Đó là một ký ức khó quên suốt đời Quỳnh, nó kết lắng lại trong dòng sông thời gian hối hả, như những viên kim cương nho nhỏ. Khi Quỳnh đi xuyên dưới màn đêm, chúng là những ngôi sao trên bầu trời đi cùng cô trên đường.
Quỳnh nhớ xe lửa chạy như bay không ngừng trên đường từ Côn Minh đi Đại Lý.
Quỳnh nhớ những người nước ngoài trong những cửa hàng bán băng đĩa nhỏ bên đường và những cô gái bán đĩa e thẹn.
Quỳnh nhớ căn phòng nhỏ với tiếng sóng hồ Nhĩ Hải rì rào và chỗ bán cá nướng.
Quỳnh nhớ quán bar ở Tây Tạng có trà sữa và người phụ nữ bán hoa dành dành.
Quỳnh nhớ một đêm ở Lệ Giang, họ uống loại rượu thơm tên là Lệ Giang Tiểu Thiếp.
Quỳnh nhớ cảm giác say mê của âm nhạc Budha và hình ảnh đức Phật to lớn, trầm tĩnh trên đĩa.
Quỳnh nhớ họ đã mua hình nộm bằng gỗ, một đôi vợ chồng mặc trang phục dân tộc Nạp Tây.
Quỳnh nhớ Trầm Hoà mua tặng cô đôi hài cỏ đan bằng tay của bà lão người Nạp Tây, trên giày có đính đồng tiền đồng khắc hình chữ Phúc.
Quỳnh nhớ bếp lửa trong quán rượu nhỏ, họ uống rượu rồi tựa vào nhau ngủ thiếp đi.
Quỳnh nhớ quán rượu có ban nhạc, họ đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cô khi hát bài “Ánh trăng tình em”, và người đàn ông của cô đã hát bên tai cô.
Quỳnh nhớ bảng thông báo của nhà trọ, có những mẩu thông tin tìm người đồng hành.
Quỳnh nhớ họ đã mua tấm bản đồ vẽ tay và cuốn vở làm từ giấy tái sinh trong một hiệu sách.
Quỳnh còn nhớ...
Quỳnh rất khó tưởng tượng ra, nếu thời gian đó Trầm Hoà không đưa cô đi, cô sẽ chìm sâu tới mức độ nào - thần kinh suy nhược, mắt mũi lờ đờ, suốt ngày phải dựa dẫm vào những viên thuốc trắng nhỏ.v.v...
Họ ngồi máy bay tới Côn Minh, đi tiếp tàu hoả tới Đại Lý. Trên tàu đi Đại Lý, Trầm Hoà ôm lấy Quỳnh, nhẹ nhàng nói với Quỳnh: “Đến Đại Lý, cuộc sống sẽ trở nên rất giản dị, mỗi ngày mình sẽ đều được nghe nhạc, được ngủ, được đi dạo. Mình có thể mở quán rượu hoặc quầy sách nhỏ ở đó“. Trầm Hoà vừa nghĩ vừa cười. Anh hỏi: “Em thấy mình nên mở hiệu gì?“.
Quỳnh nói: “Mở tất, ban ngày ở trong hiệu sách, buổi tối ở quán rượu“.
Trầm Hoà cười:
“Không được, em đi đến đó để tắm nắng, không được suốt ngày ở trong nhà“.
Quỳnh khi đó đang sốt, nhưng cô cảm thấy mình đã hoàn toàn tỉnh trí. Cô rất mệt, thèm ngủ. trước khi ngủ, cô nói lí nhí: “Em cảm thấy mình như một đôi vợ chồng trẻ đang bỏ trốn“.
Chuyến tàu đó chạy một ngày một đêm, dọc đường là những ga nhỏ dường như không tên. Toa tàu cũ kỹ, tối tăm, bốn bề hết sức yên tĩnh. Hai người nằm chật trên giường nằm tầng một. Nửa đêm Quỳnh tỉnh dậy, vén rèm cửa sổ. Ánh trăng ùa vào đầy khoang, phủ lên mặt Trầm Hoà. Cô nhìn thấy từng nốt ruồi, từng nếp nhăn và cả rãnh sâu ở cằm. Cả vết sẹo lõm dài chừng hai xăng ti mét bên phải khuôn mặt anh. Quỳnh thò tay vuốt nhẹ vết sẹo, ánh trăng cũng như chuyển động theo cô, dịu dàng như muốn lấp đầy vết sẹo.
Trầm Hoà ôm lấy cô, thủ thỉ rằng đó là huy chương kỷ niệm một lần đánh nhau với bạn hồi nhỏ. Anh nói, tất cả đều sẽ bình phục, vết thương lòng cũng như vết thương da thịt đều thế, và đều trở thành những tấm huy chương kỷ niệm. “Khi em được ban tặng cho một tấm huy chương, em sẽ trở nên can đảm hơn, dạn dày hơn, tự hào hơn“.
Quỳnh thở dài, chỉ vào ngực mình: “Ở đây em đã có rất nhiều huy chương kỷ niệm“.
Trầm Hoà xoa đầu cô, nói: “Vì vậy em là một Quỳnh rất cừ khôi“.
Quỳnh lại sờ lên vết sẹo của Trầm Hoà, thầm nghĩ, đúng rồi, chúng sẽ trở thành những vết sẹo lồi hoặc lõm. Cũng như trái đất không khóc lóc vì những dải núi hoặc đại dương, chúng ta cũng không cần phải khóc lóc vì những vệt lồi hoặc lõm kia.
Trầm Hoà nhìn ra ngoài cửa sổ nói với Quỳnh, “Tàu hoả rất ghê gớm, em có thấy thế không?“.
“Ghê gớm gì?” Quỳnh ngơ ngác.
Trầm Hoà không trả lời ngay, anh kéo Quỳnh ra ngồi ở hàng ghế nhỏ bên lối đi dọc toa tàu. Anh chỉ cho Quỳnh xem đường ray rồi nói: “em biết không, hồi nhỏ có thời gian anh ở nhà bà ngoại ở quê. Ở đó rất gần đường tàu, bọn anh hay ra đường tàu chơi. Em có biết cách làm đồ chơi từ mấy cái đinh sắt nhỏ và dài không?“.
Quỳnh lắc đầu. Trầm Hoà kể tiếp: “Bọn anh đặt một chiếc đinh sắt lên đường ray, rồi tránh ra xa. Khi tàu hoả hú còi chạy qua xong, bọn anh đến gần đường ray nhặt chiếc đinh đó lên. Nó đã bị cán dẹp lép mà còn sáng bóng nữa, hình một thanh bảo kiếm. Đó là thứ con trai bọn anh thích nhất. Em thấy tàu hoả có ghê gớm không“.
Quỳnh tưởng tượng ra hình thanh kiếm bé tẹo còng queo nên bật cười, gục gặc đầu: “ghê thật“.
Nhưng Trầm Hoà vẫn nói nghiêm chỉnh: “Nhưng vẫn còn một thứ ghê hơn tàu hoả nữa. Đó là thời gian. Thời gian vụt qua, mọi thứ đều trở nên bằng phẳng và trơn tru“.
“Lại là một tấm huy chương kỷ niệm!” Quỳnh tiếp lời.
“Ừ, một huy chương“.
“Nhà” của hai người ở Đại Lý là một căn phòng nhỏ trên tầng hai của một nhà khách. Trong phòng ẩm ướt, bị dột lúc mưa. Nhưng bù lại phía trước có một ban công rất lớn trồng đầy hoa. Ánh sáng trong phòng tương đối đầy đủ, hơn nữa còn có một gian bếp riêng, bếp và quạt hút gió đều bé xinh xinh như trò chơi gia đình. Quỳnh và Trầm Hoà ngày nào cũng ngủ đến gần trưa, sau đó tắm gội. Cũng chẳng cần sấy tóc, chỉ lau qua loa xong là có thể dạo bước trên con đường Hộ Quốc nổi tiếng. Hai người đều mặc quần áo giản dị bằng vải thô, rộng rãi, thoải mái. Quỳnh kẹp tóc lên, dùng nồi to vo gạo nấu cháo. Rồi cô gọi cô bé gánh trái cây bán dạo, mua một chùm khế mọng nước, dùng váy bọc lấy chúng. Họ vừa ăn vừa lắc lư nghe nhạc. Chiếc ti vi cũ 21 inches rất “xập xệ”, mỗi lần trời mưa là chẳng xem thấy gì nữa.
Trầm Hoà và Quỳnh hoà nhập với những người thanh niên ở đó rất nhanh chóng. Mọi người đều thích họ, bởi vì hai người biết nhiều, từng trải, có những câu chuyện họ chưa từng nghe, từng thấy. Hai người lại rất rộng rãi, thường lấy đồ ăn và tiền chi bọn trẻ con nhà nông. Mọi người coi họ như thành viên của cả đại gia đình, rủ họ tham gia mọi hoạt động. Quỳnh vẫn chưa khoẻ hẳn, cô rất vui vẻ đứng xem bên ngoài. Quỳnh thích xem Trầm Hoà đá bóng với bọn họ. Trời đất bao la, khiến người ta muốn hò hét cho thoả thích. Khi trời tối, mọi người lén đi hái trộm đào trong các vườn, dù ở nhà đã mua đào rồi. Chỉ vì thích thú cảm giác hồi hộp đó. Thực ra cũng chỉ hái vài trái tượng trưng mà thôi, nhưng cũng vội vàng tháo chạy như những tên đạo chích thật sự
Về sau hai người đến Lệ Giang, ngồi nghe đàn hát ở trong quán bar. Quỳnh ghi lưu niệm trên sổ của nhà quán, nhưng không cho Trầm Hoà xem. Quỳnh viết: Cảnh đẹp buổi sớm. Khi đó Quỳnh nghĩ nếu nhiều năm sau Trầm Hoà quay lại đây, đọc được điều cô viết trong này, nhất định sẽ xúc động vô cùng...
Họ phóng sinh cá vàng bên sông Lệ Giang. Trời ngả tối. Thiếu nữ mặc trang phục Nạp Tây đứng bên chiếc thùng gỗ đựng đầy cá chép vàng. Tay cô cầm ngọn nến hình hoa. Trầm Hoà đưa tiền cho cô gái, cô bèn vớt hai chú cá từ trong thùng ra, tay kia xách nến dẫn Trầm Hoà và Quỳnh đi ra bờ sông.
Hai người cúi xuống nhìn nhau mỉm cười rồi nhắm mắt cầu ước. Sau đó họ thả hai chú cá vàng rực xuống sông. Thoắt một cái, chúng đã bơi đi. Dưới ánh sáng le lói của ngọn nến, chỉ thấy hai chú cá ve vẩy chiếc đuôi vàng, bơi song song xa dần rồi mất hút.
Đêm Lệ Giang náo nhiệt lời ca điệu múa, giống như đất Giang Nam khi xưa, đâu đâu cũng rực rỡ những chiếc đèn hồng. Họ ngồi uống rượu bên dòng sông nước trôi rì rào. Ánh lửa, ánh đèn ấm áp khiến họ chìm dần vào giấc ngủ mơ màng. Trầm Hoà nói, ước gì cả đời được sống như thế này thì khoái biết mấy. Hồi đó đã sang hè, bệnh tình của Quỳnh dần dần thuyên giảm. Chẳng biết có phải thuỷ thổ đất Vân Nam thực sự có tính năng điều trị bệnh hay không. Da Quỳnh phơi nắng đen đi một chút, sức khoẻ ngày một tăng. Những lúc hái trộm đào, cô đã có thể dẫn đám con gái bỏ chạy.
Hai người đi lại giữa hai mảnh đất Đại Lý và Lệ Giang, thăm quan núi tuyết, thành cỏ... Cuộc sống của họ đơn giản đến hết mức có thể. thậm chí không đọc sách, không viết lách. Mơ màng ngủ thiếp đi bên sông Lệ Giang, vô tư vô lự, hai người đều cảm thấy cả đời được như vậy thì đẹp biết mấy. Thế nhưng, có thật sự vô tư vô lự không?
Trầm Hoà biết có lúc Quỳnh bỗng tỉnh dậy vào nửa đêm, ngồi trước bàn, Quỳnh viết lên cuốn sổ làm từ giấy tái sinh, hết trang này đến trang khác. Trầm Hoà tin mình là người hiểu Quỳnh hơn ai hết, anh hiểu viết lách là bản năng từ trong bụng mẹ của Quỳnh. Cho dù con đường có gập ghềnh trắc trở đến mấy, cho dù phải rời xa con đường đó bao lâu, cuối cùng cô cũng sẽ trở lại với nó. Tùng Vy là vậy, và Quỳnh cũng thế. Anh biết Quỳnh hoàn toàn tự nguyện sống những ngày “ẩn dật”, nhưng trong lòng cô vẫn có nuối tiếc. Có lẽ trong đêm tỉnh dậy, nghĩ về con đường sáng tác vừa mới mở ra, những vinh dự và thành quả vừa mới gặt hái... cô sẽ thấy nhớ những độc giả ưa thích cô... Nhưng cô chỉ có thể viết trong những đêm tỉnh giấc như thế, cô sợ Trầm Hoà biết được tâm sự của mình.
Cuộc sống như vậy đối với Quỳnh, lẽ nào không phải là một sự ức chế?! Người con gái đã đi qua một tuổi thơ đầy ức chế, rồi lại một tuổi thiếu nữ đầy ức chế, vì sao cô lại phải tiếp tục chịu đựng cuộc sống trong một thời gian ức chế kéo dài có thể đến tận cuối cuộc đời? Có lẽ Quỳnh được sinh ra là một con người độc lập. Chẳng lẽ biến cô thành một người vợ nhỏ, sống dựa dẫm vào anh chính là lý do mà anh yêu cô? Trầm Hoà cảm thấy cuộc đời thay đổi vô định, hợp tan đều không thể biết trước. Nhưng anh đã từng nói sẽ đi cùng cô suốt con đường, với tát cả sự cố gắng của mình. Đã vậy, có khác gì khi ở những chỗ khác nhau về địa lý! Hơn nữa, Trầm Hoà biết Quỳnh giờ đây đã kiên cường hơn trước rất nhiều. Hơn nữa, còn có Tùng Vy... Vậy anh đã có thể rời xa cô lúc này không? - cô ấy đã tìm đến với anh, anh là niềm hy vọng sau cùng của cô gái đáng thương này.
Quỳnh biết Trầm Hoà đã hy sinh rất nhiều cho cô. Anh đã bỏ cả gia đình, người thân, bỏ cả Tùng Vy để mang cô tới đây, chăm sóc cô từ những điều nhỏ nhặt nhất, bên cô như hình với bóng, giục cô đi tắm nắng. Phải, cô luôn tràn trề ánh nắng, nhưng tình yêu kiểu này không khỏi quá ỷ lại. Quỳnh không nghĩ được nếu một ngày Trầm Hoà ra đi khỏi cuộc đời cô, cô sẽ tiếp tục cuộc sống như thế nào. Trầm Hoà suốt ngày phải gánh gánh nặng là cô, vì cô mà tách mình ra khỏi thế giới, liệu anh có cam lòng chăng? Có thể cam lòng mãi mãi không? Tùng Vy tâm thần hoảng loạn, không nơi nương tựa, vẫn đang mong anh về chăm nom. Giữa họ là mười năm quan hệ, làm sao nói dứt là dứt luôn ra được. Còn cô - cô không muốn tự lừa dối mình, cô rất rất muốn được tiếp tục sáng tác. Đó là con thuyền đến với cô trong giấc mơ, cô vĩnh viễn không biết hết được trên đó có bao nhiêu điều kỳ diệu, chỉ có bước lên đó, cùng nó đi đến những miền đất còn chưa khám phá...
Mùa hè kết thúc, hai con người đầy tâm sự đi cùng nhau dưới nắng. Thành cổ buổi sáng có mưa cầu vồng. Đã khá muộn nhưng cửa hàng hai bên phố vẫn chưa thèm mở cửa. Quỳnh và Trầm Hoà đứng giữa lòng con đường nhỏ, một đầu kéo đến tận hồ Nhĩ Hải, đầu kia trải tới tận núi Đại Thương. Họ nhìn nhau bình thản, cả thành cổ yên ắng, chỉ thoang thoảng tiếng nhạc “bóng hoa Ấn Độ” vọng tới từ hiệu bán băng đĩa vẫn còn đóng cửa.
Trầm Hoà mỉm cười với Quỳnh: “Mình về thôi“.
“Vâng“. Quỳnh trả lời.
“Anh biết sáng tác mang lại cho em một niềm vui rất lớn. Hơn nữa đó vốn là tài sản thuộc về em. Anh không muốn em vì phải đánh mất chúng mà trở nên u buồn lặng lẽ“. Trầm Hoà nói vậy.
“Em cũng thế. Em không muốn là một kẻ chạy trốn“. Quỳnh trả lời.
“Ư, Quỳnh có nhiều huy chương kỷ niệm như thế, thật là đáng nể, sao lại phải làm kẻ chạy trốn!“. Trầm Hoà khẳng định.
“Nhưng, em hơi sợ...” Quỳnh bỗng nói.
“Sợ gì?”
“Em sợ chúng ta lại bị cuốn vào bao nhiêu thị phi rắc rối. Em sẽ mất anh... nếu mất anh thì em biết làm sao?”
“Không đâu. Anh sẽ đi cùng em mãi mãi, bằng tất cả sự cố gắng“.
“Nhưng nếu anh không thể cố nữa thì sao?”
“... Thực ra, không có gì phải sợ cả. Em còn nhớ anh đã nói, thoắt một cái thời gian bao trùm lên tất cả, mọi thứ đều sẽ trở nên bằng phẳng, trơn tru“.
Sau lần thăm Tùng Vy, Quỳnh và Trầm Hoà đều quý nhau hơn, họ trải qua khoảng thời gian êm đềm hiếm hoi. Quỳnh mỗi ngày đều ngủ tới trưa, sau đó bật máy tính viết sách. Có lúc chợt nhớ Trầm Hoà, cô ra cầu thang hút thuốc. Buổi chiều, Trầm Hoà tới, luôn gặp Quỳnh hoặc là nấu cơm xong, hoặc là vừa mua thức ăn về tới nhà. Cảm giác như ở bên một người vợ hiền thục.
Khi Tiểu Nhan tìm được Quỳnh ở đây, đã sang tháng Một, chuẩn bị đến Tết. Cô đang trang hoàng lại căn hộ của Trầm Hoà. Quỳnh nói cô thích ghế bành bọc vải, mềm và màu sắc rực rỡ. Rèm cửa và giấy bồi tường cũng muốn thay gam màu ấm, Trầm Hoà đều đồng ý. Chỉ mới nửa năm, Quỳnh từ một cô gái nghèo khổ tuyệt vọng đi trên phố Đào Lý đã trở thành một nữ nhà văn trẻ đầy triển vọng. Nhưng niềm hạnh phúc đó đến quá muộn, khiến cô không thể tận hưởng hết. Cô không thích tham gia vào những buổi gặp gỡ đông đảo, không thích trả lời phỏng vấn của các ký giả không quen. Cô chỉ muốn trốn mình trong căn hộ nhỏ quen thuộc này. Cô bắt đầu quyến luyến và dựa dẫm vào chốn nay. Cô bắt đầu thích những toà nhà cao ngất trời, thích ban công đầy nắng, nhưng cửa sổ phải đóng kín nếu không cô sẽ chui người ra xem, tựa như muốn bay ra ngoài.
Nơi ở mới của Quỳnh có ban công rất rộng. Cô phơi quần áo trên ban công, ngắm nhìn đàn bồ câu mình nuôi. Cô thích mở bài “Du viên kinh mộng”, “Bạch xà truyện“... nghe đến đoạn thê lương thì xuống đất đi dạo, hoặc đi viết một đoạn tiểu thuyết.
Cả một ban công to, nhưng Quỳnh không hề trồng hoa. Cô đang đợi Trác đến trồng cho mình. Những bông hoa móng tay, như một ban công được thắp lửa, khiến nơi đây trở nên rộng ràng, vui tươi. Em sống thế nào hả Trác? Quỳnh tự hỏi trong lòng.
Hôm Tiểu Nhan đến tìm Quỳnh, khắp nơi đều có hương vị của năm mới. Buổi trưa, Quỳnh đi mua vài cây đào, mua hoa thuỷ tiên, kẹo, bánh ngọt.v.v... Quỳnh dường như chưa bao giờ đón năm mới một cách trang trọng như thế. Quỳnh và Trầm Hoà định đón Tùng Vy về nhà cùng đón Tết, cho bà cảm giác ấm áp gia đình.
Buổi chiều, có tiếng gõ cửa, người đến chính là Tiểu Nhan. Cô hơi mập hơn trước, tóc ngắn, rối loạn xoã trước mặt. Mặt Tiểu Nhan trắng bệch. Cô vừa gặp Quỳnh liền nói. “Chị nhỏ, mau vào bệnh viện thăm Trác. Trác đau tim nặng lắm, sắp chết tới nơi rồi....“. Quỳnh giựt phứt dây điện của chiếc đài, âm thanh tầng dưới đóng cửa vọng lên, tiếng chó bị khoá trong nhà sủa ồn ào... Quỳnh cố gắng tóm bắt âm thanh của Tiểu Nhan. Tiếng của cô như chiếc đĩa trơn trượt, Quỳnh cảm thấy cô không sao tóm được, chỉ còn nghe thấy tiếng rơi vỡ loảng xoảng. Quỳnh chống lại những âm thanh đó, cô thà rằng mình không hiểu gì hết.
Một tay Quỳnh vịn chặt lấy cửa, không ngừng run rẩy, cánh cửa rung rinh đập cành cạch vào tường.
Quỳnh hỏi Tiểu Nhan: “Tại sao lại ra nông nỗi này?“.
Tiểu Nhan không trả lời, chỉ vừa khóc vừa xin lỗi.
Hai người gọi taxi đi bệnh viện. Trên xe Quỳnh lại hỏi: Đã xảy ra chuyện gì?
Tiểu Nhan nói “Xin lỗi chị, em đã lừa dối chị và Trác. Em không phải trốn khỏi nhà cha dượng. Em là một kẻ lừa đảo. Bọn em có bảy người bị cha mẹ bán cho hai người đàn ông. Họ cho bọn em ăn uống, bắt bọn em đi lừa tiền. Hôm đó em chạy tới kêu cứu mục đích là để lựa chị. Nếu chị đưa về nhà, em sẽ thừa lúc trong nhà sơ hở ăn cắp những đồ vật đáng tiền rồi bỏ trốn. Nhưng mà, nhưng mà em thấy chị và em chị cũng rất khổ, lại tốt với em như thế, nên em không nỡ đi... Em yêu anh Trác thật lòng, em thật lòng muốn được ở bên anh ấy. Nhưng mấy hôm trước, khi đang đi chợ, em bị một “chị em” trong nhóm bắt gặp. Cô ấy báo cho đại ca, họ đến bắt em đi. Họ giam em lại, rồi đòi Trác đem tiền đến chuộc. Anh Trác chắc là đã chịu nhiều vất vả để vay mượn đủ tiền chuộc. Nhưng bọn họ muốn hành hạ anh, trước là lừa anh lên một cái kho ở trên núi, rồi lên một cái chòi trên đỉnh. Sau đó lại lừa anh tìm xuống một cái hầm tránh bom trống không... Hôm đó mưa rất to, anh Trác chạy khắp nơi, bị mưa ướt. Anh ấy bị ngã trên núi, bị ướt, bị lạnh. Anh ấy về đến nhà thì ốm. Em tìm cách trốn khỏi chỗ giam về tới nhà, anh Trác đã nằm hai ngày, không ăn không uống... em gọi anh ấy, anh ấy đã không nghe thấy gì nữa...“.
Quỳnh nghẹn họng, cô vung tay tát mấy cái vào mặt Tiểu Nhan. Cô gầm lên: “Mày có còn là người nữa không? Mày có phải là người không? Trác yêu mày như thế, Trác đã vì mày, mà không cần cả tao nữa. Sao mày dám đối với Trác như vậy! Mày tàn nhẫn!“.
Quỳnh bỗng thấy mắt đen sầm, đầu óc quay cuồng. Cô không nói nữa, vịn tay vào cửa xe, ngả người ra ghế.
Tắc đường. Xe xếp thành hàng dài trước cây đen đỏ. Rất lâu mới nhích lên được một chút. Nhưng cô không dám xuống xe chạy bộ. Khung cảnh này quá quen thuộc, khiến cô lập tức nhớ tới một lần tắc đường của mấy năm về trước.
Cái kết cục đó, dường như cô đã nhìn thấy. Trác ơi, Trác ơi, cô gọi nhỏ tên cậu. Cô tin là cậu đã ra đi, cô bắt đầu cảm thấy cậu biến mất. Họ đã nương tựa vào nhau bao nhiêu năm tháng, giữa họ có những sợi dây vô hình nối kết. Trước đây cô không nhận ra điều đó, kể cả nửa năm xa cách cô cũng không biết. Nhưng giờ phút này cô bỗng cảm nhận được, có một sợi dây đã tồn tại, nhưng đã đứt đoạn. Trái tim cô bị sợi dây đứt ra khiến cho rung đập muốn vỡ nát.
Quỳnh chầm chậm quay cho cửa kính xe thấp xuống, cô thò đầu ra ngoài xem. Cô nhìn thấy màu trời như mùa thu bị che bởi lớp mây đen nặng trĩu. Giữa lớp mây là một khe hẹp, màu xanh nhạt tinh khiết, như một con đường rời khỏi nơi đây. Mắt cô dõi theo khe hẹp đó không rời, nhưng mây đen từ từ khép lại, không còn một chút kẽ hở. Mùa đông năm nay vẫn chưa hề có tuyết, bây giờ bỗng nhè nhẹ bay đầy bầu trời.
Quỳnh không kịp nhìn mặt Trác lần cuối. Khi họ đẩy cửa phòng bệnh bước vào, cậu vừa mới tắt thở không lâu. Cô nhìn thấy mọi người đang rút các ống chuyền ra khỏi người cậu, rút hết những dây dợ khiến cậu mất tự do. Không biết có phải vì ánh đèn, sắc mặt Trác rất tối. Sao lại tối đến thế. Trông chẳng giống Trác tí nào - một chàng trai sáng ngời như men sứ. Quỳnh lao tới, quỳ xuống ôm lấy mặt Trác: “Trác ơi, nhà mới của chị có ban công rất rộng. Chị vẫn đang chờ mùa xuân tới, em trồng hoa móng tay cho chị. Em bảo trồng hết cả hoa sẽ rất lâu, em không được lười...“.
Tiếng nói của Quỳnh dường như không bị thương, tựa như cô muốn cho mọi người xung quanh biết - trong đó có cả Tiểu Nhan - rằng cô và Trác thân thiết đến thế nào, không ai có thể chia rẽ họ.
Khuôn mặt tối xạm kia là một ngọn đèn đã tắt. Cơ thể cậu vẫn bám đầy bột thạch cao, đang khô dần trong không khí. Thế là hết, chàng trai trẻ say mê làm tượng cuối cùng đã biến mình thành một bức tượng. Quỳnh dùng tay sờ lên đầu Trác, cô áp mặt mình lên đó, muốn chờ cậu hôn mình. Nhưng đầu Trác trĩu nặng lên tay cô. Cậu không muốn hôn cô, không ôm cô. Con người tệ bạc! Nước mắt Quỳnh như mưa.
Người trong bệnh viện đến khiêng Trác đi. Họ kéo cô ra khỏi thi thể của Trác. Quỳnh bướng bỉnh, ngoan cố xông tới hết lần này đến lần khác, ôm chầm lấy đầu cậu. Quỳnh không ngớt gọi tên Trác. Mắt Quỳnh dường như không nhìn thấy gì nữa. Cô không thấy mũi Trác đã không còn hơi thở, cô không thấy người ta đã phủ vải trắng lên mặt cậu. Cho đến lúc người ta đẩy Trác đi, cô lẳng lặng theo sau. Cô biết cậu đã đi rồi. Đi trên đường đến đây cô đã biết điều đó. Cô muốn đuổi theo nhưng đó chỉ là một bức tượng chàng trai.
“Đừng sợ, Trác ơi, rất nhanh thôi, sẽ trút bỏ được tất cả, sẽ tự do“.
“Đừng sợ, Trác, chị nhỏ ở bên em, đến đâu cũng luôn ở bên em“.
“Đừng sợ, lớn lên rồi sẽ tốt đẹp hơn thôi“.
Quỳnh đi theo băng ca ra khỏi phòng cấp cứu, họ định đưa cậu sang khu nhà bên cạnh. Tuyết to nặng như đám quân bạo động, xông tới trước mặt họ. Trên mình Trác chỉ che một lớp vải mỏng. Họ không che ô cho cậu. Cô nhìn thấy chàng trai hoa móng tay của mình nằm ngang song song với mặt đất, từ từ trôi vào trong tuyết. Hoa tuyết chui cả vào trong tấm vải, làm cho cậu lạnh hơn, càng cách biệt khỏi thế gian này. Quỳnh thấy tuyết làm ướt lớp vải trên mặt cậu, tựa như hơi thở không dứt.
Cuối cùng Quỳnh theo không kịp mấy người kia. Có lẽ cô đã bắt đầu thấy ra, kể từ khi ánh mặt bị mây đen khép lại, cô đã mất cậu ấy, không còn cảm nhận được cậu nữa. Còn cô vẫn chỉ đi theo một chàng thiếu niên đã gắn bó như hình và bóng của mình, là cậu bé đã đập vỡ lợn đất để mua sôcôla cho mình, là cậu bé đã chạy cùng cô trên phố giữa đêm khuya, là cậu bé đã hôn cô khi hai đứa xem phim trên ghế sôpha, là chàng trai đã chờ cô làm thêm trở về sau biết bao đêm khuya, chàng trai hứa chụp chung với cô một bức ảnh kỷ niệm.
Rất lâu sau. Quỳnh tỉnh táo trở lại. Cô bỗng chộp cứng vai Tiểu Nhan đang khóc lóc bên cạnh. Cô thấy căm hận tột độ, nhưng không còn sức lực để trừng phạt. Quỳnh ai oán:
- Cô muốn có Trác, tôi đã nhường Trác cho cô. Nhưng cô phải chăm sóc Trác cẩn thận. Cậu ấy là báu vật của nhà tôi. Tôi đã hứa với cha sẽ thương yêu Trác, không bao giờ rời Trác. Nhưng cậu ấy nói yêu cô. Tôi đã ra đi. Cô muốn tôi chúc phúc cho hai người, tôi đã chúc phúc. Nhưng kết quả là cô đã lừa Trác, cô hại chết cậu ấy. Tại sao lại như thế, cô không thấy lương tâm hổ thẹn à? Máu cô nóng hay lạnh? Cô nói đi. Cậu ấy không đáng kể gì đối với cô sao? Cô có biết cậu ấy đáng quý với tôi biết chừng nào. Nửa năm nay không được gặp Trác, tôi chỉ có thể tưởng tượng không biết cậu ấy sống thế nào. Tôi chuyển nhà, đợi mùa xuân cậu ấy sẽ trồng hoa móng tay cho tôi...
Đôi môi Tiểu Nhan tím ngắt, cô nhắm nghiền mắt, người bị Quỳnh lay cho sắp ngã. Cô đau đớn lắc đầu.
- Em xin lỗi, em xin lỗi. Em yêu anh ấy thật lòng. Em không muốn rời xa anh ấy. Em tìm mọi cách trốn ra, để về tìm anh ấy...
- Tại sao cô không bảo vệ cậu ấy. Tại sao cô không giữ? Tại sao cô không giữ? Quỳnh lạnh lùng, không đếm xỉa đến lời của Tiểu Nhan, chỉ lặp đi lặp lại câu hỏi.
Tiểu Nhan ôm lấy cánh tay Quỳnh, van nài:
- Chị có thể tha thứ cho em không, chị đừng bỏ rơi em, chị cho em giải thích...
Tiểu Nhan ngã ra, nhưng vẫn cố bám lấy Quỳnh, ôm lấy chân cô van xin. Quỳnh gạt mạnh cô ra. Tiểu Nhan nằm soài ra tuyết, cả người trượt ra sau một đoạn, nhưng cô vẫn không bỏ cuộc, tiếp tục bò về phía Quỳnh. Quỳnh lạnh lùng nói với Tiểu Nhan:
- Vĩnh viễn vĩnh viễn đừng để cho tôi nhìn thấy cô nữa!
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Đó là một ký ức khó quên suốt đời Quỳnh, nó kết lắng lại trong dòng sông thời gian hối hả, như những viên kim cương nho nhỏ. Khi Quỳnh đi xuyên dưới màn đêm, chúng là những ngôi sao trên bầu trời đi cùng cô trên đường.
Quỳnh nhớ xe lửa chạy như bay không ngừng trên đường từ Côn Minh đi Đại Lý.
Quỳnh nhớ những người nước ngoài trong những cửa hàng bán băng đĩa nhỏ bên đường và những cô gái bán đĩa e thẹn.
Quỳnh nhớ căn phòng nhỏ với tiếng sóng hồ Nhĩ Hải rì rào và chỗ bán cá nướng.
Quỳnh nhớ quán bar ở Tây Tạng có trà sữa và người phụ nữ bán hoa dành dành.
Quỳnh nhớ một đêm ở Lệ Giang, họ uống loại rượu thơm tên là Lệ Giang Tiểu Thiếp.
Quỳnh nhớ cảm giác say mê của âm nhạc Budha và hình ảnh đức Phật to lớn, trầm tĩnh trên đĩa.
Quỳnh nhớ họ đã mua hình nộm bằng gỗ, một đôi vợ chồng mặc trang phục dân tộc Nạp Tây.
Quỳnh nhớ Trầm Hoà mua tặng cô đôi hài cỏ đan bằng tay của bà lão người Nạp Tây, trên giày có đính đồng tiền đồng khắc hình chữ Phúc.
Quỳnh nhớ bếp lửa trong quán rượu nhỏ, họ uống rượu rồi tựa vào nhau ngủ thiếp đi.
Quỳnh nhớ quán rượu có ban nhạc, họ đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cô khi hát bài “Ánh trăng tình em”, và người đàn ông của cô đã hát bên tai cô.
Quỳnh nhớ bảng thông báo của nhà trọ, có những mẩu thông tin tìm người đồng hành.
Quỳnh nhớ họ đã mua tấm bản đồ vẽ tay và cuốn vở làm từ giấy tái sinh trong một hiệu sách.
Quỳnh còn nhớ...
Quỳnh rất khó tưởng tượng ra, nếu thời gian đó Trầm Hoà không đưa cô đi, cô sẽ chìm sâu tới mức độ nào - thần kinh suy nhược, mắt mũi lờ đờ, suốt ngày phải dựa dẫm vào những viên thuốc trắng nhỏ.v.v...
Họ ngồi máy bay tới Côn Minh, đi tiếp tàu hoả tới Đại Lý. Trên tàu đi Đại Lý, Trầm Hoà ôm lấy Quỳnh, nhẹ nhàng nói với Quỳnh: “Đến Đại Lý, cuộc sống sẽ trở nên rất giản dị, mỗi ngày mình sẽ đều được nghe nhạc, được ngủ, được đi dạo. Mình có thể mở quán rượu hoặc quầy sách nhỏ ở đó“. Trầm Hoà vừa nghĩ vừa cười. Anh hỏi: “Em thấy mình nên mở hiệu gì?“.
Quỳnh nói: “Mở tất, ban ngày ở trong hiệu sách, buổi tối ở quán rượu“.
Trầm Hoà cười:
“Không được, em đi đến đó để tắm nắng, không được suốt ngày ở trong nhà“.
Quỳnh khi đó đang sốt, nhưng cô cảm thấy mình đã hoàn toàn tỉnh trí. Cô rất mệt, thèm ngủ. trước khi ngủ, cô nói lí nhí: “Em cảm thấy mình như một đôi vợ chồng trẻ đang bỏ trốn“.
Chuyến tàu đó chạy một ngày một đêm, dọc đường là những ga nhỏ dường như không tên. Toa tàu cũ kỹ, tối tăm, bốn bề hết sức yên tĩnh. Hai người nằm chật trên giường nằm tầng một. Nửa đêm Quỳnh tỉnh dậy, vén rèm cửa sổ. Ánh trăng ùa vào đầy khoang, phủ lên mặt Trầm Hoà. Cô nhìn thấy từng nốt ruồi, từng nếp nhăn và cả rãnh sâu ở cằm. Cả vết sẹo lõm dài chừng hai xăng ti mét bên phải khuôn mặt anh. Quỳnh thò tay vuốt nhẹ vết sẹo, ánh trăng cũng như chuyển động theo cô, dịu dàng như muốn lấp đầy vết sẹo.
Trầm Hoà ôm lấy cô, thủ thỉ rằng đó là huy chương kỷ niệm một lần đánh nhau với bạn hồi nhỏ. Anh nói, tất cả đều sẽ bình phục, vết thương lòng cũng như vết thương da thịt đều thế, và đều trở thành những tấm huy chương kỷ niệm. “Khi em được ban tặng cho một tấm huy chương, em sẽ trở nên can đảm hơn, dạn dày hơn, tự hào hơn“.
Quỳnh thở dài, chỉ vào ngực mình: “Ở đây em đã có rất nhiều huy chương kỷ niệm“.
Trầm Hoà xoa đầu cô, nói: “Vì vậy em là một Quỳnh rất cừ khôi“.
Quỳnh lại sờ lên vết sẹo của Trầm Hoà, thầm nghĩ, đúng rồi, chúng sẽ trở thành những vết sẹo lồi hoặc lõm. Cũng như trái đất không khóc lóc vì những dải núi hoặc đại dương, chúng ta cũng không cần phải khóc lóc vì những vệt lồi hoặc lõm kia.
Trầm Hoà nhìn ra ngoài cửa sổ nói với Quỳnh, “Tàu hoả rất ghê gớm, em có thấy thế không?“.
“Ghê gớm gì?” Quỳnh ngơ ngác.
Trầm Hoà không trả lời ngay, anh kéo Quỳnh ra ngồi ở hàng ghế nhỏ bên lối đi dọc toa tàu. Anh chỉ cho Quỳnh xem đường ray rồi nói: “em biết không, hồi nhỏ có thời gian anh ở nhà bà ngoại ở quê. Ở đó rất gần đường tàu, bọn anh hay ra đường tàu chơi. Em có biết cách làm đồ chơi từ mấy cái đinh sắt nhỏ và dài không?“.
Quỳnh lắc đầu. Trầm Hoà kể tiếp: “Bọn anh đặt một chiếc đinh sắt lên đường ray, rồi tránh ra xa. Khi tàu hoả hú còi chạy qua xong, bọn anh đến gần đường ray nhặt chiếc đinh đó lên. Nó đã bị cán dẹp lép mà còn sáng bóng nữa, hình một thanh bảo kiếm. Đó là thứ con trai bọn anh thích nhất. Em thấy tàu hoả có ghê gớm không“.
Quỳnh tưởng tượng ra hình thanh kiếm bé tẹo còng queo nên bật cười, gục gặc đầu: “ghê thật“.
Nhưng Trầm Hoà vẫn nói nghiêm chỉnh: “Nhưng vẫn còn một thứ ghê hơn tàu hoả nữa. Đó là thời gian. Thời gian vụt qua, mọi thứ đều trở nên bằng phẳng và trơn tru“.
“Lại là một tấm huy chương kỷ niệm!” Quỳnh tiếp lời.
“Ừ, một huy chương“.
“Nhà” của hai người ở Đại Lý là một căn phòng nhỏ trên tầng hai của một nhà khách. Trong phòng ẩm ướt, bị dột lúc mưa. Nhưng bù lại phía trước có một ban công rất lớn trồng đầy hoa. Ánh sáng trong phòng tương đối đầy đủ, hơn nữa còn có một gian bếp riêng, bếp và quạt hút gió đều bé xinh xinh như trò chơi gia đình. Quỳnh và Trầm Hoà ngày nào cũng ngủ đến gần trưa, sau đó tắm gội. Cũng chẳng cần sấy tóc, chỉ lau qua loa xong là có thể dạo bước trên con đường Hộ Quốc nổi tiếng. Hai người đều mặc quần áo giản dị bằng vải thô, rộng rãi, thoải mái. Quỳnh kẹp tóc lên, dùng nồi to vo gạo nấu cháo. Rồi cô gọi cô bé gánh trái cây bán dạo, mua một chùm khế mọng nước, dùng váy bọc lấy chúng. Họ vừa ăn vừa lắc lư nghe nhạc. Chiếc ti vi cũ 21 inches rất “xập xệ”, mỗi lần trời mưa là chẳng xem thấy gì nữa.
Trầm Hoà và Quỳnh hoà nhập với những người thanh niên ở đó rất nhanh chóng. Mọi người đều thích họ, bởi vì hai người biết nhiều, từng trải, có những câu chuyện họ chưa từng nghe, từng thấy. Hai người lại rất rộng rãi, thường lấy đồ ăn và tiền chi bọn trẻ con nhà nông. Mọi người coi họ như thành viên của cả đại gia đình, rủ họ tham gia mọi hoạt động. Quỳnh vẫn chưa khoẻ hẳn, cô rất vui vẻ đứng xem bên ngoài. Quỳnh thích xem Trầm Hoà đá bóng với bọn họ. Trời đất bao la, khiến người ta muốn hò hét cho thoả thích. Khi trời tối, mọi người lén đi hái trộm đào trong các vườn, dù ở nhà đã mua đào rồi. Chỉ vì thích thú cảm giác hồi hộp đó. Thực ra cũng chỉ hái vài trái tượng trưng mà thôi, nhưng cũng vội vàng tháo chạy như những tên đạo chích thật sự
Về sau hai người đến Lệ Giang, ngồi nghe đàn hát ở trong quán bar. Quỳnh ghi lưu niệm trên sổ của nhà quán, nhưng không cho Trầm Hoà xem. Quỳnh viết: Cảnh đẹp buổi sớm. Khi đó Quỳnh nghĩ nếu nhiều năm sau Trầm Hoà quay lại đây, đọc được điều cô viết trong này, nhất định sẽ xúc động vô cùng...
Họ phóng sinh cá vàng bên sông Lệ Giang. Trời ngả tối. Thiếu nữ mặc trang phục Nạp Tây đứng bên chiếc thùng gỗ đựng đầy cá chép vàng. Tay cô cầm ngọn nến hình hoa. Trầm Hoà đưa tiền cho cô gái, cô bèn vớt hai chú cá từ trong thùng ra, tay kia xách nến dẫn Trầm Hoà và Quỳnh đi ra bờ sông.
Hai người cúi xuống nhìn nhau mỉm cười rồi nhắm mắt cầu ước. Sau đó họ thả hai chú cá vàng rực xuống sông. Thoắt một cái, chúng đã bơi đi. Dưới ánh sáng le lói của ngọn nến, chỉ thấy hai chú cá ve vẩy chiếc đuôi vàng, bơi song song xa dần rồi mất hút.
Đêm Lệ Giang náo nhiệt lời ca điệu múa, giống như đất Giang Nam khi xưa, đâu đâu cũng rực rỡ những chiếc đèn hồng. Họ ngồi uống rượu bên dòng sông nước trôi rì rào. Ánh lửa, ánh đèn ấm áp khiến họ chìm dần vào giấc ngủ mơ màng. Trầm Hoà nói, ước gì cả đời được sống như thế này thì khoái biết mấy. Hồi đó đã sang hè, bệnh tình của Quỳnh dần dần thuyên giảm. Chẳng biết có phải thuỷ thổ đất Vân Nam thực sự có tính năng điều trị bệnh hay không. Da Quỳnh phơi nắng đen đi một chút, sức khoẻ ngày một tăng. Những lúc hái trộm đào, cô đã có thể dẫn đám con gái bỏ chạy.
Hai người đi lại giữa hai mảnh đất Đại Lý và Lệ Giang, thăm quan núi tuyết, thành cỏ... Cuộc sống của họ đơn giản đến hết mức có thể. thậm chí không đọc sách, không viết lách. Mơ màng ngủ thiếp đi bên sông Lệ Giang, vô tư vô lự, hai người đều cảm thấy cả đời được như vậy thì đẹp biết mấy. Thế nhưng, có thật sự vô tư vô lự không?
Trầm Hoà biết có lúc Quỳnh bỗng tỉnh dậy vào nửa đêm, ngồi trước bàn, Quỳnh viết lên cuốn sổ làm từ giấy tái sinh, hết trang này đến trang khác. Trầm Hoà tin mình là người hiểu Quỳnh hơn ai hết, anh hiểu viết lách là bản năng từ trong bụng mẹ của Quỳnh. Cho dù con đường có gập ghềnh trắc trở đến mấy, cho dù phải rời xa con đường đó bao lâu, cuối cùng cô cũng sẽ trở lại với nó. Tùng Vy là vậy, và Quỳnh cũng thế. Anh biết Quỳnh hoàn toàn tự nguyện sống những ngày “ẩn dật”, nhưng trong lòng cô vẫn có nuối tiếc. Có lẽ trong đêm tỉnh dậy, nghĩ về con đường sáng tác vừa mới mở ra, những vinh dự và thành quả vừa mới gặt hái... cô sẽ thấy nhớ những độc giả ưa thích cô... Nhưng cô chỉ có thể viết trong những đêm tỉnh giấc như thế, cô sợ Trầm Hoà biết được tâm sự của mình.
Cuộc sống như vậy đối với Quỳnh, lẽ nào không phải là một sự ức chế?! Người con gái đã đi qua một tuổi thơ đầy ức chế, rồi lại một tuổi thiếu nữ đầy ức chế, vì sao cô lại phải tiếp tục chịu đựng cuộc sống trong một thời gian ức chế kéo dài có thể đến tận cuối cuộc đời? Có lẽ Quỳnh được sinh ra là một con người độc lập. Chẳng lẽ biến cô thành một người vợ nhỏ, sống dựa dẫm vào anh chính là lý do mà anh yêu cô? Trầm Hoà cảm thấy cuộc đời thay đổi vô định, hợp tan đều không thể biết trước. Nhưng anh đã từng nói sẽ đi cùng cô suốt con đường, với tát cả sự cố gắng của mình. Đã vậy, có khác gì khi ở những chỗ khác nhau về địa lý! Hơn nữa, Trầm Hoà biết Quỳnh giờ đây đã kiên cường hơn trước rất nhiều. Hơn nữa, còn có Tùng Vy... Vậy anh đã có thể rời xa cô lúc này không? - cô ấy đã tìm đến với anh, anh là niềm hy vọng sau cùng của cô gái đáng thương này.
Quỳnh biết Trầm Hoà đã hy sinh rất nhiều cho cô. Anh đã bỏ cả gia đình, người thân, bỏ cả Tùng Vy để mang cô tới đây, chăm sóc cô từ những điều nhỏ nhặt nhất, bên cô như hình với bóng, giục cô đi tắm nắng. Phải, cô luôn tràn trề ánh nắng, nhưng tình yêu kiểu này không khỏi quá ỷ lại. Quỳnh không nghĩ được nếu một ngày Trầm Hoà ra đi khỏi cuộc đời cô, cô sẽ tiếp tục cuộc sống như thế nào. Trầm Hoà suốt ngày phải gánh gánh nặng là cô, vì cô mà tách mình ra khỏi thế giới, liệu anh có cam lòng chăng? Có thể cam lòng mãi mãi không? Tùng Vy tâm thần hoảng loạn, không nơi nương tựa, vẫn đang mong anh về chăm nom. Giữa họ là mười năm quan hệ, làm sao nói dứt là dứt luôn ra được. Còn cô - cô không muốn tự lừa dối mình, cô rất rất muốn được tiếp tục sáng tác. Đó là con thuyền đến với cô trong giấc mơ, cô vĩnh viễn không biết hết được trên đó có bao nhiêu điều kỳ diệu, chỉ có bước lên đó, cùng nó đi đến những miền đất còn chưa khám phá...
Mùa hè kết thúc, hai con người đầy tâm sự đi cùng nhau dưới nắng. Thành cổ buổi sáng có mưa cầu vồng. Đã khá muộn nhưng cửa hàng hai bên phố vẫn chưa thèm mở cửa. Quỳnh và Trầm Hoà đứng giữa lòng con đường nhỏ, một đầu kéo đến tận hồ Nhĩ Hải, đầu kia trải tới tận núi Đại Thương. Họ nhìn nhau bình thản, cả thành cổ yên ắng, chỉ thoang thoảng tiếng nhạc “bóng hoa Ấn Độ” vọng tới từ hiệu bán băng đĩa vẫn còn đóng cửa.
Trầm Hoà mỉm cười với Quỳnh: “Mình về thôi“.
“Vâng“. Quỳnh trả lời.
“Anh biết sáng tác mang lại cho em một niềm vui rất lớn. Hơn nữa đó vốn là tài sản thuộc về em. Anh không muốn em vì phải đánh mất chúng mà trở nên u buồn lặng lẽ“. Trầm Hoà nói vậy.
“Em cũng thế. Em không muốn là một kẻ chạy trốn“. Quỳnh trả lời.
“Ư, Quỳnh có nhiều huy chương kỷ niệm như thế, thật là đáng nể, sao lại phải làm kẻ chạy trốn!“. Trầm Hoà khẳng định.
“Nhưng, em hơi sợ...” Quỳnh bỗng nói.
“Sợ gì?”
“Em sợ chúng ta lại bị cuốn vào bao nhiêu thị phi rắc rối. Em sẽ mất anh... nếu mất anh thì em biết làm sao?”
“Không đâu. Anh sẽ đi cùng em mãi mãi, bằng tất cả sự cố gắng“.
“Nhưng nếu anh không thể cố nữa thì sao?”
“... Thực ra, không có gì phải sợ cả. Em còn nhớ anh đã nói, thoắt một cái thời gian bao trùm lên tất cả, mọi thứ đều sẽ trở nên bằng phẳng, trơn tru“.