Thuở xa xưa từ thời hồng hoang, trời và đất đang hòa làm một, vũ trụ chìm trong đêm đen, chỉ tồn tại hai loài Thần và Quỷ. Thần và Quỷ vốn sống bình yên, không liên quan đến thế giới của nhau.
Bấy giờ, các vị Thần cùng góp sức để tạo nên một thế gian nhiều màu sắc và có phần sinh động đỡ nhàm chán hơn. Mỗi vị Thần sẽ có một nhiệm vụ của riêng mình, tự đặt tên cho thứ mà mình sinh ra. Từ đó muôn loài mới bắt đầu xuất hiện. Thần Gió tạo ra gió, thần Mưa sinh ra mưa, thần Mây tạo ra mây, thần Cây tạo ra cây cối…
Nữ thần Mặt Trời vốn có nguồn sức mạnh lớn lao nên mang một nhiệm vụ đặc biệt là sinh ra ánh sáng cho muôn loài. Thần Mặt Trời làm tốt nhiệm vụ của mình, ánh sáng rạng rỡ có mặt ở khắp mọi nơi, chiếu sáng ngày này qua ngày khác. Nhưng điều đó lại gây ra sự bất lợi, các vị Thần trở nên ngày càng mệt mỏi, họ không thể nghỉ ngơi khi ánh sáng cứ rực rỡ tỏa ra xung quanh như vậy. Loài Quỷ cũng bắt đầu khó chịu và có ý kiến về thứ ánh sáng mà chúng không thể thích nghi đó. Thần Bóng Đêm liền có nhiệm vụ mới, tạo ra bóng đêm để thay phiên xen kẽ với ánh sáng của Mặt Trời. Từ đó vũ trụ sinh ra ngày và đêm. Và một cách tự nhiên nhất, nữ thần Mặt Trăng từ lâu đã say mê ngưỡng mộ thần Bóng Đêm lạnh lùng, bí ẩn. Nàng tạo ra mặt trăng để chiếu sáng trong bóng đêm, để cho người nàng thương không bị cô đơn mỗi khi các vị Thần đều đã nghỉ ngơi. Ánh trăng tròn hay khuyết, tỏ hay mờ đều phụ thuộc vào sức lực còn lại của thần Mặt Trăng sau một ngày làm việc mệt nhọc.
Bên cạnh đó, việc sinh ra các loài vật thật sự sống động và có linh hồn cũng là một trọng trách to lớn, các Thần đều phải góp sức tạo nên. Mỗi vị thêm thắt một ý tưởng, mọi nguồn tiên pháp tụ hội lại, đầy đủ các loài động vật lần lượt được tạo ra. Cây cối của thần Cây cũng được phát triển thêm phong phú và đa dạng hơn.
Bấy giờ Ngọc Hoàng là nam thần trẻ trung, sôi nổi, giỏi giang và có tài lãnh đạo nhất. Tất cả các vị Thần đều thống nhất chọn ra Ngọc Hoàng là người đứng đầu, chịu trách nhiệm theo sát và chỉ đạo mọi nhiệm vụ.
Khi tất cả các vị Thần đều đã làm tốt phần việc của mình, đang góp sức để hoàn thiện muôn loài dần trở nên tốt đẹp, sung túc hơn. Lúc này tới nhiệm vụ của nữ thần xinh đẹp Âu Cơ. Vị nữ thần tài giỏi và khéo léo ấy sẽ sinh ra loài người là loài đẹp đẽ nhất, hoàn thiện nhất, có trái tim, có cảm xúc, có tâm hồn. Nữ thần Âu Cơ đã chọn cách dùng chính cơ thể của mình để hoài thai, mang bầu và tự mình nuôi nấng con người. Nữ thần Âu Cơ kết hôn với người mà nàng yêu - thần Lạc Long Quân mạnh mẽ, anh dũng - trong sự chúc phúc của mọi người và sự tiếc nuối của không ít nam thần. Trong thời gian thần Âu Cơ mang thai, nàng không quên góp tay vào việc gây dựng muôn loài. Thần Lạc Long Quân thì vẫn miệt mài làm nhiệm vụ cùng với thần Nước và các vị Thần khác để tạo ra biển cả.
Thế giới các vị Thần tạo ra đẹp và hấp dẫn đến nỗi loài Quỷ đã bắt đầu dòm ngó và nổi lòng tham, muốn chiếm lĩnh nơi tràn đầy sinh lực đó.
Một vấn đề phát sinh thêm là khoảng không gian ngày càng trở nên chật hẹp, các vị Thần đều cảm thấy bức bối, không thoải mái. Sau khi bàn bạc lại đi đến thống nhất sẽ chia tách ra trời và đất, để cho muôn loài mới sinh ra được phát triển trong một không gian rộng lớn hơn. Tuy nhiên việc chia tách nói thì đơn giản nhưng lại cực kỳ phức tạp. Tất cả các vị Thần đều hợp nhất về một chỗ, tập trung dồn hết toàn bộ sinh lực và tiên pháp mà bản thân đang có để thực hiện sứ mệnh này. Ngọc Hoàng, Tây Vương Mẫu cùng một số vị thần được giao nhiệm vụ bảo vệ muôn loài vừa được sinh ra. Nữ thần Âu Cơ đang mang thai nên cũng được bảo vệ. Lạc Long Quân vốn dĩ nằm trong số đội quân bảo vệ, nhưng người anh hùng ấy đâu chịu ngồi yên, tình nguyện rời xa người vợ và những đứa con chưa kịp chào đời, tham gia vào nhóm Thần chia tách vũ trụ. Việc chia tách diễn ra năm này qua năm khác, bầu trời lúc nào cũng rền rĩ, ủ ê. Chỗ này rách nát, chỗ kia bị vùi dập, các vị Thần lại hớt hải kéo nhau đi vá. Đến khi sức cùng lực kiệt, việc phân chia đất trời cuối cùng cũng hoàn thành. Còn chưa kịp làm lễ ăn mừng, loài Quỷ đã lập tức thừa cơ kéo đến, hòng cướp lấy mọi thứ mà các vị Thần đã tạo ra. Lúc này phần lớn tiên pháp đã bị rút kiệt đi, các vị Thần chiến đấu rất kiên cường nhưng không thể thắng được đám Quỷ hung tợn đó. Đám Quỷ kéo đến vòng bảo vệ, cùng với đội quân do Ngọc Hoàng cầm đầu chiến đấu hàng năm trời, một sống hai chết. Nhóm bảo vệ hoàn thành được nhiệm vụ, giữ an nguy cho chúng sinh, lũ Quỷ bị đánh bại te tua chạy về địa bàn của chúng và không dám bén mảng đến nữa, tuy nhiên tổn thất đám Quỷ gây ra quá nặng nề, những vị Thần còn sống sót chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.
Âu Cơ khóc ngất đi bên đống cát bụi còn lại của các vị Thần đã hy sinh, trong đó có cả Lạc Long Quân chồng nàng, cha của các con nàng. Các linh hồn bị xé thành hàng ngàn hàng vạn mảnh, trôi nổi vô định trong không trung. Sau đó nữ thần Âu Cơ gạt đi nước mắt đau thương, sử dụng cơ trí và sự khéo léo của mình, trích ra một phần linh hồn, một phần trái tim và phần lớn tiên pháp còn sót lại để tạo ra ngọc Cầu Hồn.
Ngọc Cầu Hồn được sinh ra để tụ hội toàn bộ những phần linh hồn còn vương vất, trôi nổi ở khắp nơi về một chỗ. Lúc này Ngọc Hoàng, Tây Vương Mẫu và các vị Thần sống sót dốc hết phần sinh lực và tiên pháp còn sót lại để hồi sinh các vị Thần đã hy sinh. Phần linh hồn của Thần Lạc Long Quân cảm nhận được trái tim vợ mình nên tập trung được nhiều nhất, hồi sinh một cách kỳ diệu, mạnh mẽ và hoàn chỉnh trong sự mừng mừng tủi tủi của nữ Thần Âu Cơ. Một số vị Thần khác cũng đã sống lại hoàn thiện hoặc một phần. Lúc này các Thần lại cùng nhau dời mọi sinh vật vừa được tạo ra xuống đất và biển để sinh sống.
Nữ Thần Âu Cơ hạ sinh được trăm trứng, nở ra trăm con. Nàng và Thần Lạc Long Quân cùng nhau nuôi dạy loài người mọi thứ có thể dạy. Những cung bậc cảm xúc, tình yêu thương, hỉ nộ ái ố là những thứ ngày càng được hoàn thiện hơn. Việc sinh tử của loài người được Ngọc Hoàng giao phó cho Nam Tào, Bắc Đẩu cai quản.
Khi có quá nhiều việc phải quản lý mà số lượng các vị Thần còn lại không quán xuyến được, Đức Mẹ Âu Cơ nảy ra ý tưởng mọi vật đều có thể tu thành Tiên, nếu có đủ lòng tin tập trung đủ sinh lực và trải qua đủ kiếp nạn. Muốn tu thành Tiên đương nhiên cũng không phải chuyện đơn giản, phải trải qua tu luyện khổ sai, đầy đủ cấp bậc, vượt qua các kỳ thi. Đầu tiên là sơ tiên, trung tiên, thượng tiên, cuối cùng là cấp đại tiên. Sau đó lại có thể tiếp tục tu lên thành Thần, bao gồm các bậc sơ thần, thượng thần và cao nhất là đại thần, bỏ qua cấp trung. Cấp cao nhất đương nhiên sánh ngang hàng với các vị Thần thuở khai thiên lập địa, tuy nhiên chưa từng có vị Tiên nào có thể đạt đến cấp cao nhất này. Khi đó Tiên giới bắt đầu được hình thành, vạn vật đã đi vào quỹ đạo ổn định, các vị Thần giao lại nhiệm vụ trông nom dương gian cho các vị Tiên và lui về nghỉ ngơi.
Do không thích nghi về môi trường sống, Đức Mẹ Âu Cơ và Đức Cha Lạc Long Quân đành phải hai người chia ra hai ngả. Đức Mẹ được Ngọc Hoàng mời lên ngự tại cung xây riêng trên Thiên Đình. Lạc Long Quân trở về biển, nơi mà Người có thể thỏa sức vẫy vùng, không vướng bận điều gì.
Khi ta được Đức Mẹ Âu Cơ nhận làm con nuôi, thỉnh thoảng vẫn gặp Đức Cha Lạc Long Quân lên thăm Người. Thoạt nhìn thì Đức Cha là một người nghiêm khắc, nhưng lại rất vui vẻ và chiều chuộng ta. Người sảng khoái gọi ta một tiếng “con gái”, sau đó vỗ bịch bịch lên đầu khiến ta hoa cả mắt.
Sau này để cho Đức Mẹ thoải mái, Đức Cha xây riêng cho Người cung Âu Lạc cách Thiên Đình không xa. Ngày ta xách đồ theo Đức Mẹ dọn về cung mới, Bắc Đẩu và Nam Tào đứng xa xa nhìn theo, mắt ngân ngấn lệ làm ta muốn cười mà không dám cười. Hai bọn họ khóc cái khỉ khô gì chứ, không phải là ở rất gần nhau sao, muốn gặp lúc nào chả được.
Cung Âu Lạc này ta đã khám phá khắp nơi, trừ căn phòng xử án vừa nãy. Ta biết Ngọc Cầu Hồn luôn được Đức Mẹ để trong phòng ngủ của Người, nếu là cung nữ không thân thiết thì không thể ra vào nơi ấy. Ngọc Cầu Hồn có chứa một phần linh hồn và trái tim của Đức Mẹ Âu Cơ, nó có thể cầu được hồn vía từ khắp nơi quy về một chỗ, có thể cứu sống được mọi vật. Nếu Đức Mẹ và Ngọc Cầu Hồn cách xa nhau quá lâu, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của Người. Nếu Ngọc bị ai đó phá vỡ, ta không dám tưởng tượng tiếp…
Ta cũng biết Đức Mẹ thích nhất là đầm sen trắng ngay sau phòng của Người. Đầm sen được Đức Cha làm phép nở hoa suốt bốn mùa để cho Đức Mẹ ngày nào cũng có thể ngắm sen. Dùng bữa xong, ta và Đức Mẹ Âu Cơ ngồi thưởng trà bên đầm sen, thảnh thơi trò chuyện. Ta hỏi:
- Đức Mẹ, hôm nay con không nhìn thấy Đức Cha?
Đức Mẹ Âu Cơ đặt chén trà xuống bàn:
- Ông ấy còn bận đi tìm Ngọc Cầu Hồn.
Ta xót xa nhìn bàn tay gầy gộc xanh xao của Người, hẳn là Ngọc Cầu Hồn đã bị đánh cắp một thời gian không ngắn:
- Đức Mẹ, con tưởng Người vẫn luôn xác định được vị trí của hồn Ngọc.
Đức Mẹ Âu Cơ nhấp một ngụm trà rồi mỉm cười:
- Ta cũng có chút tuổi rồi, không còn được nhanh nhẹn như xưa nữa.
Ta nhìn ra đầm sen, nhìn những cánh hoa sen trắng muốt, tinh khôi rồi quay sang nhìn Đức Mẹ. Mái tóc đen mượt như nhung được bối tỉ mỉ và cài đan xen bằng trâm ngọc màu xanh biếc. Đường nét khuôn mặt thanh cao, tất cả đều toát lên vẻ thánh thiện, làn da trơn mịn hơn cả những cánh hoa sen. Chén trà đào trên tay ta bỗng trở nên đắng ngắt. Đức Mẹ à, nếu Người có chút tuổi mà đã khiến Hồ Ly con cảm thấy choáng váng như thế này, thì khi Người xuân xanh còn khiến trời đất đảo điên như thế nào nữa.
- Dạo gần đây con có gặp thằng bé Quang Ly không?
Câu hỏi của Đức Mẹ làm ta nhớ lại một chuyện liên quan đến “thằng bé” đã năm mươi ngàn xuân xanh đang khiến ta băn khoăn:
- Hôm trước đại huynh có ghé qua chỗ am Uyển con đang tu luyện.
- Ồ! - Đức Mẹ hơi ngạc nhiên sau đó im lặng một lúc rồi thở dài khẽ nói. - Duyên phận đúng là trêu ngươi người ta!
Ta chưa kịp hiểu gì thì Đức Mẹ lại nói tiếp:
- Nếu con gặp Quang Ly, nhắn với nó lời của ta: “Đừng cố chấp tìm kiếm nữa, đến lúc buông bỏ được rồi!”
- Dạ, Đức Mẹ! - Ta cung kính đáp mà lòng thắc mắc vô vàn điều.
Không để ta kịp suy nghĩ, Đức Mẹ Âu Cơ lại nói:
- Thiên con, cũng nên về sớm đi thôi, kẻo có người lại chờ lâu.
- Dạ, Đức Mẹ! Con xin phép!
Ta hành lễ chào từ biệt Đức Mẹ sau đó rảo bước rời khỏi cung Âu Lạc, lòng tự nhủ hẳn là Minh Sương đang chờ.
Không ngờ lại là Phượng Điểu Hoàng Niên, ta trợn mắt nhìn khuôn mặt hoàn mỹ phía trước:
- Sơ thần vẫn chưa xong việc ở cung Âu Lạc sao?
Hoàng Niên từ tốn đáp:
- Ta đang chờ nàng!
- Chờ ta? Sơ thần có chuyện gì cần chỉ bảo, xin cứ nói!
- Ta đưa nàng về.
Ta chưa kịp định thần thì Hoàng Niên đã gọi mây kéo cả ta và hắn bay lên, hướng về phía am Uyển. Ta yên lặng ngó nghiêng ngắm mây xung quanh, không dám nhìn về phía hắn, sợ tâm hồn bị xáo trộn. Hoàng Niên cảm nhận được sự lạnh nhạt của ta, khẽ nói:
- Nàng quả thực đã quên mất ta!
Ta vội quay sang hắn, thấy đôi mắt phượng đang đau lòng nhìn ta, tim đánh thịch một cái:
- Ta và ngài đúng là chưa từng gặp nhau. Nếu đã gặp thì làm sao ta quên được!
Đúng, nếu đã gặp, làm sao ta quên được đôi mắt sâu thăm thẳm như nhìn thấu hết tâm can người khác kia, đôi mày sắc nét hơi cau lại mà cũng đẹp đến mê hồn, chưa kể đến chiếc mũi cao cao hơi hếch lên hoàn mỹ, cặp môi… Ta đang nghĩ cái gì thế này?... Nếu có Minh Sương ở đây, nàng ta sẽ tha hồ mà mắng mỏ về cái tội háo sắc của ta mất. Ta lập tức quay đi vừa ngắm cảnh xung quanh vừa nói:
- Huynh ba kể ta từng có khoảng thời gian bị trúng kịch độc nên trí nhớ có một chút vấn đề, chuyện nhớ chuyện quên. Có khi ta đã quên mất cái lần chúng ta gặp nhau. Không biết lần đó… E… hèm… Ta có mất kiểm soát làm gì mạo phạm… đến ngài…
Hoàng Niên hình như không chú ý đến câu lảm nhảm phía sau của ta, cặp mày của hắn hằn sâu hơn, hắn nói:
- Hai chúng ta không phải chỉ mới gặp nhau một vài lần. Hai chúng ta… đã từng có hôn ước…
Ta loạng choạng, suýt nữa thì ngã lộn cổ xuống cánh rừng đỗ quyên vàng bên dưới. May mà Hoàng Niên nhanh nhẹn kéo mây đón lấy thể xác ta, còn linh hồn ta dường như đã lạc mất đâu đó giữa rừng hoa.
Hoàng Niên kéo ta hạ xuống một khoảng rừng trống, xung quanh rải đầy sắc vàng của cánh hoa đỗ quyên. Hắn nói rất nhiều, tất cả đều khiến ta mơ mơ hồ hồ không rõ nghĩa. Hắn nói:
- Nàng đã chạy trốn ta bảy nghìn năm, ta cũng trọn bảy nghìn năm tìm kiếm nàng. Chúng ta đừng chơi trò trốn tìm nữa được không? Hãy nghĩ đến lời “thề ước Đỗ Quyên” năm xưa.
Mỹ nam à, ta không rõ tuổi tác ngươi ra sao nhưng ta quả thực đã hết tuổi chơi trò trốn tìm từ lâu rồi. Ta cũng không biết gì về “thề ước Đỗ Quyên” mà ngươi vừa nhắc đến, có phải ngươi tìm nhầm người rồi không? Tiểu Thiên trên đời này nhiều lắm, gia tộc hồ ly bọn ta cũng không thiếu Hồ Thiên Ly. Nhất định là vị sơ thần tuấn tú này tìm nhầm người rồi.
Mặc kệ vẻ ngơ ngác của ta, hắn lại nói tiếp:
- Nếu quả thật nàng đã quên, ta sẽ làm cho nàng nhớ lại. Nhớ lại ta, Phượng Điểu Hoàng Niên, chính là vị hôn phu đã cùng nàng lập lời “thề ước Đỗ Quyên” mười năm trước.
Một cơn gió xuân thổi đến, thổi tung những cánh hoa đỗ quyên đã tàn trên cành rơi xuống, cơn mưa màu vàng bay lả tả xung quanh dáng người thanh tao của Hoàng Niên. Ta nhìn vào cặp mắt ngời sáng quật cường của hắn, nhìn những cánh hoa vương trên mái tóc nửa buộc nửa buông hững hờ trên vai hắn, lòng dấy lên cảm xúc khó tả. Được rồi, ta cũng sẽ cố gắng hết sức để nhớ ra vị hôn phu này…
P/s: Xin lỗi vì sự chậm trễ, mong là mọi người vẫn chưa quên mạch truyện :D
Ta tỉnh dậy ở giường Hàn Băng của Nam Tào, hàn khí tỏa ra ngùn ngụt, ngấm vào tận tim, chỉ thấy lòng lạnh ngắt. Nam Tào đang lúi húi truyền lại tiên pháp cho ta, không thấy bóng dáng Bắc Đẩu đâu. Nam Tào hình như có việc gì bận, ta cũng không muốn hỏi tội hay hàn huyên với hắn. Cả hai chào nhau rồi gọi mây bay đi.
Ta từ Thiên Đình bay về núi Bạch Vân Sơn, trong lòng tràn ngập vô vàn điều tiếc nuối, chẳng còn tâm trạng để ngắm nhìn lớp lớp đỗ quyên vàng rực trước mắt. Dừng lại ở cửa am Uyển, nhìn thấy một bóng dáng cao cao thanh thanh trong đình, ta thoáng ngạc nhiên, không ngờ vị khách đó vẫn còn chờ sư phụ ta sau bấy nhiêu ngày. Lần trước vội vàng nên thất lễ, ta nghĩ lần này cũng nên chào hỏi qua một tiếng, liền tiến bước về phía đình. Người đó quay lại, nhìn thấy ta, mắt phượng sáng lên, miệng cười như có như không, vẻ tuấn lãng còn hơn cả trong trí nhớ. Sau một thoáng choáng váng, ta lại chuyến sang sửng sốt, chỉ có vẻ ngoài khác đi, khí chất này, cốt cách này, chẳng lẽ lại là…
- Đại Thiên?
Người đó cười:
- Tiểu Thiên, nàng nhận ra ta sao?
“Tiểu Thiên… Đại Thiên…” Hai cái tên này…
- Xin sơ thần thứ lỗi, chẳng lẽ chúng ta có quen biết nhau?
- Không quen biết! - Đại Thiên hơi nhíu mày, đáy mắt ánh lên vẻ đau lòng sau đó biến mất ngay. - Mà phải nói là cực kỳ thân thiết. Tên thật của ta là Phượng Điểu Hoàng Niên, còn gọi là Hoàng Niên.
Hoàng Niên? Phượng Điểu Hoàng Niên? Ta không có ấn tượng! Nếu đã từng gặp qua một mỹ nam như thế này, đương nhiên ta sẽ phải nhớ rõ. Đang định hỏi thêm mấy câu thì nhìn thấy Đào từ trong dãy nhà hớt hải chạy ra.
- Thiên Ly, người đã về! Minh Sương gặp chuyện rồi.
Nói đến đây nước mắt nàng ta bỗng rơi lã chã khiến ta có chút hoảng hốt:
- Minh Sương có chuyện gì? Đào, ngươi bình tĩnh nói cho ta nghe!
Đào hít một hơi thật sâu sau đó kể lể qua hàng nước mắt:
- Người đi được một hôm thì Trà Ngạn My trở về. Nàng ta nhìn thấy Lệ Kim liền nhận ra cô ta chính là cung nữ đã đánh cắp ngọc Cầu Hồn ở cung Đức Mẹ Âu Cơ, đang bị Thiên Đình truy đuổi gắt gao. Mấy người bọn họ lập tức đi báo cho quan quân, Minh Sương một mực nhận trách nhiệm trong việc đưa cô ta về am Uyển. Hôm qua người ta đã đến và đưa cả Lệ Kim lẫn Minh Sương về cung Đức Mẹ rồi. Những học viên khác cũng đều kéo đến đó. Thiên Ly, người mau mau đi cứu Minh Sương.
Nghe nhắc đến Đức Mẹ Âu Cơ, lòng ta có chút bình tĩnh trở lại, tuy nhiên giọng vẫn đầy gấp gáp:
- Sư phụ thì sao? Có ai báo cho sư phụ chưa?
Đào mếu máo:
- Thượng thần Uyển Khuyên nói chờ Hồ Thiên Ly trở về, người sẽ tự có cách.
Ta khẽ thở dài sau đó dặn dò Đào:
- Được rồi, ngươi cứ ở nhà đừng lo lắng, ta sẽ đi giải quyết việc này.
Sau đó quay người gọi mây thì bắt gặp ánh mắt của Đại Thiên, à phải nói là Hoàng Niên mới đúng, suýt nữa thì quên mất hắn. Ta đang định cất lời cáo biệt thì thấy hắn cũng làm phép gọi mây, chắc hẳn thấy ta có việc bận nên hắn vội đi ngay. Ta đang lo lắng cho Minh Sương nên không để tâm đến hắn nữa. Vội vàng bay một mạch đến cung Âu Lạc của Đức Mẹ Âu Cơ.
Đức Mẹ Âu Cơ vốn là nữ thần sinh ra trăm trứng nở ra trăm con, là Đức Mẹ của loài người. Đức Mẹ bản tính hiền lương, nhân hậu, luôn bao bọc, chăm nom cho không chỉ loài người mà cả muôn loài trên thế gian. Vậy nên muôn loài bọn ta đều cung kính gọi người một tiếng Đức Mẹ. Nếu là ở cung Âu Lạc thì ta biết Minh Sương tuyệt đối không tổn hại gì, chỉ sợ nàng ta vốn tính bướng bỉnh nên sẽ bị các nữ quan ở đó gây khó dễ.
Mải suy nghĩ, ta không để ý đến một đạo thân ảnh đang mải miết bay theo mình. Lúc nhận ra quay lại thì nhìn thấy tà áo trắng phất phơ trong gió, mái tóc hững hờ nửa buộc nửa không cũng tung bay. Màu trắng tuyệt mỹ nổi bật giữa cánh rừng đỗ quyên vàng bên dưới. Tim ta đánh rơi mất một nhịp, rơi xuống và biến mất giữa những cánh hoa vàng mượt dưới kia. Không ngờ Hoàng Niên hắn lại đi theo ta.
Ta và Hoàng Niên đáp xuống trước cổng cung Âu Lạc, hai vị trung tiên giữ cửa lạ mặt, ta không quen. Hai người họ chặn bọn ta lại, cất giọng nghiêm khắc:
- Cảm phiền hai vị thần tiên! Nếu không có lệnh của nữ thần Âu Cơ, hai người sẽ không được vào cung.
Ta tìm kiếm ở thắt lưng và hoảng hốt nhận ra lúc nãy vội quá đã không kịp lấy ngọc bội luôn mang theo bên người. Bây giờ mà quay lại am Uyển thì quả là mất công. Ta cắn cắn môi đánh mắt sang phía Hoàng Niên. Hắn thấy ta nhìn hắn liền hành lễ nói với hai vị nữ quan giữ cửa kia:
- Chúng ta đến đây quả thật vì việc gấp, liên quan đến vụ án ngọc Cầu Hồn, làm phiền hai vị có thể vào trong thông báo một tiếng hay không?
Hai người kia nhìn nhau rồi một người hành lễ lại với Hoàng Niên:
- Sơ thần trách tội, hai chúng tôi không thể rời khỏi vị trí của mình. Nếu việc của hai vị là quan trọng, nữ thần sẽ sớm cho người ra đón các vị.
Vừa lúc đó sau lưng ta vang lên một tiếng gọi:
- Thiên Ly!
Ta quay lại, vui mừng nhận ra đó là nữ quan chuyên lo việc nấu ăn cho Đức Mẹ. Ta vội chạy lại đỡ lấy giỏ đồ trong tay bà:
- Bà Xiêm, lâu lắm rồi con không gặp bà!
Bà Xiêm gốc vốn là cây hồng xiêm, đã nấu ăn cho Đức Mẹ từ thuở ban đầu còn ở bên Thiên Đình cho đến khi người dọn qua cung riêng này. Bà Xiêm cười với ta:
- Con bé này, lại quên ngọc Lạc Hồng phải không? - Rồi quay sang mắng hai nữ quan giữ cửa. - Hai người các ngươi gây khó dễ với con bé, chuẩn bị mà nghe nữ thần trách phạt đi!
Ta cùng Hoàng Niên theo bà Xiêm bước vào cung Âu Lạc trước sự ngơ ngác của hai nữ quan kia.
Bà Xiêm dẫn ta và Hoàng Niên đến nơi xử phạt sau đó vội đi ngay để kịp chuẩn bị bữa trưa cho Đức Mẹ.
Người gác cửa phòng nhìn thấy ta và Hoàng Niên, lạnh lùng nói:
- Cảm phiền hai vị thần tiên! Đây là chỗ xử án, nếu không có lệnh của đại nữ quan Mạc Liễu, hai vị không thể tự tiện ra vào.
Ta hành lễ rồi nhẹ nhàng nói:
- Làm phiền nữ quan có thể vào thông báo cho đại nữ quan rằng ta, Hồ Thiên Ly mới chính là người đã gặp và đưa cô nương Lệ Kim đó về am Uyển, không liên quan đến Uyển Minh Sương.
Nữ quan đó nhìn ta và Hoàng Niên đánh giá sau đó gật đầu:
- Hai vị thần tiên xin chờ một lát!
Một lúc sau, nữ quan đó ra và dặn ta chỉ nên đứng yên lặng đón xem xử án, sau khi đại nữ quan hỏi đến tên mới được lên tiếng. Ta gật đầu hiểu ý, sau đó cùng Hoàng Niên bước vào.
Chúng ta tiến vào phòng xử phạt, nhìn thấy cô gái tên Lệ Kim và Minh Sương đang bị vây giữa các nữ quan và đám bạn học của ta. Các nữ quan đứng ở trên bậc đá cao nhất nhìn xuống, đang nghiêm khắc nêu lên các câu hỏi cho hai người kia. Ta chen vào giữa Trà Ngạn My và Báo Hồng Hoa, đứng ở các bậc đá thấp hơn một chút, nhìn xuống Minh Sương lọt thỏm ở giữa vòng, dù nàng ta rất kiên cường nhưng rơi vào thế bị bao vây này cũng sẽ gặp không ít hoang mang. Báo Hồng Hoa nhìn thấy ta vội nói nhỏ:
- Thiên Ly, ngươi được lắm, không hiểu ngươi cho Minh Sương cái gì mà nàng ta một mực nhận hết tội cho ngươi.
Ta lạnh lùng nhìn Báo Hồng Hoa nhưng không thèm nói gì. Mãng Thanh Xà cũng lên tiếng thầm thì:
- Lần này dù cho sư phụ có tha cho ngươi thì Đức Mẹ Âu Cơ nổi tiếng nghiêm khắc cũng sẽ trách phạt ngươi rất nặng. Cứ chờ đi!
Lúc này mấy người kia lại mỗi người lao xao một câu:
- Sư phụ lần này cũng không thèm đếm xỉa đến ngươi nữa, xem ra người cũng chán nản vì ngươi lắm rồi.
- Đương nhiên, vì Thiên Ly mà con gái cưng Minh Sương của người bị hàm oan cơ mà…
Ta không để ý đến mấy người đó, chăm chú theo dõi việc xử án. Một người mặc đồ nữ tướng, khuôn mặt chữ điền, mắt sáng quắc, tướng tá cao to, ta đoán là đại nữ quan Mạc Liễu, đang hỏi Minh Sương:
- Uyển Minh Sương, ta cho ngươi thêm một cơ hội nữa, trả lời thành thật cho ta biết. Ngươi có liên quan gì đến Lệ Kim hay không?
- Thưa nữ quan, Minh Sương chỉ là người vô tình gặp Lệ Kim bất tỉnh ngoài rừng và cứu cô nương đó về am của sư phụ, tuyệt đối không biết cô ta là người ăn trộm ngọc Cầu Hồn của Đức Mẹ Âu Cơ.
- Ngươi nói ngươi đã đưa Lệ Kim về am Uyển? Vậy tại sao một người khác cũng tự nhận đã gặp và cứu cô ta?
Minh Sương có chút bất ngờ, nàng ta cắn môi nhìn xung quanh:
- Việc này…
Đại nữ quan Mạc Liễu dõng dạc lên tiếng:
- Ai là Hồ Thiên Ly, xin mời bước xuống!
Ta thong dong thoát ra khỏi đám đông, bước xuống những bậc đá, tiến về phía Minh Sương, ném cho nàng ta một ánh nhìn trấn an, sau đó hành lễ với các nữ quan:
- Thượng tiên Hồ Thiên Ly bái kiến các nữ quan!
Tầm năm, sáu nữ quan xử án đang đứng trên bậc cao nhìn xuống phía ta. Đứng ở dưới này, quả thật có cảm giác bản thân trở nên nhỏ bé một cách kỳ lạ. Trước đây ta chưa từng ghé qua phòng xử phạt, thì ra cung Âu Lạc còn có một nơi mới mẻ như vậy. Một vị nữ quan hỏi ta:
- Hồ Thiên Ly, ngươi tự nhận mình là người cứu Lệ Kim. Vậy cũng tức là ngươi tự nhận mình cùng một phe với cô ta?
- Thưa nữ quan, Thiên Ly trên đường từ miếu Đồng trở về am Uyển thì gặp Lệ Kim đang nguy kịch đến tính mạng bất tỉnh giữa đường. Thiên Ly động lòng trắc ẩn nên đã mang cô ta về am Uyển chữa trị, quả thật không hề biết đó là người đang bị Thiên Đình truy đuổi.
- Hỏi qua hỏi lại, chi bằng hỏi chính người đã gây án. - Mạc Liễu lên tiếng. - Lệ Kim, ngươi hãy thành thật khai ra, trong hai người trước mặt ngươi, có ai là kẻ đồng mưu về tội ăn cắp ngọc Cầu Hồn hay không?
Ta nhìn về phía người im lặng từ đầu buổi đến bây giờ. Cô nương Lệ Kim đó không khóc lóc hốt hoảng kêu oan, cũng không mở lời nói đỡ cho Minh Sương một tiếng, chỉ bình thản đứng yên ở đó. Phòng xử án được thắp bằng hàng ngàn ngọn nến ở trên cao, ánh nến vàng rực hắt xuống, soi rõ bóng Lệ Kim trên nền nhà. Cô ta đang nhìn về phía này, mái tóc màu nâu thường ngày bối lên cẩn thận, giờ đây xõa tung ra, che khuất khuôn mặt và cặp mắt to xanh biếc. Cô ta nói, giọng điệu có gì đó lạnh tanh:
- Có một người liên quan.
Ta và Minh Sương ngạc nhiên nhìn nhau, tiếng lao xao xung quanh lớn dần lên. Một nữ quan quát hỏi:
- Là ai?
Lệ Kim giơ một ngón tay mảnh khảnh, chỉ về phía này, giọng thản nhiên:
- Là cô ta, Hồ Thiên Ly!
- Nói dối! - Minh Sương hét lên át giọng cô ta. - Thiên Ly làm sao có thể liên quan đến ngươi!
- Uyển Minh Sương, giữ yên lặng! - Một nữ quan nghiêm khắc nhắc nhở.
Minh Sương nói, giọng điệu có chút ghê tởm:
- Thưa các vị nữ quan, cô ta đang điêu ngoa đổ tội cho chính vị ân nhân đã cứu mạng mình.
- Ngươi có thể chứng minh là Hồ Thiên Ly bị oan không? - Mạc Liễu lên tiếng.
- Việc này… - Minh Sương cắn môi nhìn sang ta.
Ta bình tĩnh nói:
- Thiên Ly nhận nhiệm vụ canh giữ ở miếu Đồng, suốt một tuần lễ chỉ gặp đúng hai người, cô nương Lệ Kim đây và một nhà sư dưới dương gian tên là Ngô Chân Lưu. Quả thực không ai có thể đứng ra làm chứng cho Thiên Ly cả.
Tiếng xì xào lại nổi lên rõ hơn, Minh Sương giương ánh mắt đau lòng lẫn bất lực nhìn ta. Các nữ quan dường như đang thảo luận với nhau. Một lúc sau, Mạc Liễu nhìn xuống, nghiêm khắc nói:
- Nhà sư dưới dương gian chỉ là người trần mắt thịt, không thể làm chứng cho ngươi về việc có cùng với Lệ Kim lập mưu trộm ngọc Cầu Hồn hay không. Chính miệng người gây án đã khai ra tên của ngươi, hai người sẽ tạm thời bị giam lại, chờ chúng ta tiếp tục xem xét…
- Ta có thể làm chứng cho con bé!
Một giọng nói trầm ấm và dịu dàng vang lên, trong lòng ta trào dâng sự ấm áp quen thuộc. Mọi người nhất loạt cúi đầu hành lễ:
- Nữ thần Âu Cơ!
Đức Mẹ mỉm cười nhẹ nhàng nói:
- Được rồi!
Người nhìn ta, vẫn giữ nguyên nụ cười, sau đó quay sang Lệ Kim, ánh mắt thoắt trở nên nghiêm khắc:
- Tội ăn cắp đương nhiên sẽ bị xử phạt, nhưng không thể dung tha nhất vẫn là tội nói dối. Ta cho ngươi thêm một cơ hội để thành thật.
Lệ Kim đã sợ hãi ngay từ khi nhìn thấy Đức Mẹ bước vào, giờ đây hai chân dường như không thể đứng vững nữa, vội vàng quỳ xuống, thành khẩn nói:
- Nữ thần tha tội! Việc ăn cắp ngọc Cầu Hồn từ đầu đến cuối quả thật chỉ có một mình tiểu nữ ra tay, hoàn toàn không có ai giúp đỡ.
Đức Mẹ nhìn sang Mạc Liễu:
- Thể theo luật để luận tội!
Mạc Liễu cung kính nói:
- Dạ nữ thần, chúng quan đã rõ!
Đức Mẹ lại quay xuống phía ta, ân cần nói:
- Thiên con, ở lại dùng bữa trưa với ta.
Ta vui vẻ nói:
- Dạ, Đức Mẹ!
Ta nhìn về phía Lệ Kim đang quỳ dưới đất, khẽ thắc mắc:
- Tại sao lại đổ oan cho ta?
Cô ta ngước lên, nhìn thẳng vào ta, đáy mắt có bao nhiêu lạnh lùng, giọng nói có bấy nhiêu băng giá:
- Bởi vì ngươi là em gái của Hồ Quang Ly.
Ta không có thời gian để hỏi thêm, vội vàng đi theo Đức Mẹ Âu Cơ rời khỏi phòng xử phạt với một mớ ngổn ngang trong lòng. Lúc ngang qua Hoàng Niên, Đức Mẹ đột nhiên dừng lại nhưng không nói gì, sau đó người lại cất bước đi ngay. Ta chào từ biệt hắn, dù sao cũng đã có lòng tốt theo ta lên đến tận đây.
Ta từ nhỏ đã mang thể trạng yếu ớt, cha mẹ vất vả nuôi ta đến khi năm ngàn tuổi, ta bị một cơn bạo bệnh, da dẻ bỗng dưng trở nên lở loét, khắp người đều mưng mủ, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Lúc đó cha ta nghe người ta mách rằng chỉ có nước ở hồ Thiên Nhiên trong cung của Đức Mẹ Âu Cơ mới có thể chữa khỏi bệnh cho ta. Cha mẹ liền mặt dày đưa ta lên Thiên Đình, cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ. Không ngờ nữ thần vừa nhìn thấy ta đã mang lòng yêu thương, liền nhận ta làm con nuôi. Sau đó ta ở tại cung của người năm ngàn năm, cho đến khi thể trạng trở nên hoàn toàn khỏe mạnh. Từ lúc người đang ở trong cung của Thiên Đình cho đến khi chuyển ra cung Âu Cơ, chứng kiến biết bao thăng trầm buồn vui của vị nữ thần được muôn loài kính trọng ấy. Nhớ lại cũng lâu rồi ta không dành thời gian lên đây thăm người, quả là đứa con bất hiếu.