗ sạp cao nhất. Mái tóc dài bay bay, trâm cài bằng vàng ánh lên lấp lánh, bộ váy màu vàng xanh đặc trưng. Thầy của ta là một cô gái đẹp, dĩ nhiên, nhưng ánh nhìn luôn nghiêm khắc và khuôn mặt lúc nào cũng vương vất nỗi buồn. Thầy đưa mắt nhìn một lượt sau đó cất cao giọng du dương như chim vành khuyên:
- Thấm thoắt ta và các con cũng đã gắn bó với nhau một thời gian dài. Cái gì cần chỉ dạy, ta đã cố gắng chỉ dạy hết. Cái gì cần lĩnh hội, tự các con cũng biết kết quả của bản thân mình. Ngày mai ta sẽ lên Thiên Đình, trình lên các vị Phật Tổ và Ngọc Hoàng việc tổ chức thi cấp Đại Tiên trong năm nay. Trong thời gian ta đi, các con ở nhà cứ làm những việc bình thường vẫn làm. Riêng Thiên Ly…
Thầy dừng lại một chút, nhìn về phía ta.
- Dạ! - Ta hướng mắt lên thầy, chờ đợi.
- Tối nay con về chuẩn bị, sáng mai qua chỗ miếu Đồng sớm một chút, mai là tiết sương giáng sau chín mươi năm. Năm nay đến lượt Thiên Ly trực miếu.
- Dạ, thầy!
Sư phụ căn dặn một chút công việc của từng người rồi chúng ta giải tán, ai về phòng người nấy.
Bạch Vân Sơn từ thời xưa đã nổi tiếng là vùng đất giao thoa giữa chúng sinh và thần tiên. Không biết tự bao giờ, dưới nhân gian có một truyền thuyết. Chín mươi năm một lần, vào tiết sương giáng, không phân biệt người hay vật, nếu có đủ khả năng và lòng kiên nhẫn vượt qua được quãng đường núi lên được miếu Đồng, gõ ba hồi vào chuông Đồng, khi đó sẽ vinh hạnh được gặp thần tiên. Lúc sư phụ ta chọn nơi này làm địa điểm tu hành, Ngọc Hoàng đã giao nhiệm vụ cho thầy phải cử người túc trực bảy ngày ở miếu Đồng vào đúng thời điểm đó.
Tiết sương giáng, là khoảnh khắc đổi thay rõ rệt nhất từ sự mát mẻ của mùa thu sang cái lạnh giá của mùa đông. Chín mươi năm một lần, vào tiết này, mười người đệ tử bọn ta sẽ thay phiên nhau trực ở miếu Đồng đúng bảy ngày. Năm nay đến phiên ta đi canh miếu. Khi ta đang lúi húi gói ghém một bộ quần áo và vài quyển sách vào tay nải, Minh Sương gõ cửa phòng, bước vào, sau đó dúi cho ta một túi đồ. Ta mở túi ra xem, ba cái bánh hoa đào, một gói hạt dẻ rừng vừa rang còn nóng hổi và một hồ lô nước đầy. Nàng nói:
- Ta bảo cái Đào làm từ lúc chiều, vừa đảo lại hạt dẻ cho nóng. Ngươi đi một tuần, ta không sợ ngươi bị đói, bị khát, chỉ sợ ngươi chết vì buồn chán thôi.
Ta cười tít mắt cảm ơn nàng ta. Ở chốn hoang vu này, cũng chỉ có nàng ấy là đối xử tốt và hiểu ta nhất.
Hôm sau trời vừa tờ mờ sáng, ta đã thức dậy, đeo tay nải trên vai, ghé qua vái một vái trước cửa phòng sư phụ sau đó vội vã lên đường xuống núi. Sư phụ xinh đẹp của ta, tính tình hiền lành nhưng là một người thầy cực kỳ nghiêm khắc. Sư phụ nói nếu đã chấp nhận làm đệ tử của người, ở tại nơi tu hành của người thì ngoài thời gian tu luyện, càng hạn chế sử dụng phép càng tốt. Miếu Đồng ở phía dưới cách am Uyển không xa, nhưng nếu đi bộ đường rừng thì cũng mất gần nửa khắc. Tiết sương giáng làm cho khung cảnh núi rừng trở nên mông lung huyền ảo, ta cũng không lấy làm vội, thong thả đi bộ vừa luyện sức khỏe vừa ngắm hoa đỗ quyên. Đỗ quyên nở suốt bốn mùa, mỗi mùa lại có một màu riêng biệt, là loài hoa đặc trưng của núi rừng, cũng là loài hoa yêu thích của ta. Mùa đông có hoa bạch quyên, không hiểu sao mỗi lần nhìn thấy những cánh hoa trắng muốt trải dài một dải khắp núi đồi, tim ta lại đau như vậy. Chắc là thời tiết này, bệnh tim dễ bị tái phát, phải năng tọa thiền để điều hòa khí huyết mới được.
Đi bộ được một lúc cũng mệt, ta quyết định làm phép gọi mây, chắc thầy không đến nỗi trách phạt. Lúc gần đến miếu Đồng, chợt nghe ba tiếng chuông vang lên, ta lập tức ẩn thân, bay nhanh rồi đáp xuống ngay chỗ chuông Đồng. Ở đó có một nhà sư còn khá trẻ tầm mười sáu, mười bảy tuổi, tướng mạo khôi ngô tuấn tú, sau khi gõ ba hồi chuông thì đang quỳ xuống vái liên tục trước cửa miếu. Tuy quần áo rách rưới và khuôn mặt có chút mệt mỏi nhưng đôi mắt vẫn sáng rực, toát lên nét kiên định. Ta nhàn nhã đi vào miếu cất tay nải, quét dọn bụi trên các bức tượng Phật sau đó thắp lên một cây hương trầm. Nhìn ra cửa thì thấy nhà sư trẻ không còn vái mà đã quỳ ngay ngắn trước cửa, mắt nhắm hờ, tay đếm chuỗi hạt, miệng tụng nam mô. Gió đưa mùi hương trầm bay đến, nhà sư khựng lại một chút, mở mắt ra sau đó vái ba vái rồi lại tiếp tục lầm rầm niệm kinh. Quãng đường từ chân núi lên miếu Đồng đối với người thường không phải là đơn giản. Ngoài những nguy cơ như bị đói, bị khát, bị rét, bị bệnh, bị lạc đường, bị hoang mang bỏ cuộc giữa chừng, còn phải có một chữ duyên. Có duyên thì mới gặp được một vị tiên già quắt queo đang ngồi ăn hạt dẻ trong ngôi miếu bám đầy bụi giữa núi rừng hoang vu này. Ta nhàn nhã vừa cắn hạt dẻ vừa đọc sách. Nhà sư kia và ta quả thật có duyên, nhưng cũng phải thử thách một chút xem bản lĩnh cậu ta như thế nào. Ta đọc một mạch hết quyển sách thì trời cũng vừa sẩm tối, bọc hạt dẻ đã vơi đi không ít. Ta dọn dẹp đống vỏ hạt, nhìn ra ngoài cửa thấy nhà sư đó vẫn đang nghiêm trang quỳ và niệm kinh. Đảm bảo là bụng đã đói và chân tay mỏi rã rời, vậy mà vẫn có thể nghiêm túc niệm nam mô như vậy. Đúng là con người có chí khí. Ta đi thắp sáng mấy cây nến trên điện thờ, bày lên đĩa ba cái bánh bao thơm nức sau đó mở cửa miếu một cách rất chậm chạp đầy huyền bí. Nhà sư trẻ thấy cửa mở thì mắt ánh lên vẻ mừng rỡ, vội vã vái ba vái sau đó lại lầm rầm cầu khấn. Cậu ta vẫn miệt mài niệm tụng còn ta kiên nhẫn ngồi chờ. Đợi mãi không thấy cậu ta có ý định di chuyển vào trong miếu, ta thở dài sau đó vẫn ẩn thân, khẽ lên tiếng:
- Người ngoài miếu vào đây!
Nhà sư trẻ mừng rỡ dập đầu xuống đất:
- Tạ ơn thần tiên!
Sau đó chậm chạp đứng dậy, liêu xiêu đi vào trong miếu. Vào miếu lại quỳ xuống vái ba vái. Mặc kệ cậu ta ngồi niệm nam mô, ta tìm một chỗ phù hợp nhất trong miếu rồi vào thế tọa thiền. Chỉ là thương ngươi phải ở ngoài trời cả đêm trong tiết sương giáng này thôi. Còn muốn gặp ta, chờ đến sáng mai hẵng hay.
Tờ mờ sáng, khi ta đang tọa thiền lơ lửng giữa không trung bỗng ba tiếng chuông lại vang lên làm ta rơi bịch xuống đất. Được rồi, ta thừa nhận là chỉ ngủ quên một chút, có cần phải đánh thức rộn ràng như vậy không! Nhà sư trẻ sau khi thúc ba hồi chuông lại nhanh nhẹn tiến vào miếu và quỳ ngay ngắn trước điện thờ. Khuôn mặt trông có vẻ tươi tỉnh hơn, hẳn là sáng sớm đã ra suối rửa mặt. Ta liếc lên điện thờ, ba chiếc bánh bao vẫn còn nguyên, nến và cây hương trầm đã cháy hết. Bánh bao của nàng Minh Sương làm cho ta có nhân dâu rừng và hoa đào khô, ta đã làm phép cho nó lúc nào cũng nóng hổi và tỏa ra mùi thơm ngào ngạt. Nhà sư trẻ đã mấy ngày không được ăn uống tử tế, vẫn có thể giữ vững tinh thần đếm tràng hạt, tụng kinh, quả là đáng khen. Nhìn kỹ khí chất cũng không tệ, chắc hẳn có xuất thân không tầm thường. Ta bó gối ngồi bên cạnh các tượng Phật, suy nghĩ cách xuất hiện sao cho oai hùng một chút, nhưng đừng đến mức làm cho chàng trai trẻ kia kinh hồn bạt vía là được. Suy đi tính lại thấy không cần thiết phải làm to chuyện, ta mới quyết định sửa sang lại quần áo, tay phải chụm lại để dọc trước ngực, tay trái để ngang dưới bụng, hiện thân rồi lướt ra từ sau một bức tượng, lên tiếng:
- Người quỳ ở dưới mời xưng tên!
Lúc này giọng nói đã được ta khuếch đại gấp năm lần nên vang vọng khắp ngôi miếu. Nhà sư trẻ sau một chút giật mình, ánh mắt trở nên sáng rỡ, không dám nhìn thẳng vào ta, vái ba vái sau đó dõng dạc nói:
- Đệ tử tên Ngô Chân Lưu, tên thật là Ngô Xương Tỷ, quê ở thôn Cát Lợi, huyện Thường Lạc, đang thọ giới Cụ túc với thiền sư Vân Phong tại chùa Khai Quốc.
Ta bấm đốt ngón tay, mặc dù môn xem tướng là môn ta kém nhất nhưng bấm một hồi cũng lờ mờ đoán ra một số chi tiết quan trọng. Quả nhiên là con cháu thuộc dòng dõi đế vương.
- Ngươi đã tìm lên đến ngôi miếu này, chắc cũng đã rõ quy tắc. Ngươi được hỏi ba câu hỏi và được thực hiện một lời ước nguyện, hãy cân nhắc cho kỹ lưỡng.
- Đệ tử đã rõ!
Nói năng rất rõ ràng, quả quyết, sau đó là một chuỗi trầm mặc. Chờ một lúc ta lại lên tiếng:
- Ngươi có thể hỏi câu thứ nhất.
- Dạ! Bẩm chư vị thần tiên, đệ tử vốn theo học đạo Nho từ nhỏ, thời gian gần đây mới quy y cửa Phật và đọc sách thánh hiền. Trong sách Phật, có nhiều điều khai sáng cho chúng sinh, có những điều con đã đọc nhưng không thể hiểu hết được ý dạy của các ngài. Hôm nay con có thể hỏi những điều đó không ạ?
- Phật pháp vô biên, những điều Phật tổ đã truyền dạy không thể nói bằng lời ngày một ngày hai là có thể hiểu hết được. Muốn nắm rõ thì chỉ có thể dùng cả đời người để tiếp thu, dùng đôi mắt để nhìn thấu, dùng đôi tai để lắng nghe, dùng con tim để cảm nhận. Lúc đã hiểu thấu được nhân gian thì mới thấm được những bài dạy của Ngài.
- Đệ tử đã rõ, tạ ơn thần tiên chỉ giáo!
Ta rất hài lòng với câu trả lời của mình, im lặng gật gù thiếu điều lấy tay vuốt vuốt râu. Trước khi hỏi câu thứ hai, Ngô Chân Lưu kể cho ta nghe chuyện chính sự dưới nhân gian.
Tiền Ngô Vương sau khi lập nhiều chiến công hiển hách, trị vì được sáu năm thì bị bệnh nặng, trước khi băng hà truyền chỉ cho em trai hoàng hậu nhà họ Dương phò tá cho người con trai trưởng là Ngô Xương Ngập thừa kế ngôi vua. Ngô Xương Ngập vốn không phải con của hoàng hậu Dương Hậu, họ Dương kia không nghe, tranh ngôi của cháu, tự lập mình làm vua, chính là Dương Bình Vương đang trị vì thời bấy giờ. Một mặt Dương Bình Vương sai quân lùng bắt Ngô Xương Ngập rất gắt gao, mặt khác lại nhận em trai cùng cha khác mẹ của Ngô Xương Ngập tên là Ngô Xương Văn làm con nuôi.
- Đó chính là chuyện mà đệ tử suy nghĩ mãi vẫn không nghĩ ra được là đúng hay là sai. Một bên là vì máu mủ ruột rà mà giành lấy vinh hoa cho cháu ruột của mình, theo lời Phật dạy là trọn nghĩa tình thân. Một bên lại coi thường ý chỉ của nhà vua, không những phản nghịch truất ngôi con trưởng mà còn lùng bắt giết bằng được. Xét về tình thân ruột thịt là làm đúng, nhưng xét về đạo lý bề tôi là sai. Vậy xin người chỉ dạy như thế là sai hay đúng?
- Ta cho ngươi hai câu:
“Người thật sự tu đạo thì không thấy lỗi thế gian.”
“Gieo nhân nào ắt gặp quả nấy.”
Ngô Chân Lưu nghe xong, cúi gập người xuống nền vái ba vái:
- Đệ tử ngu muội đã được thông suốt, tạ ơn thần tiên chỉ bảo!
Ta ban cho nhà sư một cái bánh bao ăn lót dạ, sau đó tọa thiền nghỉ ngơi, buổi chiều sẽ tiếp tục đàm đạo. Bánh bao của thần tiên chúng ta, người thường ăn vào sẽ tiếp thêm sinh lực, ba ngày không bị đói. Đến chiều, Ngô Chân Lưu mặt mày sáng rỡ, tiếp tục nêu lên câu hỏi thứ ba:
- Bẩm Đại Tiên, một người bạn học của đệ tử tên là Trụ Trì nhờ hỏi một việc mà anh ta luôn canh cánh trong lòng. Người ta thường nói đời người là bể khổ, chúng sinh trong nhân gian trải qua mọi kiếp nạn cũng chỉ có mong muốn duy nhất là thoát tục thành tiên. Vậy làm thần tiên có thật sự sung sướng hơn làm người và vật hay không?
Thật là một câu hỏi hay, ta cũng chẳng dễ để trả lời được thỏa đáng.
- Đời người là một giấc mộng dài, tỉnh giấc là tỉnh mộng. Vậy nên, tất cả những hỷ nộ ái ố, tất cả những khổ đau cùng cực mà con người phải gánh chịu, chỉ cần kết thúc kiếp người ngắn ngủi đó là được giải thoát, lại an nhiên vui vẻ bước sang kiếp khác, tận hưởng những điều mới mẻ. Thần tiên chúng ta, mang tiếng là trường sinh bất lão, sống thọ với đất trời, chết là hoá thành tro tàn, hoà lẫn vào không gian thời gian. Chúng ta sinh ra đã được định sẵn sẽ sống một đời một kiếp như thế, những tai ương kiếp nạn phải chịu, nào có được giải thoát đâu. Vậy ta hỏi ngươi, làm con người sung sướng, hay làm thần tiên sung sướng?
Ngô Chân Lưu ngẫm nghĩ một lúc lại cúi người vái:
- Đệ tử đã rõ, tạ Đại Tiên chỉ giáo!
Cuối cùng là thực hiện một lời nguyện ước, nhà sư trẻ rơi vào thế trầm mặc, sau đó chậm rãi nói:
- Đệ tử đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. Đệ tử thân là Phật tử, con cháu Phật tổ đại từ đại bi, không hám cao sang, không màng danh lợi. Nói về điều mong ước nhất chỉ là có thể hiểu thấu được lời Phật dạy, có thể đem kinh Phật truyền bá rộng khắp nơi. Những điều ấy đệ tử sẽ tự mình phấn đấu. Lời ước này, đệ tử xin phép được nhường cho cha của đệ tử, tên là Ngô Xương Ngập, hiện đang ở nhà hào trưởng Phạm Lệnh Công tại làng Trà Hương, Nam Sách. Mong chư vị thần tiên chấp thuận!
Ta mỉm cười hài lòng, chắc hẳn tương lai Ngô Chân Lưu sẽ làm được việc lớn.
- Chuẩn y!
Lời ta vừa buông ra, lập tức gọi một đám sương trắng bay vào miếu rồi hòa vào đó mà ẩn thân. Không quên để lại vài lời dặn dò:
- Ta ban cho ngươi hai chiếc bánh bao, dọc đường chắc sẽ có lúc dùng đến. Trên đường xuống núi nếu gặp ai đang lên miếu này thì dặn người đó cố gắng nhanh chân một chút, ta chỉ ngụ tại đây năm ngày nữa thôi. Về bản thân ngươi, nếu một lòng hướng về Phật pháp, rũ bỏ hoàn toàn ân oán của thế gian, sau này sẽ gặt hái được rất nhiều.
Ngô Chân Lưu tạ ơn, vái ba vái sau đó cất bánh bao vào tay nải của mình, lên đường xuống núi.
Năm ngày sau đó, ta đến là chết vì buồn chán. Sách thì đã đọc xong, hạt dẻ vừa ăn vừa thả cho lũ sóc ngoài rừng rồi cũng hết, ngắm hoa đỗ quyên nhiều cũng chẳng làm được bài thơ nào. Tọa thiền mãi vẫn thấy tim đau như cũ đâm chán nản. Ngồi buồn lại nghĩ linh tinh, về mọi người trong gia đình, về những kỷ niệm ngày bé.
Ngày ấy khi ta tròn mười ngàn tuổi, anh cả Quang Ly đã gần ba mươi ngàn xuân xanh, đang chu du khắp thế gian bỗng nhiên nổi hứng quay về. Ta thích nhất những ngày anh cả trở về, bởi chắc chắn anh sẽ nhớ mang quà cho ta. Có khi là loại bánh lạ anh nếm được trên đường; có khi là những vòng tay, trâm cài làm bằng nguyên liệu quý; có khi là những món đồ chơi dân dã của trẻ con dưới nhân gian mà thuở ấy ta bị mê mẩn. Anh Quang Ly về và mang cho ta một con cào cào bằng các loại lá đẹp đến mê hồn. Ta hứng chí chạy khắp núi Bạch Mộc Lương Tử tìm đủ các loại lá để về làm một con cào cào đẹp như vậy. Ta nhớ là ta đã chơi rất vui, nhưng không thể nhớ đã chơi như thế nào. Những ký ức thuở ấy luôn bị rời rạc, không rõ ràng liền mạch. Theo lời anh ba Nhật Ly thì năm mười lăm ngàn tuổi ta bị trúng kịch độc, sau đó ngủ mê man suốt năm ngàn năm, khi tỉnh dậy một mảng ký ức bị ảnh hưởng nên trở nên lẩn thẩn, chuyện nhớ chuyện quên.
Sáng sớm của ngày thứ tám, ta thu dọn tay nải để chuẩn bị về lại am Uyển, đang lúi húi làm phép niêm phong cửa miếu thì ba hồi chuông Đồng bỗng giòn giã vang lên.