Ta tỉnh dậy ở giường Hàn Băng của Nam Tào, hàn khí tỏa ra ngùn ngụt, ngấm vào tận tim, chỉ thấy lòng lạnh ngắt. Nam Tào đang lúi húi truyền lại tiên pháp cho ta, không thấy bóng dáng Bắc Đẩu đâu. Nam Tào hình như có việc gì bận, ta cũng không muốn hỏi tội hay hàn huyên với hắn. Cả hai chào nhau rồi gọi mây bay đi.
Ta từ Thiên Đình bay về núi Bạch Vân Sơn, trong lòng tràn ngập vô vàn điều tiếc nuối, chẳng còn tâm trạng để ngắm nhìn lớp lớp đỗ quyên vàng rực trước mắt. Dừng lại ở cửa am Uyển, nhìn thấy một bóng dáng cao cao thanh thanh trong đình, ta thoáng ngạc nhiên, không ngờ vị khách đó vẫn còn chờ sư phụ ta sau bấy nhiêu ngày. Lần trước vội vàng nên thất lễ, ta nghĩ lần này cũng nên chào hỏi qua một tiếng, liền tiến bước về phía đình. Người đó quay lại, nhìn thấy ta, mắt phượng sáng lên, miệng cười như có như không, vẻ tuấn lãng còn hơn cả trong trí nhớ. Sau một thoáng choáng váng, ta lại chuyến sang sửng sốt, chỉ có vẻ ngoài khác đi, khí chất này, cốt cách này, chẳng lẽ lại là…
- Đại Thiên?
Người đó cười:
- Tiểu Thiên, nàng nhận ra ta sao?
“Tiểu Thiên… Đại Thiên…” Hai cái tên này…
- Xin sơ thần thứ lỗi, chẳng lẽ chúng ta có quen biết nhau?
- Không quen biết! - Đại Thiên hơi nhíu mày, đáy mắt ánh lên vẻ đau lòng sau đó biến mất ngay. - Mà phải nói là cực kỳ thân thiết. Tên thật của ta là Phượng Điểu Hoàng Niên, còn gọi là Hoàng Niên.
Hoàng Niên? Phượng Điểu Hoàng Niên? Ta không có ấn tượng! Nếu đã từng gặp qua một mỹ nam như thế này, đương nhiên ta sẽ phải nhớ rõ. Đang định hỏi thêm mấy câu thì nhìn thấy Đào từ trong dãy nhà hớt hải chạy ra.
- Thiên Ly, người đã về! Minh Sương gặp chuyện rồi.
Nói đến đây nước mắt nàng ta bỗng rơi lã chã khiến ta có chút hoảng hốt:
- Minh Sương có chuyện gì? Đào, ngươi bình tĩnh nói cho ta nghe!
Đào hít một hơi thật sâu sau đó kể lể qua hàng nước mắt:
- Người đi được một hôm thì Trà Ngạn My trở về. Nàng ta nhìn thấy Lệ Kim liền nhận ra cô ta chính là cung nữ đã đánh cắp ngọc Cầu Hồn ở cung Đức Mẹ Âu Cơ, đang bị Thiên Đình truy đuổi gắt gao. Mấy người bọn họ lập tức đi báo cho quan quân, Minh Sương một mực nhận trách nhiệm trong việc đưa cô ta về am Uyển. Hôm qua người ta đã đến và đưa cả Lệ Kim lẫn Minh Sương về cung Đức Mẹ rồi. Những học viên khác cũng đều kéo đến đó. Thiên Ly, người mau mau đi cứu Minh Sương.
Nghe nhắc đến Đức Mẹ Âu Cơ, lòng ta có chút bình tĩnh trở lại, tuy nhiên giọng vẫn đầy gấp gáp:
- Sư phụ thì sao? Có ai báo cho sư phụ chưa?
Đào mếu máo:
- Thượng thần Uyển Khuyên nói chờ Hồ Thiên Ly trở về, người sẽ tự có cách.
Ta khẽ thở dài sau đó dặn dò Đào:
- Được rồi, ngươi cứ ở nhà đừng lo lắng, ta sẽ đi giải quyết việc này.
Sau đó quay người gọi mây thì bắt gặp ánh mắt của Đại Thiên, à phải nói là Hoàng Niên mới đúng, suýt nữa thì quên mất hắn. Ta đang định cất lời cáo biệt thì thấy hắn cũng làm phép gọi mây, chắc hẳn thấy ta có việc bận nên hắn vội đi ngay. Ta đang lo lắng cho Minh Sương nên không để tâm đến hắn nữa. Vội vàng bay một mạch đến cung Âu Lạc của Đức Mẹ Âu Cơ.
Đức Mẹ Âu Cơ vốn là nữ thần sinh ra trăm trứng nở ra trăm con, là Đức Mẹ của loài người. Đức Mẹ bản tính hiền lương, nhân hậu, luôn bao bọc, chăm nom cho không chỉ loài người mà cả muôn loài trên thế gian. Vậy nên muôn loài bọn ta đều cung kính gọi người một tiếng Đức Mẹ. Nếu là ở cung Âu Lạc thì ta biết Minh Sương tuyệt đối không tổn hại gì, chỉ sợ nàng ta vốn tính bướng bỉnh nên sẽ bị các nữ quan ở đó gây khó dễ.
Mải suy nghĩ, ta không để ý đến một đạo thân ảnh đang mải miết bay theo mình. Lúc nhận ra quay lại thì nhìn thấy tà áo trắng phất phơ trong gió, mái tóc hững hờ nửa buộc nửa không cũng tung bay. Màu trắng tuyệt mỹ nổi bật giữa cánh rừng đỗ quyên vàng bên dưới. Tim ta đánh rơi mất một nhịp, rơi xuống và biến mất giữa những cánh hoa vàng mượt dưới kia. Không ngờ Hoàng Niên hắn lại đi theo ta.
Ta và Hoàng Niên đáp xuống trước cổng cung Âu Lạc, hai vị trung tiên giữ cửa lạ mặt, ta không quen. Hai người họ chặn bọn ta lại, cất giọng nghiêm khắc:
- Cảm phiền hai vị thần tiên! Nếu không có lệnh của nữ thần Âu Cơ, hai người sẽ không được vào cung.
Ta tìm kiếm ở thắt lưng và hoảng hốt nhận ra lúc nãy vội quá đã không kịp lấy ngọc bội luôn mang theo bên người. Bây giờ mà quay lại am Uyển thì quả là mất công. Ta cắn cắn môi đánh mắt sang phía Hoàng Niên. Hắn thấy ta nhìn hắn liền hành lễ nói với hai vị nữ quan giữ cửa kia:
- Chúng ta đến đây quả thật vì việc gấp, liên quan đến vụ án ngọc Cầu Hồn, làm phiền hai vị có thể vào trong thông báo một tiếng hay không?
Hai người kia nhìn nhau rồi một người hành lễ lại với Hoàng Niên:
- Sơ thần trách tội, hai chúng tôi không thể rời khỏi vị trí của mình. Nếu việc của hai vị là quan trọng, nữ thần sẽ sớm cho người ra đón các vị.
Vừa lúc đó sau lưng ta vang lên một tiếng gọi:
- Thiên Ly!
Ta quay lại, vui mừng nhận ra đó là nữ quan chuyên lo việc nấu ăn cho Đức Mẹ. Ta vội chạy lại đỡ lấy giỏ đồ trong tay bà:
- Bà Xiêm, lâu lắm rồi con không gặp bà!
Bà Xiêm gốc vốn là cây hồng xiêm, đã nấu ăn cho Đức Mẹ từ thuở ban đầu còn ở bên Thiên Đình cho đến khi người dọn qua cung riêng này. Bà Xiêm cười với ta:
- Con bé này, lại quên ngọc Lạc Hồng phải không? - Rồi quay sang mắng hai nữ quan giữ cửa. - Hai người các ngươi gây khó dễ với con bé, chuẩn bị mà nghe nữ thần trách phạt đi!
Ta cùng Hoàng Niên theo bà Xiêm bước vào cung Âu Lạc trước sự ngơ ngác của hai nữ quan kia.
Bà Xiêm dẫn ta và Hoàng Niên đến nơi xử phạt sau đó vội đi ngay để kịp chuẩn bị bữa trưa cho Đức Mẹ.
Người gác cửa phòng nhìn thấy ta và Hoàng Niên, lạnh lùng nói:
- Cảm phiền hai vị thần tiên! Đây là chỗ xử án, nếu không có lệnh của đại nữ quan Mạc Liễu, hai vị không thể tự tiện ra vào.
Ta hành lễ rồi nhẹ nhàng nói:
- Làm phiền nữ quan có thể vào thông báo cho đại nữ quan rằng ta, Hồ Thiên Ly mới chính là người đã gặp và đưa cô nương Lệ Kim đó về am Uyển, không liên quan đến Uyển Minh Sương.
Nữ quan đó nhìn ta và Hoàng Niên đánh giá sau đó gật đầu:
- Hai vị thần tiên xin chờ một lát!
Một lúc sau, nữ quan đó ra và dặn ta chỉ nên đứng yên lặng đón xem xử án, sau khi đại nữ quan hỏi đến tên mới được lên tiếng. Ta gật đầu hiểu ý, sau đó cùng Hoàng Niên bước vào.
Chúng ta tiến vào phòng xử phạt, nhìn thấy cô gái tên Lệ Kim và Minh Sương đang bị vây giữa các nữ quan và đám bạn học của ta. Các nữ quan đứng ở trên bậc đá cao nhất nhìn xuống, đang nghiêm khắc nêu lên các câu hỏi cho hai người kia. Ta chen vào giữa Trà Ngạn My và Báo Hồng Hoa, đứng ở các bậc đá thấp hơn một chút, nhìn xuống Minh Sương lọt thỏm ở giữa vòng, dù nàng ta rất kiên cường nhưng rơi vào thế bị bao vây này cũng sẽ gặp không ít hoang mang. Báo Hồng Hoa nhìn thấy ta vội nói nhỏ:
- Thiên Ly, ngươi được lắm, không hiểu ngươi cho Minh Sương cái gì mà nàng ta một mực nhận hết tội cho ngươi.
Ta lạnh lùng nhìn Báo Hồng Hoa nhưng không thèm nói gì. Mãng Thanh Xà cũng lên tiếng thầm thì:
- Lần này dù cho sư phụ có tha cho ngươi thì Đức Mẹ Âu Cơ nổi tiếng nghiêm khắc cũng sẽ trách phạt ngươi rất nặng. Cứ chờ đi!
Lúc này mấy người kia lại mỗi người lao xao một câu:
- Sư phụ lần này cũng không thèm đếm xỉa đến ngươi nữa, xem ra người cũng chán nản vì ngươi lắm rồi.
- Đương nhiên, vì Thiên Ly mà con gái cưng Minh Sương của người bị hàm oan cơ mà…
Ta không để ý đến mấy người đó, chăm chú theo dõi việc xử án. Một người mặc đồ nữ tướng, khuôn mặt chữ điền, mắt sáng quắc, tướng tá cao to, ta đoán là đại nữ quan Mạc Liễu, đang hỏi Minh Sương:
- Uyển Minh Sương, ta cho ngươi thêm một cơ hội nữa, trả lời thành thật cho ta biết. Ngươi có liên quan gì đến Lệ Kim hay không?
- Thưa nữ quan, Minh Sương chỉ là người vô tình gặp Lệ Kim bất tỉnh ngoài rừng và cứu cô nương đó về am của sư phụ, tuyệt đối không biết cô ta là người ăn trộm ngọc Cầu Hồn của Đức Mẹ Âu Cơ.
- Ngươi nói ngươi đã đưa Lệ Kim về am Uyển? Vậy tại sao một người khác cũng tự nhận đã gặp và cứu cô ta?
Minh Sương có chút bất ngờ, nàng ta cắn môi nhìn xung quanh:
- Việc này…
Đại nữ quan Mạc Liễu dõng dạc lên tiếng:
- Ai là Hồ Thiên Ly, xin mời bước xuống!
Ta thong dong thoát ra khỏi đám đông, bước xuống những bậc đá, tiến về phía Minh Sương, ném cho nàng ta một ánh nhìn trấn an, sau đó hành lễ với các nữ quan:
- Thượng tiên Hồ Thiên Ly bái kiến các nữ quan!
Tầm năm, sáu nữ quan xử án đang đứng trên bậc cao nhìn xuống phía ta. Đứng ở dưới này, quả thật có cảm giác bản thân trở nên nhỏ bé một cách kỳ lạ. Trước đây ta chưa từng ghé qua phòng xử phạt, thì ra cung Âu Lạc còn có một nơi mới mẻ như vậy. Một vị nữ quan hỏi ta:
- Hồ Thiên Ly, ngươi tự nhận mình là người cứu Lệ Kim. Vậy cũng tức là ngươi tự nhận mình cùng một phe với cô ta?
- Thưa nữ quan, Thiên Ly trên đường từ miếu Đồng trở về am Uyển thì gặp Lệ Kim đang nguy kịch đến tính mạng bất tỉnh giữa đường. Thiên Ly động lòng trắc ẩn nên đã mang cô ta về am Uyển chữa trị, quả thật không hề biết đó là người đang bị Thiên Đình truy đuổi.
- Hỏi qua hỏi lại, chi bằng hỏi chính người đã gây án. - Mạc Liễu lên tiếng. - Lệ Kim, ngươi hãy thành thật khai ra, trong hai người trước mặt ngươi, có ai là kẻ đồng mưu về tội ăn cắp ngọc Cầu Hồn hay không?
Ta nhìn về phía người im lặng từ đầu buổi đến bây giờ. Cô nương Lệ Kim đó không khóc lóc hốt hoảng kêu oan, cũng không mở lời nói đỡ cho Minh Sương một tiếng, chỉ bình thản đứng yên ở đó. Phòng xử án được thắp bằng hàng ngàn ngọn nến ở trên cao, ánh nến vàng rực hắt xuống, soi rõ bóng Lệ Kim trên nền nhà. Cô ta đang nhìn về phía này, mái tóc màu nâu thường ngày bối lên cẩn thận, giờ đây xõa tung ra, che khuất khuôn mặt và cặp mắt to xanh biếc. Cô ta nói, giọng điệu có gì đó lạnh tanh:
- Có một người liên quan.
Ta và Minh Sương ngạc nhiên nhìn nhau, tiếng lao xao xung quanh lớn dần lên. Một nữ quan quát hỏi:
- Là ai?
Lệ Kim giơ một ngón tay mảnh khảnh, chỉ về phía này, giọng thản nhiên:
- Là cô ta, Hồ Thiên Ly!
- Nói dối! - Minh Sương hét lên át giọng cô ta. - Thiên Ly làm sao có thể liên quan đến ngươi!
- Uyển Minh Sương, giữ yên lặng! - Một nữ quan nghiêm khắc nhắc nhở.
Minh Sương nói, giọng điệu có chút ghê tởm:
- Thưa các vị nữ quan, cô ta đang điêu ngoa đổ tội cho chính vị ân nhân đã cứu mạng mình.
- Ngươi có thể chứng minh là Hồ Thiên Ly bị oan không? - Mạc Liễu lên tiếng.
- Việc này… - Minh Sương cắn môi nhìn sang ta.
Ta bình tĩnh nói:
- Thiên Ly nhận nhiệm vụ canh giữ ở miếu Đồng, suốt một tuần lễ chỉ gặp đúng hai người, cô nương Lệ Kim đây và một nhà sư dưới dương gian tên là Ngô Chân Lưu. Quả thực không ai có thể đứng ra làm chứng cho Thiên Ly cả.
Tiếng xì xào lại nổi lên rõ hơn, Minh Sương giương ánh mắt đau lòng lẫn bất lực nhìn ta. Các nữ quan dường như đang thảo luận với nhau. Một lúc sau, Mạc Liễu nhìn xuống, nghiêm khắc nói:
- Nhà sư dưới dương gian chỉ là người trần mắt thịt, không thể làm chứng cho ngươi về việc có cùng với Lệ Kim lập mưu trộm ngọc Cầu Hồn hay không. Chính miệng người gây án đã khai ra tên của ngươi, hai người sẽ tạm thời bị giam lại, chờ chúng ta tiếp tục xem xét…
- Ta có thể làm chứng cho con bé!
Một giọng nói trầm ấm và dịu dàng vang lên, trong lòng ta trào dâng sự ấm áp quen thuộc. Mọi người nhất loạt cúi đầu hành lễ:
- Nữ thần Âu Cơ!
Đức Mẹ mỉm cười nhẹ nhàng nói:
- Được rồi!
Người nhìn ta, vẫn giữ nguyên nụ cười, sau đó quay sang Lệ Kim, ánh mắt thoắt trở nên nghiêm khắc:
- Tội ăn cắp đương nhiên sẽ bị xử phạt, nhưng không thể dung tha nhất vẫn là tội nói dối. Ta cho ngươi thêm một cơ hội để thành thật.
Lệ Kim đã sợ hãi ngay từ khi nhìn thấy Đức Mẹ bước vào, giờ đây hai chân dường như không thể đứng vững nữa, vội vàng quỳ xuống, thành khẩn nói:
- Nữ thần tha tội! Việc ăn cắp ngọc Cầu Hồn từ đầu đến cuối quả thật chỉ có một mình tiểu nữ ra tay, hoàn toàn không có ai giúp đỡ.
Đức Mẹ nhìn sang Mạc Liễu:
- Thể theo luật để luận tội!
Mạc Liễu cung kính nói:
- Dạ nữ thần, chúng quan đã rõ!
Đức Mẹ lại quay xuống phía ta, ân cần nói:
- Thiên con, ở lại dùng bữa trưa với ta.
Ta vui vẻ nói:
- Dạ, Đức Mẹ!
Ta nhìn về phía Lệ Kim đang quỳ dưới đất, khẽ thắc mắc:
- Tại sao lại đổ oan cho ta?
Cô ta ngước lên, nhìn thẳng vào ta, đáy mắt có bao nhiêu lạnh lùng, giọng nói có bấy nhiêu băng giá:
- Bởi vì ngươi là em gái của Hồ Quang Ly.
Ta không có thời gian để hỏi thêm, vội vàng đi theo Đức Mẹ Âu Cơ rời khỏi phòng xử phạt với một mớ ngổn ngang trong lòng. Lúc ngang qua Hoàng Niên, Đức Mẹ đột nhiên dừng lại nhưng không nói gì, sau đó người lại cất bước đi ngay. Ta chào từ biệt hắn, dù sao cũng đã có lòng tốt theo ta lên đến tận đây.
Ta từ nhỏ đã mang thể trạng yếu ớt, cha mẹ vất vả nuôi ta đến khi năm ngàn tuổi, ta bị một cơn bạo bệnh, da dẻ bỗng dưng trở nên lở loét, khắp người đều mưng mủ, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Lúc đó cha ta nghe người ta mách rằng chỉ có nước ở hồ Thiên Nhiên trong cung của Đức Mẹ Âu Cơ mới có thể chữa khỏi bệnh cho ta. Cha mẹ liền mặt dày đưa ta lên Thiên Đình, cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ. Không ngờ nữ thần vừa nhìn thấy ta đã mang lòng yêu thương, liền nhận ta làm con nuôi. Sau đó ta ở tại cung của người năm ngàn năm, cho đến khi thể trạng trở nên hoàn toàn khỏe mạnh. Từ lúc người đang ở trong cung của Thiên Đình cho đến khi chuyển ra cung Âu Cơ, chứng kiến biết bao thăng trầm buồn vui của vị nữ thần được muôn loài kính trọng ấy. Nhớ lại cũng lâu rồi ta không dành thời gian lên đây thăm người, quả là đứa con bất hiếu.
Ngay trước cổng chùa Pháp Vân, bọn ta gặp Ngô Chân Lưu và Đại Thiên đang đi cùng nhau, sắp sửa bước vào chùa. Nhà sư kia không thay đổi, vẫn khuôn mặt thanh thoát, vẫn cặp mắt sáng ngời, tính cách dường như có phần chín chắn thâm trầm hơn. Ngô Chân Lưu đương nhiên không biết ta, Đại Thiên kia cũng xem như là quen biết. Chúng ta liền chào hỏi hàn huyên một lúc. Thì ra Ngô Chân Lưu và Đại Thiên gặp nhau trên đường nhà sư đi tìm hiểu về Phật pháp, sau mấy lần đàm đạo, Chân Lưu nhận ra Đại Thiên có một hiểu biết rất thâm thúy và sâu sắc về đạo Phật liền ngỏ ý mời anh ta đi tìm hiểu cùng mình. Sẵn dịp đang bôn ba nên Đại Thiên vui vẻ đồng ý. Hai người đã đến thành Luy Lâu một thời gian, Chân Lưu ngụ trong chùa Pháp Vân còn Đại Thiên thuê một phòng trọ ở khách điếm bên ngoài. Khi ta giới thiệu mình là sứ giả của triều đình, Ngô Chân Lưu lập tức trở nên vui vẻ còn Đại Thiên không tỏ rõ thái độ gì.
Thiền sư trụ trì chùa Pháp Vân đã tiếp đón ta rất chu đáo, nhưng thiền sư khá bận rộn nên Chân Lưu đứng ra nhận trách nhiệm sẽ dẫn ta đi thăm các ngôi chùa nằm trong vùng Vũ Ninh này. Ta vui mừng không để đâu cho hết.
Chân Lưu dẫn ta, Đại Thiên và hai hộ vệ đi một vòng chùa Pháp Vân, giới thiệu về kiến trúc, cách bố trí nhà, chùa, tháp, các bức tượng được đặt trong chùa. Chúng ta say sưa ngắm nhìn các pho tượng được điêu khắc tỉ mỉ, ngôi tháp cao và những ao sen trắng, hoa súng tím xen lẫn vào nhau. Tất cả tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp đặc trưng nhất của một ngôi chùa. Mọi người quyết định nghỉ dừng chân tại bộ bàn ghế gỗ đặt dưới cây đa cổ thụ khổng lồ. Tại đây Chân Lưu say sưa kể chuyện về thiền sư Khâu-Đà-La và Phật mẫu Man Nương.
Những ngày sau đó, Chân Lưu dẫn ta cùng Đại Thiên đi khắp hệ thống chùa chiền ở vùng đất trung tâm của Phật giáo này. Mỗi ngôi chùa có những nét riêng biệt, những câu chuyện riêng, đều được nhà sư trẻ giới thiệu và kể một cách rất tự hào. Ba chúng ta cũng từ đó mà trở nên thân thiết, có lúc say sưa luận đàm về Phật pháp đến nỗi Phùng Tứ phải lên tiếng nhắc nhở, ta mới biết đã qua giờ Tuất mà chúng ta vẫn chưa dùng cơm tối. Những khi Chân Lưu bận việc trong chùa, ta lại cùng Đại Thiên rong ruổi trên khắp thành Luy Lâu. Tiếp xúc với Đại Thiên mới thấy ta và hắn có rất nhiều điểm chung, giống như đã thân quen từ lâu vậy. Hắn và ta có thể ngồi hàng giờ trong một quán trà đạo, chỉ im lặng ngồi uống trà, nhìn ngắm người qua lại trên phố, tuyệt nhiên không nói năng gì, vậy mà không hề cảm thấy khó chịu hay ngượng ngùng. Đôi lúc chúng ta lại cùng say sưa lắng nghe khúc đàn bầu trong một góc tửu quán. Chiếc đàn chỉ gồm một dây này lại có thể tạo ra những thanh âm rất đặc trưng, khi buồn bã, khi da diết, khi ngọt ngào.
Đại Thiên vốn không phải người bình thường, ta tuy đã bị rút đi tiên pháp, không còn nhãn lực nhưng cũng nhìn ra được khí chất siêu phàm của hắn. Vả lại kiến thức hắn cũng rất sâu rộng, không chỉ về vấn đề Phật pháp. Bất cứ câu hỏi về lĩnh vực nào đó mà ta đặt ra cũng được hắn giải đáp một cách kỹ lưỡng và khiến ta tâm phục khẩu phục. Đối với mọi chuyện hắn dường như đều đã biết rõ nên luôn tỏ ra hờ hững, không có hứng thú với bất kỳ cái gì. Vậy nhưng từ hắn, ta cảm nhận được sự ấm áp, đáng tin cậy. Vẻ ngoài hắn tuấn lãng, ưa nhìn, không gọi là xuất sắc, nhưng đôi lúc ta lại thấy đáng lẽ hắn phải đẹp hơn thế mới phải.
Đông qua xuân tới, ta dường như mải rong chơi mà quên mất khái niệm thời gian, thoắt một cái đã sang năm mới Quý Sửu. Lần đầu tiên ta được đón Tết Nguyên Đán dưới dương gian nên không tránh khỏi phấn khích. Đêm giao thừa, sau khi dự đại lễ đón năm mới trong chùa Pháp Vân, Ngô Chân Lưu tiếp tục ở lại để tụng kinh, ta hăm hở xắn tay áo chạy ra ngoài phố xá tấp nập. Đại Thiên nhìn vẻ háo hức của ta, tự nhiên mà bật cười. Ta bỗng dưng ngây ngốc đứng nhìn hắn cười, cảm thấy còn đẹp hơn cả pháo hoa đang nở đầy trời. Đại Thiên không để ý, kéo ống tay áo ta lôi đi:
- Ta dẫn đệ đến một nơi.
Nơi Đại Thiên dẫn ta đến lại là một quán ăn bé xíu ở góc phố. Quán ăn này chỉ vẻn vẹn có dăm, sáu cái bàn, quanh mỗi bàn là hai chiếc ghế gỗ tròn thấp tè, hai người ngồi đã thấy chật, Phùng Tứ và Hải Bình phải ngồi ở chiếc bàn bên cạnh bọn ta. Ta quay quay người, quán bé nhưng lại tạo cảm giác ấm áp lạ lùng. Đại Thiên gọi hai bát canh cá to. Đợi một lúc thì hai bát đại nghi ngút khói được bưng ra, mùi thơm ngào ngạt. Trong bát là một con cá chép to đang ẩn mình giữa đám dưa muối, cà chua, thì là… Ta kiên nhẫn ngồi chờ Đại Thiên tỉ mỉ dùng đũa xé mình cá trắng phau ra, sau đó múc cho ta một bát đầy. Hắn nói:
- Giao thừa năm ngoái ta may mắn được một người bạn dẫn đi ăn tại quán này, sau đó rất ấn tượng với món canh cá ở đây. Năm nay quả thực không thể bỏ lỡ.
Ta cười híp mắt, vốn tưởng hắn giống như thần tiên thoát tục, thì ra cũng có sở thích ăn uống bình thường này. Ta húp thử một thìa nước canh, cảm nhận luôn được ngũ vị, mùi thơm ngậy không hề bị tanh của cá, vị chua vừa phải của dưa muối và cà chua, mùi cay nồng của ớt, vị mặn ngọt của nước dùng. Tất cả hòa quyện với nhau xóa tan đi cái lạnh giá của mùa đông, khiến ta cảm thấy trên đời không thể có món nào hoàn mỹ hơn nó. Đại Thiên chỉ yên lặng nhìn ta ăn, hắn còn gọi thêm vài món nữa cũng đậm đà hương vị, ta chỉ nếm sơ qua đã no muốn xỉu.
Ta vác cái bụng no căng, lấy lại vẻ háo hức ban đầu, đi đón lễ giao thừa. Ta sà vào các nhà đốt pháo, hỉ hả lắng nghe tiếng pháo đì đùng bên tai. Sau đó lại ghé qua những nơi đang gói và nấu bánh chưng, bánh dày, ngắm nghía những chiếc bánh căng mọng đẹp đẽ và đặc trưng nét truyền thống này. Người đi lại rộn ràng trên phố, quán xá tấp nập khách vào ra. Ta chen giữa dòng người, tận hưởng từng trò chơi, từng khoảnh khắc, từng hoạt động đang diễn ra. Phùng Tứ và Hải Bình theo ta muốn hụt hơi, trong khi đó Đại Thiên luôn bắt kịp ta mà vẫn giữ được dáng vẻ thong dong, tự tại. Lúc ta và hai người hộ vệ đang say sưa đứng xem người ta biểu diễn trò múa rối nước. Đại Thiên biến đi đâu mất một lúc, lát sau quay lại dúi vào tay ta một chiếc đèn trời. Phùng Tứ và Hải Bình hì hục thắp đèn, sau đó đưa cho ta ước. Đúng vào thời khắc giao thừa, năm mới Quý Sửu đến, tiếng pháo tét nổ inh tai, pháo hoa bay rợp trời, ta thả nhẹ chiếc thiên đăng trên tay, cùng với hàng trăm, hàng nghìn chiếc đèn khác, theo gió bay lên trời. Đêm đó rất vui, ta cứ cười mãi không ngậm miệng lại được, chỉ ước thời gian có thể dừng lại.
Sau ba ngày Tết chè chén và chơi bời no say, ta chợt giật mình nhận ra năm tử của mình đã đến, việc cần làm phải làm gấp, không thể trì hoãn thêm được nữa. Ta liền dành một ngày để thảo luận với Đại Thiên và Chân Lưu những việc cần thiết phải ghi lại để gửi lên hai vị Vương về tình hình chùa chiền và Phật giáo ở thành Luy Lâu.
Hôm sau, Đại Thiên có việc bận, ta cũng kiếm việc để sai Phùng Tứ và Hải Bình rời khỏi chùa. Cuối cùng thì cũng có cơ hội được gặp riêng Ngô Chân Lưu. Ta dạm hỏi:
- Đại sư Chân Lưu, thầy có ý định trở về Cổ Loa cùng với tại hạ để tiếp tục luận bàn việc xây dựng chùa chiền hay không?
Chân Lưu khiêm tốn nói:
- Bần tăng tự cảm thấy hổ thẹn, kiến thức về Phật pháp vẫn chưa gọi là nhiều, nếu có thể thì còn muốn đi về phía biển sau đó vòng lại vùng núi, không dám đi theo để làm lỡ mất hành trình của thí chủ.
Ta cũng thẳng thắn mà thổ lộ:
- Không giấu gì đại sư, Thiên Sách Vương vẫn luôn có ý định mời thầy ghé qua thành Cổ Loa một lần, chẳng hay thầy có thể dành thời gian hay không?
Chân Lưu có chút ngỡ ngàng, hỏi lại:
- Là Thiên Sách Vương sao?
- Phải! - Ta khẳng định.
Chân Lưu suy nghĩ một lúc rồi kiên quyết lắc đầu:
- Bần tăng đã thề một lòng hướng Phật, cũng chẳng còn gì để vấn vương với chốn ấy. Cảm phiền thí chủ nhắn lại với ông ấy rằng: Bần tăng đã được cảm hóa Phật pháp, cả đời này không có điều gì phải nuối tiếc.
Ta lại nói:
- Đại sư Chân Lưu, mong thầy suy nghĩ cho kỹ càng. Nếu ta nói đó là lời nguyện ước của một người cha thì sao?
Chân Lưu mở lớn cặp mắt nhìn ta, tay phải nắm lấy chuỗi tràng hạt đeo trên cổ, tay trái chụm lại để trước ngực:
- Xin hỏi thí chủ, ngài là…?
Ta mỉm cười:
- Tại hạ họ Ngô, tên thật là Ngô Nam Hưng, là tam đệ của Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương.
Chân Lưu cúi đầu, một lúc lâu sau mới ngẩng lên nói với ta:
- Thí chủ, có thể để bần tăng suy nghĩ thêm không? Ngày mai bần tăng sẽ có câu trả lời.
Ta gật đầu. Sau đó Chân Lưu rời đi, còn ta trở về khách điếm sai Phùng Tứ và Hải Bình thu dọn đồ đạc, tầm một vài ngày nữa là lên đường trở về kinh thành.
Hai ngày sau, chúng ta năm người năm ngựa thong dong tiến về phía thành Cổ Loa. Ngô Chân Lưu cuối cùng cũng đồng ý gặp Thiên Sách Vương. Đại Thiên nói có việc cần làm ở kinh thành nên đồng hành cùng bọn ta luôn.
Năm người chúng ta trở về kinh thành trong sự chào đón hân hoan của mọi người. Ta giới thiệu Ngô Chân Lưu và Đại Thiên là những vị khách am hiểu về Phật pháp, có góp phần to lớn trong chuyến đi vừa rồi của ta, Nam Tấn Vương tiếp đón hai người rất nhiệt tình, Thiên Sách Vương không bộc lộ nhiều, trong đáy mắt có hàng vạn điều muốn nói. Ngô Chân Lưu khiêm nhường, chỉ xin ở trong một gian phòng nhỏ trong cung của Thiên Sách Vương, bên cạnh chỗ ở của ta. Đại Thiên dường như cũng rất rảnh rỗi, vui vẻ chấp nhận một căn phòng nhỏ khác bên kia phòng Chân Lưu, chẳng hiểu sao ta lại lấy làm vui mừng vì điều đó. Mấy ngày sau ta giải quyết các bản báo cáo đã gửi về kinh trước đó, Chân Lưu và Đại Thiên có tham gia hỗ trợ. Hai người bọn họ còn dành thời gian giúp ta phân tích và nghiên cứu những ngôi chùa, ngôi miếu, am tự cần thiết phải tu bổ, lượng kinh phí cần thiết… Công việc kể ra cũng nhiều, mất hai tuần mọi kế hoạch bắt đầu trở nên có quy củ và rõ ràng hơn, lúc này mọi người mới có thời gian để làm những việc khác. Đại Thiên ngỏ ý muốn nhờ ta cùng huynh ấy đi thăm thú và xem xét việc giao thương ở kinh thành. Ta tuy không có kinh nghiệm thực tế nhưng trước đây cũng đã đọc nhiều sách về nghệ thuật buôn bán, vả lại không hiểu sao không thể mở lời từ chối. Vậy nên Đại Thiên và ta cùng Phùng Tứ, Hải Bình đi theo bảo vệ lại cùng nhau rong ruổi trên khắp kinh thành Cổ Loa. Ngày hôm sau, Ngô Chân Lưu đến gặp ta và từ biệt lên đường. Đại Thiên vẫn còn việc ở kinh thành chưa xong nên không đi cùng nhà sư. Chân Lưu vái chào hai vị vương, sau đó ta và Đại Thiên tiễn nhà sư một đoạn. Chẳng biết cha con họ đã nói với nhau những gì, chỉ thấy đôi mày của Chân Lưu luôn chau lại, bước chân cũng trở nên nặng nề hơn.
Càn Hưng háo hức thông báo cuối tháng giêng đệ ấy sẽ tổ chức yến tiệc mừng ngày sinh của ta, cũng coi như chúc mừng ta lập công trở về. Ta vui vẻ đồng ý, trong lòng ngầm hiểu đây là ý của thái hậu. Ngay từ ngày ta về kinh và bái kiến người, mẫu hậu đã vội vàng bóng gió xa gần chuyện chọn vợ cho ta. Lúc này chắc là không thể né tránh và trì hoãn được nữa.
Ta vẫn thản nhiên đi tìm hiểu việc buôn bán cùng Đại Thiên, yến tiệc giao hết cho Càn Hưng chuẩn bị. Nam Tấn Vương dường như cũng rất quý Đại Thiên, luôn miệng khen hắn tài giỏi trước mặt mọi người, còn thường xuyên cho vời hắn vào cung để luận bàn chuyện phát triển giao thương của đất nước.
Bên cạnh đó, từ ngày Ngô Chân Lưu rời khỏi kinh, Thiên Sách Vương ngày càng trở nên xuống dốc. Không những chuyên quyền, công khai muốn gạt hẳn Nam Tấn Vương khỏi việc triều chính, còn làm những chuyện khiến muôn dân oán thán. Mắt nhắm mắt mở để mặc cho đám quan tham vơ vét hết của dân, liên tục mở đợt tuyển chọn các mỹ nhân trên khắp đất nước để nạp vào hậu cung, tham dự những buổi tiệc rượu của bè lũ nịnh thần diễn ra ngày này qua ngày khác. Thái hậu buồn lòng, Nam Tấn Vương can ngăn không đặng. Ta dù sao cũng đã hoàn thành nguyện ước với Ngô Xương Ngập, chuyện triều chính thì càng không muốn can dự vào. Nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ, để mặc Xương Ngập như vậy.
Đêm trăng rằm đầu xuân, Đại Thiên được Nam Tấn Vương gọi sang cung của hắn, ta tạm thời rảnh rỗi nên lại bày rượu giải sầu dưới trăng. Ta dặn cung nữ làm nhiều món nhắm một chút. Bầu rượu chưa hết quá nửa mà đồ ăn trên bàn đã vơi đi không ít, quả nhiên một bóng người quen thuộc lại xuất hiện, ngồi xuống đối diện ta. Ta không nói gì, chỉ lấy thêm chén, rót đầy rượu sau đó đặt trước mặt người kia. Người đó cũng không nói gì, đưa chén rượu lên uống cạn một hơi rồi lại đặt chén xuống. Hai chúng ta chỉ ngồi uống rượu, tuyệt nhiên không nói chuyện, giống như ngày đầu thời xưa. Chén sóng sánh đầy rượu, bánh trôi nước tròn lẳn, đĩa lạc rang vàng ươm, tất cả đều được tắm trong ánh trăng. Thiên Sách Vương ngồi trước mặt ta, trăng vàng chiếu lên bộ quần áo lụa là gấm vóc, làm cho nỗi cô độc của hắn dường như càng trở nên rõ nét hơn. Ta có một chút cảm thông với hắn, dù sao thời gian ta sống ở đây cũng không còn nhiều nữa, liền nói:
- Đại sư đã sớm một lòng hướng Phật, không màng danh lợi vinh hoa, đó cũng là điều tốt. Thiên Sách Vương đừng lấy làm phiền muộn, muôn dân bá tánh thật sự đang rất cần sự anh minh và sáng suốt của người.
Ngô Xương Ngập đặt mạnh chén rượu xuống, hắn cũng như ta, đã uống khá nhiều. Hắn hỏi, không liên quan đến việc ta vừa nói:
- Nếu ta hỏi ngươi một lần nữa câu hỏi trước đây, ngươi vẫn giữ nguyên câu trả lời?
Ta biết hắn đang nói đến chuyện gì, khẽ thở dài, nhìn thẳng vào mắt hắn. Ta nhắc lại câu đã từng nói:
- Thần đã thề trung thành với ai ngay từ đầu thì há gì cái mạng bé nhỏ này!
Xương Ngập không nói gì, đứng dậy rời khỏi bàn rượu. Ta cũng tự hiểu, đây là lần cuối cùng uống rượu của hai người chúng ta. Trăng treo trên đầu, hoa đào đầu xuân chớm nở trên cành cây khẽ rung rung trong gió. Ta nhớ Bạch Vân Sơn, nhớ những cánh đỗ quyên vàng của mùa xuân, nên quay về thôi…
Yến tiệc linh đình, cung nữ chuẩn bị cho ta một bộ đồ trắng điểm thêm vài chiếc lá cây bằng ngọc dưới tà áo, đơn giản nhưng cũng rất tinh tế. Ta vui vẻ ngồi xuống chỗ Càn Hưng đã bố trí trước, ngay phía dưới chỗ của thái hậu và hai vị vương. Yến tiệc ồn ào, đàn sáo tưng bừng, vũ nữ say sưa biểu diễn các điệu múa mê người, đồ ăn thức uống không thiếu thứ gì. Bá quan văn võ đua nhau đến chúc rượu thái hậu, hai vị vương và ta. Các vị tiểu thư con nhà đại quan được mẫu hậu mời đến, tập trung đông đủ ở dãy ngay bên tay phải ta, quả nhiên toàn là các mỹ nhân hoa nhường nguyệt thẹn. Đại Thiên ngồi dưới ta mấy dãy ghế, hắn chưa đến chúc rượu nhưng vẫn luôn dõi về phía này. Thái hậu thấy ta không để ý gì đám mỹ nhân mà người đã cất công chuẩn bị đã bực mình rời khỏi tiệc sớm. Rượu ngà ngà say, các bá quan lần lượt cáo việc về trước. Chỉ còn lại Xương Văn và Càn Hưng đang vui vẻ chúc rượu nhau, Xương Ngập uống rượu rất cầm chừng, Đại Thiên đang được một vị tiểu thư bắt chuyện. Ta không còn người đến chúc rượu, đang định kiếm cớ rời khỏi đây thì thấy Càn Hưng cười cười tiến lại phía mình:
- Nam huynh, đệ biết huynh đã rượu no say mà vẫn chưa có món gì trong bụng. Đệ đã chuẩn bị trước món mà huynh thích nhất. Đợi lúc thích hợp mới mang ra.
Nói rồi Càn Hưng đưa mắt cho một cung nữ gần đó, một lúc sau cười bí hiềm, đích thân đặt trước mặt ta một bát nhỏ. Ta tò mò nhìn hắn chỉ thấy hắn cười hì hì, những người còn lại của buổi tiệc cũng đang chú ý lại đây. Ta mở nắp bát ra một cách từ tốn, mùi gừng xông lên mũi, những chiếc bánh trôi to tròn, trắng trẻo chen chúc nhau trong bát nước xâm xấp. Ta mỉm cười với Càn Hưng, vui vẻ nói:
- Cảm ơn Càn đệ!
Càn Hưng cười tít mắt. Ta nhớ không có mấy người biết ta thích ăn bánh trôi nước, Càn Hưng cũng không biết. Ta nhìn lên cao, Xương Văn và Xương Ngập đều đang cười nhìn về phía này, trong ánh nhìn không có gì kỳ lạ. Ta liếc về phía Đại Thiên, hắn đã rời khỏi chỗ ngồi, đang tiến về hướng này. Ta lấy muỗng múc một chiếc bánh to nhất, đưa lên miệng, cảm thấy mùi vị này quả nhiên hoàn hảo. Vài giây sau, muỗng bánh trôi trong tay ta rơi xuống, miệng nôn ra một ngụm máu, sau đó toàn thân ngã xuống đất. Hình ảnh cuối cùng nhìn thấy là vạt áo thiên thanh của Đại Thiên bay đến trước mặt, đôi tay hắn kịp đỡ lấy thi thể của Nam Hưng.
Mùa Xuân năm Quý Sửu, Ngô Nam Hưng bị trúng độc ngay trong bữa tiệc mừng ngày sinh, toàn bộ thái y được truyền đến đều không thể cứu chữa. Ngô Càn Hưng bị buộc tội đầu độc anh trai mình, nhất định không chịu nhận tội, bị giam vào đại lao và đã tự sát trong đó. Bi kịch bi thảm sớm bị chôn vùi theo thời gian.