Cùng thời gian đó, Mạn đang sống bức bối và trục trặc ở nhà số 3 phố Đào Lý. Gã họ Trịnh đổ bệnh đã lâu, nằm liệt giường. Mạn không thể nào suốt ngày ở trong nhà chầu chực bên con người tàn tật đó để hầu hạ gã. Bà thuê cho gã một người giúp việc, bản thân mình vẫn đi chơi, thăm thú bè bạn, đánh bài, dạo phố. Bà luôn là người biết giữ đường rút lui cho mình. Nhưng lần này vì ham chơi mà mất cảnh giác. Gã họ Trịnh đến mùa thu thì ra đi, điều đó cũng chẳng làm cho Mạn thấy đau buồn, không phải lần đầu làm một quả phụ, hơn nữa cuộc hôn nhân đó đã sớm chỉ còn trên danh nghĩa. Nhưng vấn đề ở chỗ, gã họ Trịnh lại có chuẩn bị từ trước, lặng lẽ nhượng tài sản của mình lại cho con gái đang ở Mỹ, đặt cọc luôn cả ngôi nhà. Gã không để lại cho Mạn lấy nửa xu. Đó là sự trả thù dành cho Mạn. Khi Mạn được luật sư thông báo cho biết điều đó, bà vẫn đang mặc bộ lễ màu đen đưa tang chồng. Bà không tin vào tai mình. Quả thực bà đã sơ hở, bà hơi nhầm rằng ai cũng lương thiện thật thà như Lục Dật Hán. Trong buổi đưa tang, Mạn nổi cơn điên, dùng chìa khoá đập vỡ lớp kính trên di ảnh của gã họ Trịnh, rồi quay mình bỏ đi.
Mạn vừa về đến nhà số 3 phố Đào Lý, người của công ty địa ốc đã tới, yêu cầu bà mau chóng rời khỏi. Mạn không hề ngờ rằng mình cũng có ngày như thế.
Mạn đứng trên ban công phòng ngủ trước đây của Lục Dật Hán, nhìn xung quanh ngôi nhà, bỗng cảm thấy nơi đây thật lạnh lẽo. Dật Hán đã chết ở đây, gã họ Trịnh cũng chết ở đây, giờ đây cái chốn này cũng đang dồn đuổi bà phải ra đi. Nhưng Mạn của bây giờ đã không còn là Mạn hơn hai mươi năm trước. Thậm chí đã không còn là Mạn của một vài năm trước. Bà đã luống tuổi, không còn khả năng, cũng không còn sức lực đi chinh phục trái tim của một người đàn ông nào khác. Mạn giờ đây không tiền không nhà, làm sao để sống đây! Mạn ôm lấy ban công và khóc, trong lòng nghĩ lẽ nào đây chính là báo ứng.
Hôm đó, Mạn nhận được bức thư của Tùng Vy gửi tới. Trên thực tế, từ khi Tùng Vy về nước, mỗi cách vài tháng lại gửi cho Dật Hán một lá thư. Tùng Vy chỉ nói rằng xin được Dật Hán tha thứ cho mình, mong Dật Hán đến gặp dù chỉ một lần. Tùng Vy không dám đường đột đến tìm Dật Hán, vì không biết nếu Trác bỗng nhìn thấy mình thì sẽ ra sao. Mặc dù thần kinh của Tùng Vy không được tỉnh táo, nhưng bà vẫn luôn biết mình từng khiến Trác phải tổn thương, nên một khi đã lùi ra phía sau giới hạn đó, thì sẽ không bao giờ dám đường dột quấy rầy cuộc sống của hai cha con họ. Tất cả các bức thư đều rơi vào tay Mạn. Bà ta bóc ra đọc một chút rồi huỷ luôn không suy nghĩ. Nhưng hôm nay, bà xem thư, vẫn là những nội dung như thế, Tùng Vy nói nếu anh có thể tha thứ cho em, mong anh đến gặp em một lần. Mạn định vứt bức thư đi, nhưng chợt phát hiện ra địa chỉ ghi trên phong bì. Mạn sững người - đó là một thôn nhỏ ở ngoại ô, ít người biết tới. Cũng không có gì ghê gớm, nhưng Mạn bỗng nghĩ hay là mình sẽ tìm gặp Tùng Vy, biết đâu có thể xoay được ít tiền từ đó.
Ý nghĩ đó lập tức cổ vũ cho lòng tham của Mạn. Phải rồi, bà ta luôn gặp địa chỉ này trên thư, sao chưa bao giờ nghĩ tới việc đi tìm Tùng Vy. Mãi đến hôm nay, khi hết sức cần tiền mới chợt nghĩ ra. Có lẽ đây là ông Trời đã ban cho mình một con đường mới để đi. Quả là Trời không tuyệt tình người. Lần này cũng thế, bà ta nhất định tìm ra con đường giải thoát cho mình.
Mạn dựa vào địa chỉ trên phong bì để đi tìm Tùng Vy. Khi phát hiện ra đó là một khu bệnh xá, bà hết sức kinh ngạc. Vì vậy càng quyết định phải vào tận nơi xem sao. Mạn cứ theo địa chỉ, tìm đến tận gian phòng cần đến. Cái mà bà ta nhìn thấy là một phụ nữ trung niên tiều tuỵ xác xơ, ngồi xoay vào góc tối đang nghịch một cây bút bi. Mạn kinh ngạc vô cùng, nghĩ chắc là mình đã nhầm, bèn định trở ra. Nhưng rồi bà ta ngó lại người phụ nữ, không kìm được gọi thử một tiếng: “Tùng Vy?“.
Người phụ nữ kia cực kỳ hoảng sợ, vội quay đầu ra nhìn: “Chị gọi tôi à? Tôi không quen chị, tôi không quen chị...“.
Vốn Mạn chỉ định gọi thế thôi, nhưng không ngờ người kia đã quay đầu lại. Mạn càng ngạc nhiên hơn, người phụ nữ đó quả thực là Tùng Vy! Trời ơi, không phải là đang nằm mơ, người phụ nữ khô đét tiều tuỵ trốn trong góc tối của bệnh viện tâm thần này, chính là nữ nhà văn nổi tiếng Tùng Vy! Ngắm kỹ một chút, quả là có những nét giống như hình Tùng Vy đăng trên báo. Mạn bỗng thấy cảm xúc trong lòng dâng lên phức tạp. Nhưng bà cố gắng để tỏ ra bình thản, chậm rãi nói với Tùng Vy: “Chắc là chị nhầm rồi, tôi mới đi qua đây, có gọi chị đâu!“.
Tùng Vy đã hốt hoảng nép vào góc tường, run cầm cập. Đôi mắt sợ hãi và cảnh giác nhìn Mạn không chớp.
Mạn đi ra khỏi cánh cổng bệnh viện tâm thần, trong lòng phấn khích không nói nên lời. Bà ta nghĩ ông Trời quả thật không tuyệt đường của người. Đây chính là con đường mới mở trước mặt Mạn: Bà đã biết được một bí mật to lớn, hóa ra Tùng Vy trốn ở nơi này.... Đối với Tùng Vy, Mạn cũng có không ít căm ghét: Từ khi rời khỏi Lục Dật Hán, đến Lục Dật Hán chết, rồi lại họ Trịnh kia chết không để lại cho Mạn một xu, tất cả mọi việc này xảy ra với Mạn, nguyên nhân cốt lõi chính là Tùng Vy. Không phải cái bóng của Tùng Vy vẫn lởn vởn trong nhà số 3 phố Đào Lý, mà luôn ở trong trái tim của Dật Hán. Nếu không vì điều đó, Mạn đã không cảm thấy mất an toàn đến thế. Nếu không có Tùng Vy, Mạn nghĩ, mình bây giờ có lẽ vẫn đang là bà Lục, ở yên lành thoải mái trong ngôi nhà ấy.
Bao năm nay Mạn vừa ghen tức, vừa hận Tùng Vy. Hôm nay nhìn thấy Tùng Vy thảm hại trong tình cảnh như thế không khỏi cảm thấy vui sướng, lòng cảm thấy nhẹ nhõm ra nhiều. Bà ta lại nghĩ, một bí mật lớn như vậy, nếu bán cho toà soạn, nhất định kiếm được một khoản tiền. Lúc này đây, thứ Mạn cần chẳng phải là tiền hay sao! Nụ cười nở dần trên môi Mạn, bật lên thành tiếng. Ông Trời vĩnh viễn không tuyệt đường của ta!
Chẳng bao lâu sau, sự việc bê bối đã diễn ra.
Tin tức về Tùng Vy được đăng tit lớn trên một tờ báo nổi tiếng. Tin đưa về câu chuyện ít người biết đến về sự thật của Tùng Vy. Quỳnh đã biết Tùng Vy ở trong bệnh viện, nhưng khi đọc được bài phóng sự, cô vẫn kinh ngạc đến nghẹn lời.
Bài báo nói, qua nhiều năm tìm gặp Tùng Vy và bạn bè, hàng xóm, bạn học của Dật Hán, thậm chí cả bà cô mà Tùng Vy không hề lui tới - đã bị thuyết phục bởi một khoản tiền đáng kể - đã đồng ý “chia sẻ” bí mật với mọi người. Phóng viên của báo thậm chí đã ra nước ngoài tìm hiểu. Nhờ đó, họ đã tập hợp được hình ảnh đầy đủ về một cuộc đời ít ai biết được nữ văn sĩ Tùng Vy.
Hai mươi mốt năm về trước, Tùng Vy một thân một mình đến Bắc Kinh, tìm đến một chàng trai mà cô quen trong một lần đi du lịch - Lục Dật Hán. Đó là thời gian con đường sáng tác của Tùng Vy vừa mới bắt đầu. Bỏ lại đằng sau sự phản đối của gia đình, cô đã ra đi để đến với tình yêu. Có lẽ Lục Dật Hán lúc đó cũng không thể ngờ rằng người con gái cùng anh nảy sinh tình cảm trong chuyến du lịch ấy đã không hề chùn bước trước mọi trở ngại. Từ đó, Tùng Vy và Dật Hán chung sống bên nhau, cô bắt đầu sáng tác. Nhưng Tùng Vy sống nơi tha phương, không họ hàng thân thích, lại gặp không ít trắc trở trên con đường sáng tác của mình, cô dần dần trở nên yếu đuối, mẫn cảm, ròồ tâm lý không ổn định, thường cáu giận, tự hành hạ mình, thậm chí nảy sinh cãi cọ với mẹ của Dật Hán. Không lâu sau, mẹ Dật Hán qua đời trong u uất, Dật Hán vô cùng đau đớn, quyết định chia tay với Tùng Vy. Tùng Vy đau khổ tuyệt vọng, rời khỏi căn nhà của Dật Hán, nhưng cô đã không đi khỏi thành phố này. Bởi khi đó, cô đã mang trong mình giọt máu của Dật Hán. Nghe nói Tùng Vy quyết định sinh hạ đứa con đó, là để báo thù Dật Hán. Vì sự báo thù đó, Tùng Vy đã chịu vô vàn cực khổ. Vì tinh thần bất an, dằn vặt cả về thể xác lẫn tinh thần, Tùng Vy nghiện rượu, hút thuốc lá. Thai nhi bị ảnh hưởng xấu, bảy tháng sau Tùng Vy đẻ non, sinh ra một đứa trẻ yếu ớt bệnh tật. Tùng Vy ôm con đến đưa cho Dật Hán, bảo với ông rằng đó là dấu ấn mà cô để lại trong cuộc đời ông, không bao giờ có thể xoá nhoà. Mỗi khi nhìn thấy nó, ông sẽ phải nhớ đến cô. Tùng Vy nói rồi bỏ đi, sau đó ra nước ngoài. Nhưng lúc này, Tùng Vy không còn là một người bình thường nữa, thêm vào đó là thời gian ở nước ngoài khiến bệnh tâm thần của Tùng Vy ngày một nặng thêm. Còn Lục Dật Hán, hết sức gian khổ với sinh mệnh bé bỏng chợt đến với mình. Sinh mệnh đó đến bởi vì lòng căm hận, ông quyết định sẽ không bao giờ nói với con trai rằng nó đã đến với thế giới này như thế nào. Vì vậy, từ nhỏ ông đã nói với nó rằng, mẹ của nó mất từ khi còn rất trẻ. Dật Hán đã từng vì chuyện này mà sống khép kín một thời gian, nói với mọi người mình đi du lịch đường dài. Mọi người đều ngỡ Dật Hán đã kết thân với một phụ nữ trong chuyến du lịch đó và sinh ra đứa trẻ. Hầu như không có ai biết Trác chính là con trai của Tùng Vy. Chỉ có gia đình anh trai của Tùng Vy xác nhận về điều đó, cũng nói rõ động cơ của chuyện này là báo thù.
...
Lại một sự thật nữa phơi bày. Quỳnh xem hết bài phóng sự, vẫn nắm chặt lấy tờ báo run rẩy. Cô lập tức chụp lấy điện thoại, gọi cho Trầm Hoà, vừa nghe thấy tiếng của Trầm Hoà, Quỳnh liền bật khóc:
“Trầm Hoà, em nghĩ, em nghĩ... Trác chính là con trai của Tùng Vy...”
Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu, chỉ nghe thấy tiếng Trầm Hoà đang thở. Lâu sau Trầm Hoà mới trả lời: “Anh cũng mới đọc báo“.
“Anh ơi, muộn mất rồi. Nếu em không vì lòng đố kỵ, không tuyệt tình với Trác như vậy, nếu em quan tâm Tiểu Nhan hơn, lắng nghe cô ấy nói, thì mọi việc đã không như ngày hôm nay. Biết đâu mẹ con họ đã có cơ hội gặp nhau. Vậy mà bây giờ, họ không bao giờ gặp được nhau nữa, vĩnh viễn không bao giờ... Tiểu Nhan hận em, bởi vì em không chăm sóc con của Trác, giờ đây Tùng Vy cũng sẽ hận em vì đã không để cho mẹ con họ được gặp nhau...” Quỳnh khóc thảm thiết.
“Thôi mà Quỳnh, em đừng tự trách mình như thế. Em cũng biết là Tùng Vy đối với Trác không có nhiều tình cảm, cậu ấy chỉ là một thủ đoạn báo thù của Tùng Vy mà thôi. Cũng có thể bà ấy không muốn gặp lại Trác“. Giọng Trầm Hoà thật thấp, chậm rãi an ủi Quỳnh.
“Nhưng Trác muốn! Trầm Hoà anh biết không, Trác đã mong được gặp mẹ đến như thế nào. Cậu vẫn luôn có một linh tính kỳ lạ, cậu ấy luôn tin rằng mẹ vẫn còn sống, một ngày nào đó sẽ quay trở lại. Cậu ấy nói với em, em còn không tin, nhưng em vẫn giả vờ đồng tình, em còn nói sẽ đợi mẹ cùng với cậu ấy, cho đến khi mẹ cậu ấy quay trở về...” Quỳnh nghẹn ngào.
“Quỳnh, nếu em là Trác, vừa gặp Tùng Vy em đã đột ngột ra đi, điều đó được coi là một ân huệ sao? Gặp nhau như thế không có sự tồn tại của tình yêu, đó chỉ là sự thật lên tiếng. Sự thật luôn là thứ khiến người sống phải chịu giày vò. Cũng như em phải chịu giày vò về chuyện đứa con của Trác. Thế nhưng sự thật đối với một người buộc phải rời bỏ cõi đời này, có còn quan trọng lắm không? Cái chết thật nhẹ, cũng thật nặng, thật cao xa, chúng ta cần để cho người chết được nhẹ nhàng khi ra đi“.
“Làm thế nào để người chết được nhẹ nhàng?” Quỳnh bình tĩnh trở lại, ngơ ngác hỏi.
“Cũng giống như đóng nắp quan tài hạ huyệt, chôn những thứ liên quan mật thiết đến họ, không bao giờ xới tung chúng lên nữa. Không nên khuấy động bất cứ chuyện gì khiến người chết chẳng an. Hãy để cho thời gian lấp bằng khoảng đất đó. Nghe anh, Quỳnh ạ, em đã từng nghĩ nỗi đau của em đến từ nơi nào chưa? Nó đến từ việc em cứ giữ khư khư lấy người đã khuất, không chịu quên đi. Tiềm thức của em luôn nhắc nhở em, ông ấy rất quan trọng, em không được quên. Vì thế, em đã không chịu để cho những thứ liên quan đến người chết được nằm yên trong đất. Một khi có những sự việc động chạm đến ông ấy, em lập tức cuốn mình vào trong đó, thậm chí lựa chọn cách hành hạ chính mình. Bởi vì làm như thế, em sẽ thấy ít nhất mình đã không quên được ông ấy. Nhưng đó không phải là điều người đã khuất mong muốn. Ít nhất nếu em chìm vào giấc ngủ vĩnh viễn đó, anh sẽ chỉ mong rằng mọi chuyện được yên nghỉ, phẳng lặng dưới lớp đất bằng, sẽ không ai đào chúng lên, khiến cho anh cảm thấy được an toàn“.
Quỳnh cảm thấy Trầm Hoà nói rất đúng. Bao lâu nay, cô vẫn chọc vào thần kinh đang gần như tê dại của mình, bởi cô sợ mình sẽ lãng quên những tình cảm vốn rất sâu đậm. Nhưng điều đó với cô là một sự dày vò.
Đó là một ký ức khó quên suốt đời Quỳnh, nó kết lắng lại trong dòng sông thời gian hối hả, như những viên kim cương nho nhỏ. Khi Quỳnh đi xuyên dưới màn đêm, chúng là những ngôi sao trên bầu trời đi cùng cô trên đường.
Quỳnh nhớ xe lửa chạy như bay không ngừng trên đường từ Côn Minh đi Đại Lý.
Quỳnh nhớ những người nước ngoài trong những cửa hàng bán băng đĩa nhỏ bên đường và những cô gái bán đĩa e thẹn.
Quỳnh nhớ căn phòng nhỏ với tiếng sóng hồ Nhĩ Hải rì rào và chỗ bán cá nướng.
Quỳnh nhớ quán bar ở Tây Tạng có trà sữa và người phụ nữ bán hoa dành dành.
Quỳnh nhớ một đêm ở Lệ Giang, họ uống loại rượu thơm tên là Lệ Giang Tiểu Thiếp.
Quỳnh nhớ cảm giác say mê của âm nhạc Budha và hình ảnh đức Phật to lớn, trầm tĩnh trên đĩa.
Quỳnh nhớ họ đã mua hình nộm bằng gỗ, một đôi vợ chồng mặc trang phục dân tộc Nạp Tây.
Quỳnh nhớ Trầm Hoà mua tặng cô đôi hài cỏ đan bằng tay của bà lão người Nạp Tây, trên giày có đính đồng tiền đồng khắc hình chữ Phúc.
Quỳnh nhớ bếp lửa trong quán rượu nhỏ, họ uống rượu rồi tựa vào nhau ngủ thiếp đi.
Quỳnh nhớ quán rượu có ban nhạc, họ đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cô khi hát bài “Ánh trăng tình em”, và người đàn ông của cô đã hát bên tai cô.
Quỳnh nhớ bảng thông báo của nhà trọ, có những mẩu thông tin tìm người đồng hành.
Quỳnh nhớ họ đã mua tấm bản đồ vẽ tay và cuốn vở làm từ giấy tái sinh trong một hiệu sách.
Quỳnh còn nhớ...
Quỳnh rất khó tưởng tượng ra, nếu thời gian đó Trầm Hoà không đưa cô đi, cô sẽ chìm sâu tới mức độ nào - thần kinh suy nhược, mắt mũi lờ đờ, suốt ngày phải dựa dẫm vào những viên thuốc trắng nhỏ.v.v...
Họ ngồi máy bay tới Côn Minh, đi tiếp tàu hoả tới Đại Lý. Trên tàu đi Đại Lý, Trầm Hoà ôm lấy Quỳnh, nhẹ nhàng nói với Quỳnh: “Đến Đại Lý, cuộc sống sẽ trở nên rất giản dị, mỗi ngày mình sẽ đều được nghe nhạc, được ngủ, được đi dạo. Mình có thể mở quán rượu hoặc quầy sách nhỏ ở đó“. Trầm Hoà vừa nghĩ vừa cười. Anh hỏi: “Em thấy mình nên mở hiệu gì?“.
Quỳnh nói: “Mở tất, ban ngày ở trong hiệu sách, buổi tối ở quán rượu“.
Trầm Hoà cười:
“Không được, em đi đến đó để tắm nắng, không được suốt ngày ở trong nhà“.
Quỳnh khi đó đang sốt, nhưng cô cảm thấy mình đã hoàn toàn tỉnh trí. Cô rất mệt, thèm ngủ. trước khi ngủ, cô nói lí nhí: “Em cảm thấy mình như một đôi vợ chồng trẻ đang bỏ trốn“.
Chuyến tàu đó chạy một ngày một đêm, dọc đường là những ga nhỏ dường như không tên. Toa tàu cũ kỹ, tối tăm, bốn bề hết sức yên tĩnh. Hai người nằm chật trên giường nằm tầng một. Nửa đêm Quỳnh tỉnh dậy, vén rèm cửa sổ. Ánh trăng ùa vào đầy khoang, phủ lên mặt Trầm Hoà. Cô nhìn thấy từng nốt ruồi, từng nếp nhăn và cả rãnh sâu ở cằm. Cả vết sẹo lõm dài chừng hai xăng ti mét bên phải khuôn mặt anh. Quỳnh thò tay vuốt nhẹ vết sẹo, ánh trăng cũng như chuyển động theo cô, dịu dàng như muốn lấp đầy vết sẹo.
Trầm Hoà ôm lấy cô, thủ thỉ rằng đó là huy chương kỷ niệm một lần đánh nhau với bạn hồi nhỏ. Anh nói, tất cả đều sẽ bình phục, vết thương lòng cũng như vết thương da thịt đều thế, và đều trở thành những tấm huy chương kỷ niệm. “Khi em được ban tặng cho một tấm huy chương, em sẽ trở nên can đảm hơn, dạn dày hơn, tự hào hơn“.
Quỳnh thở dài, chỉ vào ngực mình: “Ở đây em đã có rất nhiều huy chương kỷ niệm“.
Trầm Hoà xoa đầu cô, nói: “Vì vậy em là một Quỳnh rất cừ khôi“.
Quỳnh lại sờ lên vết sẹo của Trầm Hoà, thầm nghĩ, đúng rồi, chúng sẽ trở thành những vết sẹo lồi hoặc lõm. Cũng như trái đất không khóc lóc vì những dải núi hoặc đại dương, chúng ta cũng không cần phải khóc lóc vì những vệt lồi hoặc lõm kia.
Trầm Hoà nhìn ra ngoài cửa sổ nói với Quỳnh, “Tàu hoả rất ghê gớm, em có thấy thế không?“.
“Ghê gớm gì?” Quỳnh ngơ ngác.
Trầm Hoà không trả lời ngay, anh kéo Quỳnh ra ngồi ở hàng ghế nhỏ bên lối đi dọc toa tàu. Anh chỉ cho Quỳnh xem đường ray rồi nói: “em biết không, hồi nhỏ có thời gian anh ở nhà bà ngoại ở quê. Ở đó rất gần đường tàu, bọn anh hay ra đường tàu chơi. Em có biết cách làm đồ chơi từ mấy cái đinh sắt nhỏ và dài không?“.
Quỳnh lắc đầu. Trầm Hoà kể tiếp: “Bọn anh đặt một chiếc đinh sắt lên đường ray, rồi tránh ra xa. Khi tàu hoả hú còi chạy qua xong, bọn anh đến gần đường ray nhặt chiếc đinh đó lên. Nó đã bị cán dẹp lép mà còn sáng bóng nữa, hình một thanh bảo kiếm. Đó là thứ con trai bọn anh thích nhất. Em thấy tàu hoả có ghê gớm không“.
Quỳnh tưởng tượng ra hình thanh kiếm bé tẹo còng queo nên bật cười, gục gặc đầu: “ghê thật“.
Nhưng Trầm Hoà vẫn nói nghiêm chỉnh: “Nhưng vẫn còn một thứ ghê hơn tàu hoả nữa. Đó là thời gian. Thời gian vụt qua, mọi thứ đều trở nên bằng phẳng và trơn tru“.
“Lại là một tấm huy chương kỷ niệm!” Quỳnh tiếp lời.
“Ừ, một huy chương“.
“Nhà” của hai người ở Đại Lý là một căn phòng nhỏ trên tầng hai của một nhà khách. Trong phòng ẩm ướt, bị dột lúc mưa. Nhưng bù lại phía trước có một ban công rất lớn trồng đầy hoa. Ánh sáng trong phòng tương đối đầy đủ, hơn nữa còn có một gian bếp riêng, bếp và quạt hút gió đều bé xinh xinh như trò chơi gia đình. Quỳnh và Trầm Hoà ngày nào cũng ngủ đến gần trưa, sau đó tắm gội. Cũng chẳng cần sấy tóc, chỉ lau qua loa xong là có thể dạo bước trên con đường Hộ Quốc nổi tiếng. Hai người đều mặc quần áo giản dị bằng vải thô, rộng rãi, thoải mái. Quỳnh kẹp tóc lên, dùng nồi to vo gạo nấu cháo. Rồi cô gọi cô bé gánh trái cây bán dạo, mua một chùm khế mọng nước, dùng váy bọc lấy chúng. Họ vừa ăn vừa lắc lư nghe nhạc. Chiếc ti vi cũ inches rất “xập xệ”, mỗi lần trời mưa là chẳng xem thấy gì nữa.
Trầm Hoà và Quỳnh hoà nhập với những người thanh niên ở đó rất nhanh chóng. Mọi người đều thích họ, bởi vì hai người biết nhiều, từng trải, có những câu chuyện họ chưa từng nghe, từng thấy. Hai người lại rất rộng rãi, thường lấy đồ ăn và tiền chi bọn trẻ con nhà nông. Mọi người coi họ như thành viên của cả đại gia đình, rủ họ tham gia mọi hoạt động. Quỳnh vẫn chưa khoẻ hẳn, cô rất vui vẻ đứng xem bên ngoài. Quỳnh thích xem Trầm Hoà đá bóng với bọn họ. Trời đất bao la, khiến người ta muốn hò hét cho thoả thích. Khi trời tối, mọi người lén đi hái trộm đào trong các vườn, dù ở nhà đã mua đào rồi. Chỉ vì thích thú cảm giác hồi hộp đó. Thực ra cũng chỉ hái vài trái tượng trưng mà thôi, nhưng cũng vội vàng tháo chạy như những tên đạo chích thật sự
Về sau hai người đến Lệ Giang, ngồi nghe đàn hát ở trong quán bar. Quỳnh ghi lưu niệm trên sổ của nhà quán, nhưng không cho Trầm Hoà xem. Quỳnh viết: Cảnh đẹp buổi sớm. Khi đó Quỳnh nghĩ nếu nhiều năm sau Trầm Hoà quay lại đây, đọc được điều cô viết trong này, nhất định sẽ xúc động vô cùng...
Họ phóng sinh cá vàng bên sông Lệ Giang. Trời ngả tối. Thiếu nữ mặc trang phục Nạp Tây đứng bên chiếc thùng gỗ đựng đầy cá chép vàng. Tay cô cầm ngọn nến hình hoa. Trầm Hoà đưa tiền cho cô gái, cô bèn vớt hai chú cá từ trong thùng ra, tay kia xách nến dẫn Trầm Hoà và Quỳnh đi ra bờ sông.
Hai người cúi xuống nhìn nhau mỉm cười rồi nhắm mắt cầu ước. Sau đó họ thả hai chú cá vàng rực xuống sông. Thoắt một cái, chúng đã bơi đi. Dưới ánh sáng le lói của ngọn nến, chỉ thấy hai chú cá ve vẩy chiếc đuôi vàng, bơi song song xa dần rồi mất hút.
Đêm Lệ Giang náo nhiệt lời ca điệu múa, giống như đất Giang Nam khi xưa, đâu đâu cũng rực rỡ những chiếc đèn hồng. Họ ngồi uống rượu bên dòng sông nước trôi rì rào. Ánh lửa, ánh đèn ấm áp khiến họ chìm dần vào giấc ngủ mơ màng. Trầm Hoà nói, ước gì cả đời được sống như thế này thì khoái biết mấy. Hồi đó đã sang hè, bệnh tình của Quỳnh dần dần thuyên giảm. Chẳng biết có phải thuỷ thổ đất Vân Nam thực sự có tính năng điều trị bệnh hay không. Da Quỳnh phơi nắng đen đi một chút, sức khoẻ ngày một tăng. Những lúc hái trộm đào, cô đã có thể dẫn đám con gái bỏ chạy.
Hai người đi lại giữa hai mảnh đất Đại Lý và Lệ Giang, thăm quan núi tuyết, thành cỏ... Cuộc sống của họ đơn giản đến hết mức có thể. thậm chí không đọc sách, không viết lách. Mơ màng ngủ thiếp đi bên sông Lệ Giang, vô tư vô lự, hai người đều cảm thấy cả đời được như vậy thì đẹp biết mấy. Thế nhưng, có thật sự vô tư vô lự không?
Trầm Hoà biết có lúc Quỳnh bỗng tỉnh dậy vào nửa đêm, ngồi trước bàn, Quỳnh viết lên cuốn sổ làm từ giấy tái sinh, hết trang này đến trang khác. Trầm Hoà tin mình là người hiểu Quỳnh hơn ai hết, anh hiểu viết lách là bản năng từ trong bụng mẹ của Quỳnh. Cho dù con đường có gập ghềnh trắc trở đến mấy, cho dù phải rời xa con đường đó bao lâu, cuối cùng cô cũng sẽ trở lại với nó. Tùng Vy là vậy, và Quỳnh cũng thế. Anh biết Quỳnh hoàn toàn tự nguyện sống những ngày “ẩn dật”, nhưng trong lòng cô vẫn có nuối tiếc. Có lẽ trong đêm tỉnh dậy, nghĩ về con đường sáng tác vừa mới mở ra, những vinh dự và thành quả vừa mới gặt hái... cô sẽ thấy nhớ những độc giả ưa thích cô... Nhưng cô chỉ có thể viết trong những đêm tỉnh giấc như thế, cô sợ Trầm Hoà biết được tâm sự của mình.
Cuộc sống như vậy đối với Quỳnh, lẽ nào không phải là một sự ức chế?! Người con gái đã đi qua một tuổi thơ đầy ức chế, rồi lại một tuổi thiếu nữ đầy ức chế, vì sao cô lại phải tiếp tục chịu đựng cuộc sống trong một thời gian ức chế kéo dài có thể đến tận cuối cuộc đời? Có lẽ Quỳnh được sinh ra là một con người độc lập. Chẳng lẽ biến cô thành một người vợ nhỏ, sống dựa dẫm vào anh chính là lý do mà anh yêu cô? Trầm Hoà cảm thấy cuộc đời thay đổi vô định, hợp tan đều không thể biết trước. Nhưng anh đã từng nói sẽ đi cùng cô suốt con đường, với tát cả sự cố gắng của mình. Đã vậy, có khác gì khi ở những chỗ khác nhau về địa lý! Hơn nữa, Trầm Hoà biết Quỳnh giờ đây đã kiên cường hơn trước rất nhiều. Hơn nữa, còn có Tùng Vy... Vậy anh đã có thể rời xa cô lúc này không? - cô ấy đã tìm đến với anh, anh là niềm hy vọng sau cùng của cô gái đáng thương này.
Quỳnh biết Trầm Hoà đã hy sinh rất nhiều cho cô. Anh đã bỏ cả gia đình, người thân, bỏ cả Tùng Vy để mang cô tới đây, chăm sóc cô từ những điều nhỏ nhặt nhất, bên cô như hình với bóng, giục cô đi tắm nắng. Phải, cô luôn tràn trề ánh nắng, nhưng tình yêu kiểu này không khỏi quá ỷ lại. Quỳnh không nghĩ được nếu một ngày Trầm Hoà ra đi khỏi cuộc đời cô, cô sẽ tiếp tục cuộc sống như thế nào. Trầm Hoà suốt ngày phải gánh gánh nặng là cô, vì cô mà tách mình ra khỏi thế giới, liệu anh có cam lòng chăng? Có thể cam lòng mãi mãi không? Tùng Vy tâm thần hoảng loạn, không nơi nương tựa, vẫn đang mong anh về chăm nom. Giữa họ là mười năm quan hệ, làm sao nói dứt là dứt luôn ra được. Còn cô - cô không muốn tự lừa dối mình, cô rất rất muốn được tiếp tục sáng tác. Đó là con thuyền đến với cô trong giấc mơ, cô vĩnh viễn không biết hết được trên đó có bao nhiêu điều kỳ diệu, chỉ có bước lên đó, cùng nó đi đến những miền đất còn chưa khám phá...
Mùa hè kết thúc, hai con người đầy tâm sự đi cùng nhau dưới nắng. Thành cổ buổi sáng có mưa cầu vồng. Đã khá muộn nhưng cửa hàng hai bên phố vẫn chưa thèm mở cửa. Quỳnh và Trầm Hoà đứng giữa lòng con đường nhỏ, một đầu kéo đến tận hồ Nhĩ Hải, đầu kia trải tới tận núi Đại Thương. Họ nhìn nhau bình thản, cả thành cổ yên ắng, chỉ thoang thoảng tiếng nhạc “bóng hoa Ấn Độ” vọng tới từ hiệu bán băng đĩa vẫn còn đóng cửa.
Trầm Hoà mỉm cười với Quỳnh: “Mình về thôi“.
“Vâng“. Quỳnh trả lời.
“Anh biết sáng tác mang lại cho em một niềm vui rất lớn. Hơn nữa đó vốn là tài sản thuộc về em. Anh không muốn em vì phải đánh mất chúng mà trở nên u buồn lặng lẽ“. Trầm Hoà nói vậy.
“Em cũng thế. Em không muốn là một kẻ chạy trốn“. Quỳnh trả lời.
“Ư, Quỳnh có nhiều huy chương kỷ niệm như thế, thật là đáng nể, sao lại phải làm kẻ chạy trốn!“. Trầm Hoà khẳng định.
“Nhưng, em hơi sợ...” Quỳnh bỗng nói.
“Sợ gì?”
“Em sợ chúng ta lại bị cuốn vào bao nhiêu thị phi rắc rối. Em sẽ mất anh... nếu mất anh thì em biết làm sao?”
“Không đâu. Anh sẽ đi cùng em mãi mãi, bằng tất cả sự cố gắng“.
“Nhưng nếu anh không thể cố nữa thì sao?”
“... Thực ra, không có gì phải sợ cả. Em còn nhớ anh đã nói, thoắt một cái thời gian bao trùm lên tất cả, mọi thứ đều sẽ trở nên bằng phẳng, trơn tru“.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Cùng thời gian đó, Mạn đang sống bức bối và trục trặc ở nhà số 3 phố Đào Lý. Gã họ Trịnh đổ bệnh đã lâu, nằm liệt giường. Mạn không thể nào suốt ngày ở trong nhà chầu chực bên con người tàn tật đó để hầu hạ gã. Bà thuê cho gã một người giúp việc, bản thân mình vẫn đi chơi, thăm thú bè bạn, đánh bài, dạo phố. Bà luôn là người biết giữ đường rút lui cho mình. Nhưng lần này vì ham chơi mà mất cảnh giác. Gã họ Trịnh đến mùa thu thì ra đi, điều đó cũng chẳng làm cho Mạn thấy đau buồn, không phải lần đầu làm một quả phụ, hơn nữa cuộc hôn nhân đó đã sớm chỉ còn trên danh nghĩa. Nhưng vấn đề ở chỗ, gã họ Trịnh lại có chuẩn bị từ trước, lặng lẽ nhượng tài sản của mình lại cho con gái đang ở Mỹ, đặt cọc luôn cả ngôi nhà. Gã không để lại cho Mạn lấy nửa xu. Đó là sự trả thù dành cho Mạn. Khi Mạn được luật sư thông báo cho biết điều đó, bà vẫn đang mặc bộ lễ màu đen đưa tang chồng. Bà không tin vào tai mình. Quả thực bà đã sơ hở, bà hơi nhầm rằng ai cũng lương thiện thật thà như Lục Dật Hán. Trong buổi đưa tang, Mạn nổi cơn điên, dùng chìa khoá đập vỡ lớp kính trên di ảnh của gã họ Trịnh, rồi quay mình bỏ đi.
Mạn vừa về đến nhà số 3 phố Đào Lý, người của công ty địa ốc đã tới, yêu cầu bà mau chóng rời khỏi. Mạn không hề ngờ rằng mình cũng có ngày như thế.
Mạn đứng trên ban công phòng ngủ trước đây của Lục Dật Hán, nhìn xung quanh ngôi nhà, bỗng cảm thấy nơi đây thật lạnh lẽo. Dật Hán đã chết ở đây, gã họ Trịnh cũng chết ở đây, giờ đây cái chốn này cũng đang dồn đuổi bà phải ra đi. Nhưng Mạn của bây giờ đã không còn là Mạn hơn hai mươi năm trước. Thậm chí đã không còn là Mạn của một vài năm trước. Bà đã luống tuổi, không còn khả năng, cũng không còn sức lực đi chinh phục trái tim của một người đàn ông nào khác. Mạn giờ đây không tiền không nhà, làm sao để sống đây! Mạn ôm lấy ban công và khóc, trong lòng nghĩ lẽ nào đây chính là báo ứng.
Hôm đó, Mạn nhận được bức thư của Tùng Vy gửi tới. Trên thực tế, từ khi Tùng Vy về nước, mỗi cách vài tháng lại gửi cho Dật Hán một lá thư. Tùng Vy chỉ nói rằng xin được Dật Hán tha thứ cho mình, mong Dật Hán đến gặp dù chỉ một lần. Tùng Vy không dám đường đột đến tìm Dật Hán, vì không biết nếu Trác bỗng nhìn thấy mình thì sẽ ra sao. Mặc dù thần kinh của Tùng Vy không được tỉnh táo, nhưng bà vẫn luôn biết mình từng khiến Trác phải tổn thương, nên một khi đã lùi ra phía sau giới hạn đó, thì sẽ không bao giờ dám đường dột quấy rầy cuộc sống của hai cha con họ. Tất cả các bức thư đều rơi vào tay Mạn. Bà ta bóc ra đọc một chút rồi huỷ luôn không suy nghĩ. Nhưng hôm nay, bà xem thư, vẫn là những nội dung như thế, Tùng Vy nói nếu anh có thể tha thứ cho em, mong anh đến gặp em một lần. Mạn định vứt bức thư đi, nhưng chợt phát hiện ra địa chỉ ghi trên phong bì. Mạn sững người - đó là một thôn nhỏ ở ngoại ô, ít người biết tới. Cũng không có gì ghê gớm, nhưng Mạn bỗng nghĩ hay là mình sẽ tìm gặp Tùng Vy, biết đâu có thể xoay được ít tiền từ đó.
Ý nghĩ đó lập tức cổ vũ cho lòng tham của Mạn. Phải rồi, bà ta luôn gặp địa chỉ này trên thư, sao chưa bao giờ nghĩ tới việc đi tìm Tùng Vy. Mãi đến hôm nay, khi hết sức cần tiền mới chợt nghĩ ra. Có lẽ đây là ông Trời đã ban cho mình một con đường mới để đi. Quả là Trời không tuyệt tình người. Lần này cũng thế, bà ta nhất định tìm ra con đường giải thoát cho mình.
Mạn dựa vào địa chỉ trên phong bì để đi tìm Tùng Vy. Khi phát hiện ra đó là một khu bệnh xá, bà hết sức kinh ngạc. Vì vậy càng quyết định phải vào tận nơi xem sao. Mạn cứ theo địa chỉ, tìm đến tận gian phòng cần đến. Cái mà bà ta nhìn thấy là một phụ nữ trung niên tiều tuỵ xác xơ, ngồi xoay vào góc tối đang nghịch một cây bút bi. Mạn kinh ngạc vô cùng, nghĩ chắc là mình đã nhầm, bèn định trở ra. Nhưng rồi bà ta ngó lại người phụ nữ, không kìm được gọi thử một tiếng: “Tùng Vy?“.
Người phụ nữ kia cực kỳ hoảng sợ, vội quay đầu ra nhìn: “Chị gọi tôi à? Tôi không quen chị, tôi không quen chị...“.
Vốn Mạn chỉ định gọi thế thôi, nhưng không ngờ người kia đã quay đầu lại. Mạn càng ngạc nhiên hơn, người phụ nữ đó quả thực là Tùng Vy! Trời ơi, không phải là đang nằm mơ, người phụ nữ khô đét tiều tuỵ trốn trong góc tối của bệnh viện tâm thần này, chính là nữ nhà văn nổi tiếng Tùng Vy! Ngắm kỹ một chút, quả là có những nét giống như hình Tùng Vy đăng trên báo. Mạn bỗng thấy cảm xúc trong lòng dâng lên phức tạp. Nhưng bà cố gắng để tỏ ra bình thản, chậm rãi nói với Tùng Vy: “Chắc là chị nhầm rồi, tôi mới đi qua đây, có gọi chị đâu!“.
Tùng Vy đã hốt hoảng nép vào góc tường, run cầm cập. Đôi mắt sợ hãi và cảnh giác nhìn Mạn không chớp.
Mạn đi ra khỏi cánh cổng bệnh viện tâm thần, trong lòng phấn khích không nói nên lời. Bà ta nghĩ ông Trời quả thật không tuyệt đường của người. Đây chính là con đường mới mở trước mặt Mạn: Bà đã biết được một bí mật to lớn, hóa ra Tùng Vy trốn ở nơi này.... Đối với Tùng Vy, Mạn cũng có không ít căm ghét: Từ khi rời khỏi Lục Dật Hán, đến Lục Dật Hán chết, rồi lại họ Trịnh kia chết không để lại cho Mạn một xu, tất cả mọi việc này xảy ra với Mạn, nguyên nhân cốt lõi chính là Tùng Vy. Không phải cái bóng của Tùng Vy vẫn lởn vởn trong nhà số 3 phố Đào Lý, mà luôn ở trong trái tim của Dật Hán. Nếu không vì điều đó, Mạn đã không cảm thấy mất an toàn đến thế. Nếu không có Tùng Vy, Mạn nghĩ, mình bây giờ có lẽ vẫn đang là bà Lục, ở yên lành thoải mái trong ngôi nhà ấy.
Bao năm nay Mạn vừa ghen tức, vừa hận Tùng Vy. Hôm nay nhìn thấy Tùng Vy thảm hại trong tình cảnh như thế không khỏi cảm thấy vui sướng, lòng cảm thấy nhẹ nhõm ra nhiều. Bà ta lại nghĩ, một bí mật lớn như vậy, nếu bán cho toà soạn, nhất định kiếm được một khoản tiền. Lúc này đây, thứ Mạn cần chẳng phải là tiền hay sao! Nụ cười nở dần trên môi Mạn, bật lên thành tiếng. Ông Trời vĩnh viễn không tuyệt đường của ta!
Chẳng bao lâu sau, sự việc bê bối đã diễn ra.
Tin tức về Tùng Vy được đăng tit lớn trên một tờ báo nổi tiếng. Tin đưa về câu chuyện ít người biết đến về sự thật của Tùng Vy. Quỳnh đã biết Tùng Vy ở trong bệnh viện, nhưng khi đọc được bài phóng sự, cô vẫn kinh ngạc đến nghẹn lời.
Bài báo nói, qua nhiều năm tìm gặp Tùng Vy và bạn bè, hàng xóm, bạn học của Dật Hán, thậm chí cả bà cô mà Tùng Vy không hề lui tới - đã bị thuyết phục bởi một khoản tiền đáng kể - đã đồng ý “chia sẻ” bí mật với mọi người. Phóng viên của báo thậm chí đã ra nước ngoài tìm hiểu. Nhờ đó, họ đã tập hợp được hình ảnh đầy đủ về một cuộc đời ít ai biết được nữ văn sĩ Tùng Vy.
Hai mươi mốt năm về trước, Tùng Vy một thân một mình đến Bắc Kinh, tìm đến một chàng trai mà cô quen trong một lần đi du lịch - Lục Dật Hán. Đó là thời gian con đường sáng tác của Tùng Vy vừa mới bắt đầu. Bỏ lại đằng sau sự phản đối của gia đình, cô đã ra đi để đến với tình yêu. Có lẽ Lục Dật Hán lúc đó cũng không thể ngờ rằng người con gái cùng anh nảy sinh tình cảm trong chuyến du lịch ấy đã không hề chùn bước trước mọi trở ngại. Từ đó, Tùng Vy và Dật Hán chung sống bên nhau, cô bắt đầu sáng tác. Nhưng Tùng Vy sống nơi tha phương, không họ hàng thân thích, lại gặp không ít trắc trở trên con đường sáng tác của mình, cô dần dần trở nên yếu đuối, mẫn cảm, ròồ tâm lý không ổn định, thường cáu giận, tự hành hạ mình, thậm chí nảy sinh cãi cọ với mẹ của Dật Hán. Không lâu sau, mẹ Dật Hán qua đời trong u uất, Dật Hán vô cùng đau đớn, quyết định chia tay với Tùng Vy. Tùng Vy đau khổ tuyệt vọng, rời khỏi căn nhà của Dật Hán, nhưng cô đã không đi khỏi thành phố này. Bởi khi đó, cô đã mang trong mình giọt máu của Dật Hán. Nghe nói Tùng Vy quyết định sinh hạ đứa con đó, là để báo thù Dật Hán. Vì sự báo thù đó, Tùng Vy đã chịu vô vàn cực khổ. Vì tinh thần bất an, dằn vặt cả về thể xác lẫn tinh thần, Tùng Vy nghiện rượu, hút thuốc lá. Thai nhi bị ảnh hưởng xấu, bảy tháng sau Tùng Vy đẻ non, sinh ra một đứa trẻ yếu ớt bệnh tật. Tùng Vy ôm con đến đưa cho Dật Hán, bảo với ông rằng đó là dấu ấn mà cô để lại trong cuộc đời ông, không bao giờ có thể xoá nhoà. Mỗi khi nhìn thấy nó, ông sẽ phải nhớ đến cô. Tùng Vy nói rồi bỏ đi, sau đó ra nước ngoài. Nhưng lúc này, Tùng Vy không còn là một người bình thường nữa, thêm vào đó là thời gian ở nước ngoài khiến bệnh tâm thần của Tùng Vy ngày một nặng thêm. Còn Lục Dật Hán, hết sức gian khổ với sinh mệnh bé bỏng chợt đến với mình. Sinh mệnh đó đến bởi vì lòng căm hận, ông quyết định sẽ không bao giờ nói với con trai rằng nó đã đến với thế giới này như thế nào. Vì vậy, từ nhỏ ông đã nói với nó rằng, mẹ của nó mất từ khi còn rất trẻ. Dật Hán đã từng vì chuyện này mà sống khép kín một thời gian, nói với mọi người mình đi du lịch đường dài. Mọi người đều ngỡ Dật Hán đã kết thân với một phụ nữ trong chuyến du lịch đó và sinh ra đứa trẻ. Hầu như không có ai biết Trác chính là con trai của Tùng Vy. Chỉ có gia đình anh trai của Tùng Vy xác nhận về điều đó, cũng nói rõ động cơ của chuyện này là báo thù.
...
Lại một sự thật nữa phơi bày. Quỳnh xem hết bài phóng sự, vẫn nắm chặt lấy tờ báo run rẩy. Cô lập tức chụp lấy điện thoại, gọi cho Trầm Hoà, vừa nghe thấy tiếng của Trầm Hoà, Quỳnh liền bật khóc:
“Trầm Hoà, em nghĩ, em nghĩ... Trác chính là con trai của Tùng Vy...”
Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu, chỉ nghe thấy tiếng Trầm Hoà đang thở. Lâu sau Trầm Hoà mới trả lời: “Anh cũng mới đọc báo“.
“Anh ơi, muộn mất rồi. Nếu em không vì lòng đố kỵ, không tuyệt tình với Trác như vậy, nếu em quan tâm Tiểu Nhan hơn, lắng nghe cô ấy nói, thì mọi việc đã không như ngày hôm nay. Biết đâu mẹ con họ đã có cơ hội gặp nhau. Vậy mà bây giờ, họ không bao giờ gặp được nhau nữa, vĩnh viễn không bao giờ... Tiểu Nhan hận em, bởi vì em không chăm sóc con của Trác, giờ đây Tùng Vy cũng sẽ hận em vì đã không để cho mẹ con họ được gặp nhau...” Quỳnh khóc thảm thiết.
“Thôi mà Quỳnh, em đừng tự trách mình như thế. Em cũng biết là Tùng Vy đối với Trác không có nhiều tình cảm, cậu ấy chỉ là một thủ đoạn báo thù của Tùng Vy mà thôi. Cũng có thể bà ấy không muốn gặp lại Trác“. Giọng Trầm Hoà thật thấp, chậm rãi an ủi Quỳnh.
“Nhưng Trác muốn! Trầm Hoà anh biết không, Trác đã mong được gặp mẹ đến như thế nào. Cậu vẫn luôn có một linh tính kỳ lạ, cậu ấy luôn tin rằng mẹ vẫn còn sống, một ngày nào đó sẽ quay trở lại. Cậu ấy nói với em, em còn không tin, nhưng em vẫn giả vờ đồng tình, em còn nói sẽ đợi mẹ cùng với cậu ấy, cho đến khi mẹ cậu ấy quay trở về...” Quỳnh nghẹn ngào.
“Quỳnh, nếu em là Trác, vừa gặp Tùng Vy em đã đột ngột ra đi, điều đó được coi là một ân huệ sao? Gặp nhau như thế không có sự tồn tại của tình yêu, đó chỉ là sự thật lên tiếng. Sự thật luôn là thứ khiến người sống phải chịu giày vò. Cũng như em phải chịu giày vò về chuyện đứa con của Trác. Thế nhưng sự thật đối với một người buộc phải rời bỏ cõi đời này, có còn quan trọng lắm không? Cái chết thật nhẹ, cũng thật nặng, thật cao xa, chúng ta cần để cho người chết được nhẹ nhàng khi ra đi“.
“Làm thế nào để người chết được nhẹ nhàng?” Quỳnh bình tĩnh trở lại, ngơ ngác hỏi.
“Cũng giống như đóng nắp quan tài hạ huyệt, chôn những thứ liên quan mật thiết đến họ, không bao giờ xới tung chúng lên nữa. Không nên khuấy động bất cứ chuyện gì khiến người chết chẳng an. Hãy để cho thời gian lấp bằng khoảng đất đó. Nghe anh, Quỳnh ạ, em đã từng nghĩ nỗi đau của em đến từ nơi nào chưa? Nó đến từ việc em cứ giữ khư khư lấy người đã khuất, không chịu quên đi. Tiềm thức của em luôn nhắc nhở em, ông ấy rất quan trọng, em không được quên. Vì thế, em đã không chịu để cho những thứ liên quan đến người chết được nằm yên trong đất. Một khi có những sự việc động chạm đến ông ấy, em lập tức cuốn mình vào trong đó, thậm chí lựa chọn cách hành hạ chính mình. Bởi vì làm như thế, em sẽ thấy ít nhất mình đã không quên được ông ấy. Nhưng đó không phải là điều người đã khuất mong muốn. Ít nhất nếu em chìm vào giấc ngủ vĩnh viễn đó, anh sẽ chỉ mong rằng mọi chuyện được yên nghỉ, phẳng lặng dưới lớp đất bằng, sẽ không ai đào chúng lên, khiến cho anh cảm thấy được an toàn“.
Quỳnh cảm thấy Trầm Hoà nói rất đúng. Bao lâu nay, cô vẫn chọc vào thần kinh đang gần như tê dại của mình, bởi cô sợ mình sẽ lãng quên những tình cảm vốn rất sâu đậm. Nhưng điều đó với cô là một sự dày vò.