Giữa Tần Yên, chung quy đã bắt đầu cuộc đàm hòa bí mật, gian nan. Vừa ồn ào vừa lằng nhằng, vừa đàm vừa thỏa hiệp, chậm rãi từng chút một, đã moi ra đường đáy của đối phương.
Người Tần tấc đất không nhượng, mà người Yên rốt cuộc không dây dưa nhiều trên việc cắt nhượng đất nữa. Sau tranh luận dài dòng nhùng nhằng, điều kiện cuối cùng người Yên đưa ra, là khoản vàng bạc, tiền tài, nữ tử, đinh khẩu cực lớn.
Người Yên nói: Yên Tần vốn là thông gia, lần này xuất binh, thuần túy là vì vương tử Tần quốc nhờ vả, đến đây bình loạn cục, thanh quân trắc, hoàn hoàn toàn toàn là vì lợi ích của Tần quốc mà dâng sinh mệnh binh sĩ Yên quốc. Hiện giờ lui binh, muốn đòi Tần quốc một chút quân phí, một ít trợ cấp cho người tử nạn, đây hoàn toàn là đúng lý chứ?
Hai bên đã phải giả tươi cười đến đàm hòa, Kỳ Sĩ Kiệt và Liễu Hằng phụ trách đàm phán cũng chỉ đành bịt mũi, ngoài cười trong không cười mà cố nuốt lời đổi trắng thay đen như vậy vào bụng.
Hòa nghị cầm đến, chỉ nhìn con số vàng bạc sư tử rộng miệng phía trên kia, đã đủ để các tướng lĩnh cao cấp Tần quân nghèo đến mức cả ngày chỉ có thể ăn cải mặn lương thô này nổi trận lôi đình, chỉ cầu đánh một trận.
Song Tần Húc Phi một mình đóng cửa tự hỏi một ngày một đêm, câu trả lời cuối cùng là, vô luận nữ tử nam đinh, đều là bách tính Tần quốc, cũng giống như đất đai, không thể đưa cho người Yên. Y tình nguyện gia tăng quân phí bồi thường lên mấy phần, để bồi thường cho Yên quân. Nhưng Tần quốc hiện giờ cùng khổ khốn đốn, cho dù đền tiền, cũng phải chia mấy năm chậm rãi trả đều, mà Yên quốc bởi vì đã biểu thị thành ý, chẳng những phải lui binh, còn phải giúp Tần quốc làm cho quân đội Ngô Vệ tan tác, đồng thời cam đoan kinh thành không bị tàn sát, tù binh không bị mang đi hoặc sát hại.
Tin tức sau khi hồi báo cho Phong Trường Thanh, rất nhanh chóng được hồi âm.
Yên quân có thể đáp ứng điều kiện của Tần Húc Phi, nhưng Tần quốc phải cam đoan không để Yên quốc mang tội danh phản minh bội hứa. Nói cách khác, Yên quân cho dù triệt quân, cho dù sau lưng đâm dao Ngô quân Vệ quân, cũng phải là phong phong quang quang, đường đường chính chính, Tần quân không được cản trở, không được vạch trần.
Ngoài ra, tất cả bồi thường của Tần quân đã phải chia nhiều năm mới có thể trả hết, vậy phải có một bảo chứng, trên hợp nghị chính thức, phải có Tần Húc Phi ký tên đóng dấu, còn cần nhân vật trọng yếu của nước thứ ba (Phương Khinh Trần) đóng dấu làm nhân chứng và bảo chứng. Mà Phong Trường Thanh để biểu đạt thành ý, cũng sẵn lòng mượn lý do tuần tra quan tạp, rời Tần kinh, đến chỗ giao giới thế lực hai bên, tự mình mở thánh chỉ toàn quyền nghị hòa của Yên vương cho người Tần coi.
Tiền đề vẫn chính là, Tần Húc Phi có thể cùng Phương Khinh Trần đích thân đi gặp mình.
—
“Tam điện hạ, Phương hầu, Phong mỗ trong lòng thật là ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp, thật là tam sinh hữu hạnh.”
Vào một ngày trời trong gió lặng, ở nơi giao giới thế lực hai bên, trong từ đường đổ nát của một thôn trang con con không còn người ở, Tần Húc Phi, Phương Khinh Trần, Phong Trường Thanh, ba người đến từ ba quốc gia, từ lúc chào đời đến nay lần đầu tiên, ra vẻ hữu hảo gặp mặt.
Trước khi gặp mặt, Tần quân trước đó đã phái hàng loạt nhân mã, qua lại dọn dẹp bốn năm lần trong phạm vi mấy chục dặm nơi này, xác định không có phục binh ám toán gì mới đồng ý để Tần Húc Phi và Phương Khinh Trần đi. Về phần Phong Trường Thanh, trái lại bớt lo, căn bản không phái người điều tra. Thứ nhất hắn không phải chủ soái, mạng không đủ giá trị, đối phương không nên để mắt. Thứ hai, dù sao đối mặt với hai đại cao thủ, người ta muốn giết hắn bắt hắn đều là một tay có thể giải quyết ngay vấn đề, đâu cần mai phục khác, vì thế còn không bằng cứ phóng khoáng một chút cho rồi. Thứ ba căn cứ nội dung trong mật tín Dung tướng cho biết, đối với hòa nghị, Phương Khinh Trần sẽ chỉ dốc sức hiệp trợ, tuyệt không có đạo lý ra tay phá hoại, cho nên hắn cũng liền yên tâm lớn mật làm ra khí phái dũng giả thẳng thắn vô tư. Hơn nữa còn có thể thuận tiện làm mấy động tác nhỏ.
Lúc này ba bên đối mặt. Hắn đầu tiên thập phần kính cẩn, chấp lễ ngoại thần gặp quân chủ nước khác với Tần Húc Phi. Sau đó với Phương Khinh Trần, tuy rằng chỉ là chắp tay bình bình, nhưng vẻ thân cận vui sướng trên mặt kia lại rõ ràng như thế, chỗ nào như là đối với một vị địch nhân từng một tên bắn hắn rơi ngựa cực kỳ mất mặt, trái lại phải làm người ta cho rằng hai người họ là lão hữu cửu biệt trùng phùng, thật là cảm giác như gội trong gió xuân.
Ba người đi vào từ đường, phân biệt ngồi xuống, Phong Trường Thanh lại mỉm cười hàn huyên, tình chân ý thiết.
“Phương hầu, Yên Sở mặc dù xa cách ngàn dặm, nhưng uy danh của ngài, há là núi sông có thể cách trở. Yên quốc chúng ta từ trên xuống dưới, đều thập phần kính nể ngài.”
Mấy tướng lĩnh Tần quân đi theo, trên mặt ít nhiều đều có dị sắc, chỉ Tần Húc Phi vẻ mặt tự nhiên, bình tĩnh thong dong, vừa uống trà, vừa mỉm cười coi Phong Trường Thanh khắc ý phụng nghênh Phương Khinh Trần.
Phương Khinh Trần với Phong Trường Thanh tất nhiên là sắc mặt không thể đẹp. Người Yên quốc này cũng quá là nhàm chán, đã được bồi thường như nguyện, vì sao còn phải nhất định kéo y xuống nước, đây không phải được tiện nghi còn khoe mẽ sao?
Vốn y đến đã có phần không cam tâm không tình nguyện. Chỉ cần y vừa ra mặt, vừa thêm một con dấu trên văn kiện hòa nghị, vậy thì không chỉ là đại biểu cho bản thân y, mà là đại biểu cả Sở quốc làm một phương công chứng tham gia trong việc này, một khi Tần quốc đổi ý, Sở quốc cũng phải gánh vác trách nhiệm trên đạo nghĩa.
Từ trên tình cảm cá nhân mà nói, cho dù là cá nhân y, cũng lười ra mặt gánh thay Tần quốc, càng đừng nói vì Tần quốc mà liên lụy Sở quốc.
Mà với bản ý của Tần Húc Phi, cũng không muốn để y gánh vác liên lụy, nhưng việc này trọng đại quá mức, cho nên cuối cùng Tần Húc Phi vẫn chỉ đành không thể nề hà mà tìm y thương lượng, để y tự mình quyết định có nên can dự không.
Mà Phương Khinh Trần không hề do dự quá lâu, vẫn bằng lòng.
“Phương hầu văn võ toàn tài, trung nghĩa vô song, thiên hạ ai mà không biết, ai mà không hiểu. Năm đó biến cố triều Sở, chủ ta nghe nói mà lòng đau thần thương, Dung tướng cũng gõ nhịp mà than, rượu ngon tế xa, chỉ nói thiên hạ từ đây không còn anh hùng, đời này kiếp này vậy mà không có duyên gặp Phương hầu một lần, thật là rất tiếc.”
Không cần phải nói, nghe Phong Trường Thanh nghênh ngang bịa đặt phản ứng của Tiểu Dung như vậy, sắc mặt Phương Khinh Trần đã đen như đít nồi.
“Đến mức được Phương hầu trùng hiện nhân gian, vung tay hô một tiếng, Đại Sở một quốc, vô luận cao thấp, sĩ tộc sơn dân, không ai không theo, nhấc tay đỡ càn khôn, thớt ngựa hoành thương, bày mưu lập kế, chỉ mấy tháng mà Sở quốc đại định, cử động chống trời như vậy, chẳng những xưa nay chưa có, chỉ sợ về sau cũng không còn.”
Các tướng lĩnh Tần quân đứng sau họ mặt đều hơi xanh. Chuyện cũ năm xưa như vậy, đối với người Tần mà nói, tuyệt đối không phải hồi ức gì dễ chịu.
Phong Trường Thanh vẫn đang cực lực thổi phồng, nhiều lần nói Yên quân trên dưới quý mến Phương Khinh Trần cỡ nào, Yên vương với Phương Khinh Trần thần giao đã lâu như thế nào, năm lần bảy lượt mời Phương Khinh Trần đến Yên quốc làm khách, lại bao lần nhắc tới nhắc lui Dung quốc công với Phương Khinh Trần là coi trọng cỡ nào, để ý cỡ nào, muốn có cơ hội gặp mặt trường đàm cỡ nào.
Phương Khinh Trần nghe mà trong lòng bực bội, thế nhưng y có thể ngạo mạn vô lễ với thủ hạ của Tần Húc Phi, nể mặt Dung Khiêm, lại không thể không khoan dung Phong Trường Thanh một phần, nếu không y sớm đập văng con ruồi nhặng này ra khỏi phòng.
Mặc dù bực bội, lòng y cũng rõ ràng, Phong Trường Thanh là có tâm ly gián châm ngòi, vì thế Phương Khinh Trần ngược lại không chịu như tâm ý hắn, trên mặt thậm chí không biểu hiện ra ý gì là mất kiên nhẫn, chỉ thản nhiên giống như chẳng hề nghe thấy gì vậy.
Tần Húc Phi cũng thủy chung thong thả như thường, không mảy may bởi vì việc Phong Trường Thanh với Phương Khinh Trần tôn sùng quá đáng khắc ý thân cận mà có ý bất mãn đố kỵ gì.
Trong mắt y, Phương Khinh Trần vốn kinh tài tuyệt diễm, đáng để các quốc bỏ vốn lôi kéo kết giao. Không đến bỏ vốn kết giao đều là đồ ngốc. Về phần chút ác ý châm ngòi ly gián đó trong lời nói giữa vẻ mặt Phong Trường Thanh, y lại bất động như núi.
Nếu chút kỹ xảo này đã có thể khiến y không kiềm chế nổi mà nghi kỵ để bụng, thì y thật sự không đáng được Phương Khinh Trần nhiều lần cứu giúp, trong lòng tương giao.
Phong Trường Thanh vốn cũng không phải người da mặt đặc biệt dày, tuy là vì lợi ích của Yên quốc, được cơ hội này, dù sao phải thử đâm cái gai giữa hai người Tần Húc Phi và Phương Khinh Trần, nhưng hôm nay thấy thủ đoạn vô dụng, chẳng còn cách nào mặt dày mày dạn nhiều lời nữa, cười gượng đôi tiếng, liền quay về chính đề.
Hắn đem ý chỉ Yên vương viết rõ trao toàn quyền đàm hòa cho mình, giao cho Tần Húc Phi xem xét, mà còn đồng ý để Tần Húc Phi cầm đi giữ làm bằng. Sau đó ba người trên hòa nghị một kiểu ba phần phân biệt đóng dấu, tự lưu một phần làm bằng.
Cũng may Phương Khinh Trần mặc dù đã rời Sở quốc, ấn giám đại biểu cho thân phận tôn vinh và quyền lực bản thân lại vẫn mang theo bên người. Không phải bởi vì y còn muốn về Sở quốc cầm quyền, mà là lúc ấy y sợ sau khi mình rời khỏi, Triệu Vong Trần nghĩ sai một niệm, lợi dụng con dấu của y, ngụy tạo văn kiện thư tín gì để mưu lợi, cho nên, những tín vật liên quan đến quyền uy cá nhân, y không để lại Sở quốc một cái, lúc này lại rất có sẵn.
Đương nhiên, một phần gọi là người trung gian, người bảo lãnh nên giữ kia của mình, y vừa quay đầu đã trực tiếp ném cho Tần Húc Phi.
Người Tần tấc đất không nhượng, mà người Yên rốt cuộc không dây dưa nhiều trên việc cắt nhượng đất nữa. Sau tranh luận dài dòng nhùng nhằng, điều kiện cuối cùng người Yên đưa ra, là khoản vàng bạc, tiền tài, nữ tử, đinh khẩu cực lớn.
Người Yên nói: Yên Tần vốn là thông gia, lần này xuất binh, thuần túy là vì vương tử Tần quốc nhờ vả, đến đây bình loạn cục, thanh quân trắc, hoàn hoàn toàn toàn là vì lợi ích của Tần quốc mà dâng sinh mệnh binh sĩ Yên quốc. Hiện giờ lui binh, muốn đòi Tần quốc một chút quân phí, một ít trợ cấp cho người tử nạn, đây hoàn toàn là đúng lý chứ?
Hai bên đã phải giả tươi cười đến đàm hòa, Kỳ Sĩ Kiệt và Liễu Hằng phụ trách đàm phán cũng chỉ đành bịt mũi, ngoài cười trong không cười mà cố nuốt lời đổi trắng thay đen như vậy vào bụng.
Hòa nghị cầm đến, chỉ nhìn con số vàng bạc sư tử rộng miệng phía trên kia, đã đủ để các tướng lĩnh cao cấp Tần quân nghèo đến mức cả ngày chỉ có thể ăn cải mặn lương thô này nổi trận lôi đình, chỉ cầu đánh một trận.
Song Tần Húc Phi một mình đóng cửa tự hỏi một ngày một đêm, câu trả lời cuối cùng là, vô luận nữ tử nam đinh, đều là bách tính Tần quốc, cũng giống như đất đai, không thể đưa cho người Yên. Y tình nguyện gia tăng quân phí bồi thường lên mấy phần, để bồi thường cho Yên quân. Nhưng Tần quốc hiện giờ cùng khổ khốn đốn, cho dù đền tiền, cũng phải chia mấy năm chậm rãi trả đều, mà Yên quốc bởi vì đã biểu thị thành ý, chẳng những phải lui binh, còn phải giúp Tần quốc làm cho quân đội Ngô Vệ tan tác, đồng thời cam đoan kinh thành không bị tàn sát, tù binh không bị mang đi hoặc sát hại.
Tin tức sau khi hồi báo cho Phong Trường Thanh, rất nhanh chóng được hồi âm.
Yên quân có thể đáp ứng điều kiện của Tần Húc Phi, nhưng Tần quốc phải cam đoan không để Yên quốc mang tội danh phản minh bội hứa. Nói cách khác, Yên quân cho dù triệt quân, cho dù sau lưng đâm dao Ngô quân Vệ quân, cũng phải là phong phong quang quang, đường đường chính chính, Tần quân không được cản trở, không được vạch trần.
Ngoài ra, tất cả bồi thường của Tần quân đã phải chia nhiều năm mới có thể trả hết, vậy phải có một bảo chứng, trên hợp nghị chính thức, phải có Tần Húc Phi ký tên đóng dấu, còn cần nhân vật trọng yếu của nước thứ ba (Phương Khinh Trần) đóng dấu làm nhân chứng và bảo chứng. Mà Phong Trường Thanh để biểu đạt thành ý, cũng sẵn lòng mượn lý do tuần tra quan tạp, rời Tần kinh, đến chỗ giao giới thế lực hai bên, tự mình mở thánh chỉ toàn quyền nghị hòa của Yên vương cho người Tần coi.
Tiền đề vẫn chính là, Tần Húc Phi có thể cùng Phương Khinh Trần đích thân đi gặp mình.
—
“Tam điện hạ, Phương hầu, Phong mỗ trong lòng thật là ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp, thật là tam sinh hữu hạnh.”
Vào một ngày trời trong gió lặng, ở nơi giao giới thế lực hai bên, trong từ đường đổ nát của một thôn trang con con không còn người ở, Tần Húc Phi, Phương Khinh Trần, Phong Trường Thanh, ba người đến từ ba quốc gia, từ lúc chào đời đến nay lần đầu tiên, ra vẻ hữu hảo gặp mặt.
Trước khi gặp mặt, Tần quân trước đó đã phái hàng loạt nhân mã, qua lại dọn dẹp bốn năm lần trong phạm vi mấy chục dặm nơi này, xác định không có phục binh ám toán gì mới đồng ý để Tần Húc Phi và Phương Khinh Trần đi. Về phần Phong Trường Thanh, trái lại bớt lo, căn bản không phái người điều tra. Thứ nhất hắn không phải chủ soái, mạng không đủ giá trị, đối phương không nên để mắt. Thứ hai, dù sao đối mặt với hai đại cao thủ, người ta muốn giết hắn bắt hắn đều là một tay có thể giải quyết ngay vấn đề, đâu cần mai phục khác, vì thế còn không bằng cứ phóng khoáng một chút cho rồi. Thứ ba căn cứ nội dung trong mật tín Dung tướng cho biết, đối với hòa nghị, Phương Khinh Trần sẽ chỉ dốc sức hiệp trợ, tuyệt không có đạo lý ra tay phá hoại, cho nên hắn cũng liền yên tâm lớn mật làm ra khí phái dũng giả thẳng thắn vô tư. Hơn nữa còn có thể thuận tiện làm mấy động tác nhỏ.
Lúc này ba bên đối mặt. Hắn đầu tiên thập phần kính cẩn, chấp lễ ngoại thần gặp quân chủ nước khác với Tần Húc Phi. Sau đó với Phương Khinh Trần, tuy rằng chỉ là chắp tay bình bình, nhưng vẻ thân cận vui sướng trên mặt kia lại rõ ràng như thế, chỗ nào như là đối với một vị địch nhân từng một tên bắn hắn rơi ngựa cực kỳ mất mặt, trái lại phải làm người ta cho rằng hai người họ là lão hữu cửu biệt trùng phùng, thật là cảm giác như gội trong gió xuân.
Ba người đi vào từ đường, phân biệt ngồi xuống, Phong Trường Thanh lại mỉm cười hàn huyên, tình chân ý thiết.
“Phương hầu, Yên Sở mặc dù xa cách ngàn dặm, nhưng uy danh của ngài, há là núi sông có thể cách trở. Yên quốc chúng ta từ trên xuống dưới, đều thập phần kính nể ngài.”
Mấy tướng lĩnh Tần quân đi theo, trên mặt ít nhiều đều có dị sắc, chỉ Tần Húc Phi vẻ mặt tự nhiên, bình tĩnh thong dong, vừa uống trà, vừa mỉm cười coi Phong Trường Thanh khắc ý phụng nghênh Phương Khinh Trần.
Phương Khinh Trần với Phong Trường Thanh tất nhiên là sắc mặt không thể đẹp. Người Yên quốc này cũng quá là nhàm chán, đã được bồi thường như nguyện, vì sao còn phải nhất định kéo y xuống nước, đây không phải được tiện nghi còn khoe mẽ sao?
Vốn y đến đã có phần không cam tâm không tình nguyện. Chỉ cần y vừa ra mặt, vừa thêm một con dấu trên văn kiện hòa nghị, vậy thì không chỉ là đại biểu cho bản thân y, mà là đại biểu cả Sở quốc làm một phương công chứng tham gia trong việc này, một khi Tần quốc đổi ý, Sở quốc cũng phải gánh vác trách nhiệm trên đạo nghĩa.
Từ trên tình cảm cá nhân mà nói, cho dù là cá nhân y, cũng lười ra mặt gánh thay Tần quốc, càng đừng nói vì Tần quốc mà liên lụy Sở quốc.
Mà với bản ý của Tần Húc Phi, cũng không muốn để y gánh vác liên lụy, nhưng việc này trọng đại quá mức, cho nên cuối cùng Tần Húc Phi vẫn chỉ đành không thể nề hà mà tìm y thương lượng, để y tự mình quyết định có nên can dự không.
Mà Phương Khinh Trần không hề do dự quá lâu, vẫn bằng lòng.
“Phương hầu văn võ toàn tài, trung nghĩa vô song, thiên hạ ai mà không biết, ai mà không hiểu. Năm đó biến cố triều Sở, chủ ta nghe nói mà lòng đau thần thương, Dung tướng cũng gõ nhịp mà than, rượu ngon tế xa, chỉ nói thiên hạ từ đây không còn anh hùng, đời này kiếp này vậy mà không có duyên gặp Phương hầu một lần, thật là rất tiếc.”
Không cần phải nói, nghe Phong Trường Thanh nghênh ngang bịa đặt phản ứng của Tiểu Dung như vậy, sắc mặt Phương Khinh Trần đã đen như đít nồi.
“Đến mức được Phương hầu trùng hiện nhân gian, vung tay hô một tiếng, Đại Sở một quốc, vô luận cao thấp, sĩ tộc sơn dân, không ai không theo, nhấc tay đỡ càn khôn, thớt ngựa hoành thương, bày mưu lập kế, chỉ mấy tháng mà Sở quốc đại định, cử động chống trời như vậy, chẳng những xưa nay chưa có, chỉ sợ về sau cũng không còn.”
Các tướng lĩnh Tần quân đứng sau họ mặt đều hơi xanh. Chuyện cũ năm xưa như vậy, đối với người Tần mà nói, tuyệt đối không phải hồi ức gì dễ chịu.
Phong Trường Thanh vẫn đang cực lực thổi phồng, nhiều lần nói Yên quân trên dưới quý mến Phương Khinh Trần cỡ nào, Yên vương với Phương Khinh Trần thần giao đã lâu như thế nào, năm lần bảy lượt mời Phương Khinh Trần đến Yên quốc làm khách, lại bao lần nhắc tới nhắc lui Dung quốc công với Phương Khinh Trần là coi trọng cỡ nào, để ý cỡ nào, muốn có cơ hội gặp mặt trường đàm cỡ nào.
Phương Khinh Trần nghe mà trong lòng bực bội, thế nhưng y có thể ngạo mạn vô lễ với thủ hạ của Tần Húc Phi, nể mặt Dung Khiêm, lại không thể không khoan dung Phong Trường Thanh một phần, nếu không y sớm đập văng con ruồi nhặng này ra khỏi phòng.
Mặc dù bực bội, lòng y cũng rõ ràng, Phong Trường Thanh là có tâm ly gián châm ngòi, vì thế Phương Khinh Trần ngược lại không chịu như tâm ý hắn, trên mặt thậm chí không biểu hiện ra ý gì là mất kiên nhẫn, chỉ thản nhiên giống như chẳng hề nghe thấy gì vậy.
Tần Húc Phi cũng thủy chung thong thả như thường, không mảy may bởi vì việc Phong Trường Thanh với Phương Khinh Trần tôn sùng quá đáng khắc ý thân cận mà có ý bất mãn đố kỵ gì.
Trong mắt y, Phương Khinh Trần vốn kinh tài tuyệt diễm, đáng để các quốc bỏ vốn lôi kéo kết giao. Không đến bỏ vốn kết giao đều là đồ ngốc. Về phần chút ác ý châm ngòi ly gián đó trong lời nói giữa vẻ mặt Phong Trường Thanh, y lại bất động như núi.
Nếu chút kỹ xảo này đã có thể khiến y không kiềm chế nổi mà nghi kỵ để bụng, thì y thật sự không đáng được Phương Khinh Trần nhiều lần cứu giúp, trong lòng tương giao.
Phong Trường Thanh vốn cũng không phải người da mặt đặc biệt dày, tuy là vì lợi ích của Yên quốc, được cơ hội này, dù sao phải thử đâm cái gai giữa hai người Tần Húc Phi và Phương Khinh Trần, nhưng hôm nay thấy thủ đoạn vô dụng, chẳng còn cách nào mặt dày mày dạn nhiều lời nữa, cười gượng đôi tiếng, liền quay về chính đề.
Hắn đem ý chỉ Yên vương viết rõ trao toàn quyền đàm hòa cho mình, giao cho Tần Húc Phi xem xét, mà còn đồng ý để Tần Húc Phi cầm đi giữ làm bằng. Sau đó ba người trên hòa nghị một kiểu ba phần phân biệt đóng dấu, tự lưu một phần làm bằng.
Cũng may Phương Khinh Trần mặc dù đã rời Sở quốc, ấn giám đại biểu cho thân phận tôn vinh và quyền lực bản thân lại vẫn mang theo bên người. Không phải bởi vì y còn muốn về Sở quốc cầm quyền, mà là lúc ấy y sợ sau khi mình rời khỏi, Triệu Vong Trần nghĩ sai một niệm, lợi dụng con dấu của y, ngụy tạo văn kiện thư tín gì để mưu lợi, cho nên, những tín vật liên quan đến quyền uy cá nhân, y không để lại Sở quốc một cái, lúc này lại rất có sẵn.
Đương nhiên, một phần gọi là người trung gian, người bảo lãnh nên giữ kia của mình, y vừa quay đầu đã trực tiếp ném cho Tần Húc Phi.