Lần châm cứu giảm đau vừa rồi đã khiến cho thiếu phụ tràn ngập lòng tin đối với Đỗ Văn Hạo, vội vàng nói: “Để đại phu chữa trị cho hài tử đi!”
Mẫu thân của hài tử cũng nói vậy, hai cô gái đương nhiên không có ý kiến. Tuyết Phi Nhi vội vàng chạy đi chuẩn bị, chỉ lo làm không tốt nên khăng khăng xách lò vào đây, lại bưng một chậu nước sạch đặt lên lò, đem một con dao nhỏ, đôi đũa mới và vải xô ném vào trong để luộc.
Sau khi luộc xong, Đỗ Văn Hạo dùng hỗn hợp cam thảo với nước thuốc để sát trùng rửa tay, rồi lại dùng bông thấm nước thuốc để sát trùng vết thương, cầm con dao nhỏ đã được khử trùng ở nhiệt độ cao lên, dùng mũi đao cắt mủ, đưa dao gảy lên trên, móc từ trong ra ngoài, gạt bỏ dịch mủ, dùng đũa chọc vào khoang mủ rồi tách ra, lại dùng đũa làm dẫn đạo, đưa con dao nhỏ về hai bên miệng vết cắt dài cho đến tận mép. Cắt hết hoàn toàn mủ ra. Sau đó, dùng bông thấm hỗn hợp với các loại dược liệu như đại hoàng để khử trùng, tẩy rửa vết thương.
Sau khi làm sạch vết mủ, dùng đũa kẹp vải sô ngâm hoàng liên, hỗn hợp hạt mã tiền để loại bỏ dịch viêm, một mặt ấn vào khoang mủ, mặt khác bôi ngoài, chôn đường dẫn lưu (dùng phẫu thuật để dẫn mủ và dịch trong cơ thể ra ngoài), sau đó dùng vải xô khô và sạch đã được hấp qua lót ở bên trên, bên ngoài dùng băng vải hình tam giác buộc lại để cố định.
Phẫu thuật hoàn thành, Đỗ Văn Hạo thờ phào nhẹ nhõm: “Được rồi, không được để vết thương dính nước, phải giữ sạch sẽ. Đợi một chút ta sẽ kê một phương thuốc nước cho đứa nhỏ uống, có tác dụng chống viêm… cái này, để ngăn vết thương lại mưng mủ”.
Hắn thấy hai nữ đối với từ chống viêm cảm thấy rất kỳ lạ, liền đổi cách giải thích. Thầm nhắc nhở bản thân, đây là cổ đại, không thể dùng từ hiện đại được, để tránh làm người khác kinh hãi.
Do dùng kim châm để giảm bớt đau đớn, trong quá trình phẫu thuận hài tử tuy khóc, nhưng không còn vẻ đau thấu tâm can như lúc trước, phẫu thuật hoàn thành, hài tử tựa như cũng biết, trên khuôn mặt bé nhỏ nở nụ cười, hé miệng lộ ra hai hàng răng trắng vừa mới nhú, vô cùng đáng yêu.
Đỗ Văn Hạo còn ít nhiều lo lắng đối với phẫu thuật đơn giản này, dù sao thì thuốc cũng là góp nhặt, dao, vải sô đều không được khử trùng đúng cách, không biết vết thương có bị nhiễm khuẩn hay không, may mà chỗ sưng tấy bưng mủ chỉ ở lớp da ngoài, vấn đề không lớn, nếu ở sâu trong da thịt, hoặc là ở những chỗ quan trọng như đầu, thậm chí mở khoang (khoang trong thân thể như khoang bụng, lồng ngực) ra để phẫu thuật thì với điều kiện phẫu thuận thô sơ như thế này, chỉ sợ sẽ xảy ra vấn đề.
Lâm Thanh Đại và Tuyết Phi thấy tiểu hài cười cũng cười theo, nhìn Đỗ Văn Hạo một cách khen ngợi. Mẫu thân của hài tử thì mắt đẫm lệ cảm tạ ba người.
Tuyết Nhi mỉm cười với Đỗ Văn Hạo: “Nhìn không ra, linh y ngài thật có bản lĩnh. Thế này được rồi chứ?”
“Về cơ bản thì không có vấn đề gì, chiều ngày mai cần thay một lần đường dẫn lưu nữa…, à không, thay thuốc. Thấy tình hình vết thương đã khép miệng thì băng bó lại vết thương, nếu không mưng mủ nữa thì là ổn”.
“Được, ngày mai lại phiền đại phu tới thay thuốc cho hài tử. Còn chưa thỉnh giáo quý tính của đại phu?”
“Tôi tên Đỗ Văn Hạo”.
“Ồ, tôi tên Tuyết Phi Nhi, khách sạn này do cha tôi mở, đây là Lâm Đại Thanh Lâm chưởng quỷ của Ngũ Vị đường, là tỷ tỷ tốt của tôi”.
Đỗ Văn Hạo tuy vừa mới xuyên việt tới Tống triều một ngày, nhưng từ phim điện ảnh, tiểu thuyết tạp chí trên biết được rất nhiều kiến thức, lễ tiết này của cổ nhân cũng biết, lại thêm ngày hôm qua đã quan sát, rất nhanh liền học được lễ tiết cơ bản của Tống triều, học theo mẫu chắp tay nói: “Bái kiến hai vị cô nương”.
Tuyết Phi Nhi sặc cười, nói: “Gọi toi là cô nương thì được, nhưng gọi tỷ ấy thế thì không được đâu, Lâm tỷ tỷ là tiểu tức phụ, không phải là cô nương! Nam nhân của tỷ ấy… hai năm trước đã mất rồi, ngài không thể gọi linh tinh được”.
Đỗ Văn Hạo ngây người, thì ra Lâm Thanh Đại là một quả phụ trẻ, tuổi còn trẻ đã phải ở góa, hắn hiểu được tình cảnh của nàng, trong lòng tràn ngập thông cảm, chắp tay nói: “Xin lỗi, thực là thất lễ, bái kiến phu nhân! Xin phu nhân tha thứ cho tội lỗ mãng vừa rồi!”
Lâm Thân Đại cũng cúi chào, vẻ mặt có chút buồn bã: “Tiên sinh nặng lời rồi, thiếp là phụ nữ ở góa, cứ gọi tên của thiếp hoặc chưởng quỹ là được rồi”.
“Vậy…, vâng! Lâm chưởng quỹ!”
Tuyết Phi Nhi hỏi: “Đỗ lang trung, ngài sống ở đâu?”
Đỗ Lang Trung? Sao nghe giống ‘thổ lang trung’ thế nhỉ?” Đỗ Văn Hạo cười khổ trong lòng, bản thân tự xưng là linh y chứ đâu phải là một thổ lang trung, hắn thở dài: “Tôi hành tẩu giang hồ, tứ hải là nhà, hành nghề bán thuốc cao thuốc viên, kiếm được gì đều bị cướp hết, người không có một xu, xem ra chỉ đành ngủ ở đầu đường xó chợ thôi”.
Tuyết Phi Nhi gật gật đầu, nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Thế này đi, ngài nếu không ngại thì ở khách sạn của cha tôi một đêm, đằng nào ngày mai ngài cũng còn phải thay thuốc cho đứa nhỏ. Thời gian này tôi sẽ tìm vài bệnh nhân cho ngài để kiếm chút tiền. Rồi từ chỗ của Lâm tỷ tỷ mua một chút linh y dược liệu để làm thuốc cao thuốc viên, mua dụng cụ y tế mới rồi lại để cho ngài làm lang trung vân du bốn phương, thế nào?”
Đỗ Văn Hạo nói mình là linh y, chẳng qua là thuận miệng mà thôi, hắn không hề muốn phiêu du tứ hải, có điều cô nương này có thể tìm vài bệnh nhân cho mình khám bệnh, kiếm ít tiền. Chủ ý này cũng không tồi. Lục trước ở phòng khám bệnh của bá phụ cũng từng làm đại phu nghiệp dư, bệnh tật bình thường cũng không làm khó được hắn, lập tức học theo dáng vẻ của người Tống, chắp tay cúi người chín mươi độ, thi lễ: “Vậy thì đa ta cô nương!”
“Không dám! Có điều những người này có thể không trả ngài nhiều tiền đâu, tới lúc đó ngài đừng chê ít nhé”.
“Đâu dám, cô nương nói đùa rồi, linh y hành nghề, khám bệnh lấy tiền thì tùy tâm, đâu có thể chê ít”.
“Vậy thì được, mau viết đơn thuốc đi”.
Đỗ Văn Hạo viết đơn thuốc chống viêm cho Lâm Thanh Đại mua về cho đứa nhỏ uống.
Sau khi Lâm Thanh Đại đi, Tuyết Phi Nhi tìm một gian nhà thô sơ trong căn nhà một tầng cho hắn dùng làm chỗ ở và khám bệnh.
Lúc trước Đỗ Văn Hạo làm phẫu thuật dẫn lưu cho hài tử, bệnh nhân trong thông phô (kiểu như lữ điểm, ký túc xá tập thể có chỗ nằm nối liền với nhau) ngoài trừ những đường đang ngủ ra thì đều thức xem náo nhiệt, đối với phẫu thuật ngoại khoa của vị lang trung này cảm thấy rât mới mẻ, liền truyền miệng cho nhau, đặc biệt là Tuyết Phu Nhi tuyên truyền cổ động khắp nơi, kể lại cố sự đầy đức độ rằng Đỗ Văn Hạo không chút nề hà chữa bệnh cho hài tử nghèo khó không lấy tiến, khiến cho người nghe phải khen ngợi, cho nên, không chỉ những người hầu của tiểu thương ở thông phô thân có chút bệnh tới tìm hắn chữa bệnh, ngay cả những thương gia sống ở thượng phòng cũng tới tìm hắn.
Những người tới khám bệnh chủ yếu là bị các loại bệnh thường gặp như cảm lạnh, tiêu chảy, mụn nhọt, những bệnh này trước kia hắn ở phòng khám của bá phụ đã chữa rồi, cho nên bắt bệnh chữa trị rất tự nhiên.
Chỉ là hắn viết bút lông thì chẳng ra làm sao, từ trước đến giờ chưa luyện qua nên cầm bút như cầm dao, xiêu xiêu vẹo vẹo, cao thấp không đều, hơn nữa còn phải viết chữ phồn thể, khám bệnh không mất nhiều thời gian, viết phương thuốc thì lại tốn không ít công sức, trước cái nhìn giễu cợt của Tuyết Phi Nhi cố viết xong một đơn thuốc thì đầu đầy mồ hôi hột. Thầm nghĩ, muốn tiếp tục lăn lộn ở Tống triều, có thời gian phải luyện viết bút lông thật giỏi mới được.
Tuyết Phi Nhi giúp hắn tìm bệnh nhân, chờ hắn kê xong đơn thuốc thì lại giúp đi đến Ngũ Vị đường ở đối diện thay bệnh nhân lấy thuốc. Hai người bận suốt đến tới đêm khuya mới chữa xong cho bệnh nhân cuối cùng.
Đỗ Văn Hạo đếm số tiền chữa bệnh chiều này, những người tìm đến hắn khám bệnh đại đa số là những người hầu xót tiền, nghèo khổ của các tiểu thương, tiền khám trả một cách tùy tiện, mỗi người tối đa là hai, ba văn, có có vài người còn không trả tiền, cho nên cộng lại chỉ được hai mươi mấy văn, tương đương với hơn hai chục nhân dân tệ, có điều thế là đủ để mai ăn cơm rồi, coi như là có chút xíu thu hoạch.
(Chú: chế độ tiền tệ của Tống triều cực kỳ hỗn loạn, ghi chép cũng đầy mâu thuẫn. Về tỉ giá hối đoái căn cứ vào tham số cơn bản của giá gạo, một lượng bạc Tống triều đại khái giá trị sau mươi đến một ngàn ba trăm đồng nhân dân tệ. Sách này để tiện tự thuật và lý giải, xác định công thức hối đoái là: 1 ngàn văn đồng tiền = 1 quán = 10 điếu = 1 lượng bạc =0.1 lượng vàng = 1 ngàn đồng nhân dân tệ. Một văn tiền cũng tương đương với một đồng nhân dân tệ).
Tuyết Phi Nhi đang muốn cáo từ thì Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Tuyết cô nương!”
Tuyết Phi Nhi quay người nhìn hắn: “Có chuyện gì?”
“Ừm, tôi…, tôi đói bụng, một ngày không ăn gì rồi. Không biết trong tiệm còn gì ăn không?”
“A? Sao ngài không nói sớm, giờ đã là canh ba, đầu bếp đi ngủ rồi”.
“Vừa rồi bậnn khám bệnh suốt, tôi sao có thể để bệnh nhân chờ còn mình thì đi ăn chứ. Ăn gì cũng được, chỉ cần có cái nhét vào bụng là được rồi”.
Khách sạn này của cha Tuyết Phi Nhi chủ yếu dành cho ở trọ, tuy có nhà ăn, nhưng không chú trọng kinh doanh ẩm thực, cho nên không còn nhiều thức ăn thừa, nàng ta nói: “Vậy được rồi, tôi tới phòng bếp xem thử. Ngài đợi nhé!”
Tuyết Phi Nhi vội vã ra ngoài, không lâu sau, cầm hai cái bánh bao đã khô cứng và một đĩa dưa muối chạy về: “Thật ngại quá, chỉ còn cái này thôi”.
Đỗ Văn Hạo lúc này đã đói mờ cả mắt rồi, nhìn thấy hai cái bánh bao khô, so với vây cá tôm hùm còn thèm khát hơn, vội vàng nhận lấy: “Không hề gì! Thế này là được rồi!” Nhét vào miệng cắn mạnh một miếng, rắc rắc, tí thì gãy răng.
Tuyết Phi Nhi mỉm cười: “Bánh bao nguội cứng lắm, nhúng nước rồi hẵng ăn”.
Khác sạn ở trọ này đều dành cho những người hầu của thương không có tiền, bán giá cao thì người khác không mua được, cho nên bánh bao này được làm bằng bột đen rẻ tiền nhất, khi nguội thì cứng như đá. Đỗ Văn Hạo vội vàng bẻ vụn bánh ra rồi bỏ vào bát, đổ nước ngâm cho mềm rồi mới cho vào miệng nhai, nhai được mấy miếng thì không khỏi cười khổ, thầm nghĩ bột này tồi quá, cho vào miệng ăn giống y như nhai đất, có điều một ngày không ăn gì nên cũng chẳng chú ý đến những điều này. Cả đĩa dưa muối cũng đổ vào bát ăn ngấu nghiến.
Tuyết Phi Phi bật cười khúc khích: “Nhìn ngài thế này! Chắc là đói lắm rồi. Ăn chậm một chút, không ai tranh của ngài đâu”.
Đỗ Văn Hạo không trả lời, ăn sạch sành sanh một bát bánh bao nhúng nước. Lau miệng một cái, vỗ vỗ bụng, lúc này mới xấu hổ cười ngờ nghệch.
Tuyết Phi Nhi cũng mỉm cười nhìn hắn: “Mau đi ngủ đi, tôi đi đây!”
Đỗ Văn Hạo luôn miệng cám ơn, tiễn Tuyết Phi Nhi ra cửa.
Sau khi Tuyết Phi Nhi đi, Đỗ Văn Hạo đóng cửa lại, rải tấm khăn trải giường có mùi nấm mốc thum thủm ra, cởi áo dài bằng vải thô có màu xanh nhạt xuống, thổi tắt đèn rồi nằm lên giường, cực khổ cả một ngày, không khỏi hông mỏi lưng đau.
Đây là buổi tối đầu tiên ở Tống triều, những đồng tiên đầu tiên kiếm được chỉ đủ ăn cơm một ngày, hắn không khỏi thấy ai oán, nghĩ tới mười năm gian khổ học hành, hiện giờ không hiểu sao lại xuyên việt tới Tống triều, trở thành một lang trung vân du bốn phương, nằm trên một chiếc giường nhỏ cũ kỹ một cách đáng thương, chăn còn bốc mùi nấm mốc, ăn bánh bao nguội cứng đến nỗi có thể đập vỡ đầu, nếu cha mẹ biết rằng bọn họ lúc trước không nỡ gửi con trai đến nơi phải chịu khổ, hiện tại lại phải chịu cảnh như thế này, không biết sẽ đau lòng như thế nào, trong lòng không khỏi bi thương, mủi cảm thấy cay cay.
Có điều, hắn không phải là một người đa sầu đa cảm, khịt khịt mũi, trở người, đằng nào cũng đã rơi vào cảnh này rồi, trong đầu hồi tưởng lại những chuyện mới mẻ đã gặp ở cổ đại ngày hôm nay, liền thay đổi sự chú ý.
Nghĩ nghĩ ngợi ngợi, nhớ tới nữ chưởng quỹ Lâm Thanh Đại phong tư trác tuyệt, quả cảm trượng nghĩa, lại nghĩ tới Tuyết Phi Nhi hoạt bát đáng yêu, giàu lòng nhân ái, hai nữ tử đều xinh đẹp, lại đối xử tốt với mình, trong lòng bất giác cảm thấy ấm áp. Mệt mỏi một ngày rồi, nghĩ ngợi một hồi liền thiếp đi.
Lần châm cứu giảm đau vừa rồi đã khiến cho thiếu phụ tràn ngập lòng tin đối với Đỗ Văn Hạo, vội vàng nói: “Để đại phu chữa trị cho hài tử đi!”
Mẫu thân của hài tử cũng nói vậy, hai cô gái đương nhiên không có ý kiến. Tuyết Phi Nhi vội vàng chạy đi chuẩn bị, chỉ lo làm không tốt nên khăng khăng xách lò vào đây, lại bưng một chậu nước sạch đặt lên lò, đem một con dao nhỏ, đôi đũa mới và vải xô ném vào trong để luộc.
Sau khi luộc xong, Đỗ Văn Hạo dùng hỗn hợp cam thảo với nước thuốc để sát trùng rửa tay, rồi lại dùng bông thấm nước thuốc để sát trùng vết thương, cầm con dao nhỏ đã được khử trùng ở nhiệt độ cao lên, dùng mũi đao cắt mủ, đưa dao gảy lên trên, móc từ trong ra ngoài, gạt bỏ dịch mủ, dùng đũa chọc vào khoang mủ rồi tách ra, lại dùng đũa làm dẫn đạo, đưa con dao nhỏ về hai bên miệng vết cắt dài cho đến tận mép. Cắt hết hoàn toàn mủ ra. Sau đó, dùng bông thấm hỗn hợp với các loại dược liệu như đại hoàng để khử trùng, tẩy rửa vết thương.
Sau khi làm sạch vết mủ, dùng đũa kẹp vải sô ngâm hoàng liên, hỗn hợp hạt mã tiền để loại bỏ dịch viêm, một mặt ấn vào khoang mủ, mặt khác bôi ngoài, chôn đường dẫn lưu (dùng phẫu thuật để dẫn mủ và dịch trong cơ thể ra ngoài), sau đó dùng vải xô khô và sạch đã được hấp qua lót ở bên trên, bên ngoài dùng băng vải hình tam giác buộc lại để cố định.
Phẫu thuật hoàn thành, Đỗ Văn Hạo thờ phào nhẹ nhõm: “Được rồi, không được để vết thương dính nước, phải giữ sạch sẽ. Đợi một chút ta sẽ kê một phương thuốc nước cho đứa nhỏ uống, có tác dụng chống viêm… cái này, để ngăn vết thương lại mưng mủ”.
Hắn thấy hai nữ đối với từ chống viêm cảm thấy rất kỳ lạ, liền đổi cách giải thích. Thầm nhắc nhở bản thân, đây là cổ đại, không thể dùng từ hiện đại được, để tránh làm người khác kinh hãi.
Do dùng kim châm để giảm bớt đau đớn, trong quá trình phẫu thuận hài tử tuy khóc, nhưng không còn vẻ đau thấu tâm can như lúc trước, phẫu thuật hoàn thành, hài tử tựa như cũng biết, trên khuôn mặt bé nhỏ nở nụ cười, hé miệng lộ ra hai hàng răng trắng vừa mới nhú, vô cùng đáng yêu.
Đỗ Văn Hạo còn ít nhiều lo lắng đối với phẫu thuật đơn giản này, dù sao thì thuốc cũng là góp nhặt, dao, vải sô đều không được khử trùng đúng cách, không biết vết thương có bị nhiễm khuẩn hay không, may mà chỗ sưng tấy bưng mủ chỉ ở lớp da ngoài, vấn đề không lớn, nếu ở sâu trong da thịt, hoặc là ở những chỗ quan trọng như đầu, thậm chí mở khoang (khoang trong thân thể như khoang bụng, lồng ngực) ra để phẫu thuật thì với điều kiện phẫu thuận thô sơ như thế này, chỉ sợ sẽ xảy ra vấn đề.
Lâm Thanh Đại và Tuyết Phi thấy tiểu hài cười cũng cười theo, nhìn Đỗ Văn Hạo một cách khen ngợi. Mẫu thân của hài tử thì mắt đẫm lệ cảm tạ ba người.
Tuyết Nhi mỉm cười với Đỗ Văn Hạo: “Nhìn không ra, linh y ngài thật có bản lĩnh. Thế này được rồi chứ?”
“Về cơ bản thì không có vấn đề gì, chiều ngày mai cần thay một lần đường dẫn lưu nữa…, à không, thay thuốc. Thấy tình hình vết thương đã khép miệng thì băng bó lại vết thương, nếu không mưng mủ nữa thì là ổn”.
“Được, ngày mai lại phiền đại phu tới thay thuốc cho hài tử. Còn chưa thỉnh giáo quý tính của đại phu?”
“Tôi tên Đỗ Văn Hạo”.
“Ồ, tôi tên Tuyết Phi Nhi, khách sạn này do cha tôi mở, đây là Lâm Đại Thanh Lâm chưởng quỷ của Ngũ Vị đường, là tỷ tỷ tốt của tôi”.
Đỗ Văn Hạo tuy vừa mới xuyên việt tới Tống triều một ngày, nhưng từ phim điện ảnh, tiểu thuyết tạp chí trên biết được rất nhiều kiến thức, lễ tiết này của cổ nhân cũng biết, lại thêm ngày hôm qua đã quan sát, rất nhanh liền học được lễ tiết cơ bản của Tống triều, học theo mẫu chắp tay nói: “Bái kiến hai vị cô nương”.
Tuyết Phi Nhi sặc cười, nói: “Gọi toi là cô nương thì được, nhưng gọi tỷ ấy thế thì không được đâu, Lâm tỷ tỷ là tiểu tức phụ, không phải là cô nương! Nam nhân của tỷ ấy… hai năm trước đã mất rồi, ngài không thể gọi linh tinh được”.
Đỗ Văn Hạo ngây người, thì ra Lâm Thanh Đại là một quả phụ trẻ, tuổi còn trẻ đã phải ở góa, hắn hiểu được tình cảnh của nàng, trong lòng tràn ngập thông cảm, chắp tay nói: “Xin lỗi, thực là thất lễ, bái kiến phu nhân! Xin phu nhân tha thứ cho tội lỗ mãng vừa rồi!”
Lâm Thân Đại cũng cúi chào, vẻ mặt có chút buồn bã: “Tiên sinh nặng lời rồi, thiếp là phụ nữ ở góa, cứ gọi tên của thiếp hoặc chưởng quỹ là được rồi”.
“Vậy…, vâng! Lâm chưởng quỹ!”
Tuyết Phi Nhi hỏi: “Đỗ lang trung, ngài sống ở đâu?”
Đỗ Lang Trung? Sao nghe giống ‘thổ lang trung’ thế nhỉ?” Đỗ Văn Hạo cười khổ trong lòng, bản thân tự xưng là linh y chứ đâu phải là một thổ lang trung, hắn thở dài: “Tôi hành tẩu giang hồ, tứ hải là nhà, hành nghề bán thuốc cao thuốc viên, kiếm được gì đều bị cướp hết, người không có một xu, xem ra chỉ đành ngủ ở đầu đường xó chợ thôi”.
Tuyết Phi Nhi gật gật đầu, nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Thế này đi, ngài nếu không ngại thì ở khách sạn của cha tôi một đêm, đằng nào ngày mai ngài cũng còn phải thay thuốc cho đứa nhỏ. Thời gian này tôi sẽ tìm vài bệnh nhân cho ngài để kiếm chút tiền. Rồi từ chỗ của Lâm tỷ tỷ mua một chút linh y dược liệu để làm thuốc cao thuốc viên, mua dụng cụ y tế mới rồi lại để cho ngài làm lang trung vân du bốn phương, thế nào?”
Đỗ Văn Hạo nói mình là linh y, chẳng qua là thuận miệng mà thôi, hắn không hề muốn phiêu du tứ hải, có điều cô nương này có thể tìm vài bệnh nhân cho mình khám bệnh, kiếm ít tiền. Chủ ý này cũng không tồi. Lục trước ở phòng khám bệnh của bá phụ cũng từng làm đại phu nghiệp dư, bệnh tật bình thường cũng không làm khó được hắn, lập tức học theo dáng vẻ của người Tống, chắp tay cúi người chín mươi độ, thi lễ: “Vậy thì đa ta cô nương!”
“Không dám! Có điều những người này có thể không trả ngài nhiều tiền đâu, tới lúc đó ngài đừng chê ít nhé”.
“Đâu dám, cô nương nói đùa rồi, linh y hành nghề, khám bệnh lấy tiền thì tùy tâm, đâu có thể chê ít”.
“Vậy thì được, mau viết đơn thuốc đi”.
Đỗ Văn Hạo viết đơn thuốc chống viêm cho Lâm Thanh Đại mua về cho đứa nhỏ uống.
Sau khi Lâm Thanh Đại đi, Tuyết Phi Nhi tìm một gian nhà thô sơ trong căn nhà một tầng cho hắn dùng làm chỗ ở và khám bệnh.
Lúc trước Đỗ Văn Hạo làm phẫu thuật dẫn lưu cho hài tử, bệnh nhân trong thông phô (kiểu như lữ điểm, ký túc xá tập thể có chỗ nằm nối liền với nhau) ngoài trừ những đường đang ngủ ra thì đều thức xem náo nhiệt, đối với phẫu thuật ngoại khoa của vị lang trung này cảm thấy rât mới mẻ, liền truyền miệng cho nhau, đặc biệt là Tuyết Phu Nhi tuyên truyền cổ động khắp nơi, kể lại cố sự đầy đức độ rằng Đỗ Văn Hạo không chút nề hà chữa bệnh cho hài tử nghèo khó không lấy tiến, khiến cho người nghe phải khen ngợi, cho nên, không chỉ những người hầu của tiểu thương ở thông phô thân có chút bệnh tới tìm hắn chữa bệnh, ngay cả những thương gia sống ở thượng phòng cũng tới tìm hắn.
Những người tới khám bệnh chủ yếu là bị các loại bệnh thường gặp như cảm lạnh, tiêu chảy, mụn nhọt, những bệnh này trước kia hắn ở phòng khám của bá phụ đã chữa rồi, cho nên bắt bệnh chữa trị rất tự nhiên.
Chỉ là hắn viết bút lông thì chẳng ra làm sao, từ trước đến giờ chưa luyện qua nên cầm bút như cầm dao, xiêu xiêu vẹo vẹo, cao thấp không đều, hơn nữa còn phải viết chữ phồn thể, khám bệnh không mất nhiều thời gian, viết phương thuốc thì lại tốn không ít công sức, trước cái nhìn giễu cợt của Tuyết Phi Nhi cố viết xong một đơn thuốc thì đầu đầy mồ hôi hột. Thầm nghĩ, muốn tiếp tục lăn lộn ở Tống triều, có thời gian phải luyện viết bút lông thật giỏi mới được.
Tuyết Phi Nhi giúp hắn tìm bệnh nhân, chờ hắn kê xong đơn thuốc thì lại giúp đi đến Ngũ Vị đường ở đối diện thay bệnh nhân lấy thuốc. Hai người bận suốt đến tới đêm khuya mới chữa xong cho bệnh nhân cuối cùng.
Đỗ Văn Hạo đếm số tiền chữa bệnh chiều này, những người tìm đến hắn khám bệnh đại đa số là những người hầu xót tiền, nghèo khổ của các tiểu thương, tiền khám trả một cách tùy tiện, mỗi người tối đa là hai, ba văn, có có vài người còn không trả tiền, cho nên cộng lại chỉ được hai mươi mấy văn, tương đương với hơn hai chục nhân dân tệ, có điều thế là đủ để mai ăn cơm rồi, coi như là có chút xíu thu hoạch.
(Chú: chế độ tiền tệ của Tống triều cực kỳ hỗn loạn, ghi chép cũng đầy mâu thuẫn. Về tỉ giá hối đoái căn cứ vào tham số cơn bản của giá gạo, một lượng bạc Tống triều đại khái giá trị sau mươi đến một ngàn ba trăm đồng nhân dân tệ. Sách này để tiện tự thuật và lý giải, xác định công thức hối đoái là: ngàn văn đồng tiền = quán = điếu = lượng bạc =. lượng vàng = ngàn đồng nhân dân tệ. Một văn tiền cũng tương đương với một đồng nhân dân tệ).
Tuyết Phi Nhi đang muốn cáo từ thì Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Tuyết cô nương!”
Tuyết Phi Nhi quay người nhìn hắn: “Có chuyện gì?”
“Ừm, tôi…, tôi đói bụng, một ngày không ăn gì rồi. Không biết trong tiệm còn gì ăn không?”
“A? Sao ngài không nói sớm, giờ đã là canh ba, đầu bếp đi ngủ rồi”.
“Vừa rồi bậnn khám bệnh suốt, tôi sao có thể để bệnh nhân chờ còn mình thì đi ăn chứ. Ăn gì cũng được, chỉ cần có cái nhét vào bụng là được rồi”.
Khách sạn này của cha Tuyết Phi Nhi chủ yếu dành cho ở trọ, tuy có nhà ăn, nhưng không chú trọng kinh doanh ẩm thực, cho nên không còn nhiều thức ăn thừa, nàng ta nói: “Vậy được rồi, tôi tới phòng bếp xem thử. Ngài đợi nhé!”
Tuyết Phi Nhi vội vã ra ngoài, không lâu sau, cầm hai cái bánh bao đã khô cứng và một đĩa dưa muối chạy về: “Thật ngại quá, chỉ còn cái này thôi”.
Đỗ Văn Hạo lúc này đã đói mờ cả mắt rồi, nhìn thấy hai cái bánh bao khô, so với vây cá tôm hùm còn thèm khát hơn, vội vàng nhận lấy: “Không hề gì! Thế này là được rồi!” Nhét vào miệng cắn mạnh một miếng, rắc rắc, tí thì gãy răng.
Tuyết Phi Nhi mỉm cười: “Bánh bao nguội cứng lắm, nhúng nước rồi hẵng ăn”.
Khác sạn ở trọ này đều dành cho những người hầu của thương không có tiền, bán giá cao thì người khác không mua được, cho nên bánh bao này được làm bằng bột đen rẻ tiền nhất, khi nguội thì cứng như đá. Đỗ Văn Hạo vội vàng bẻ vụn bánh ra rồi bỏ vào bát, đổ nước ngâm cho mềm rồi mới cho vào miệng nhai, nhai được mấy miếng thì không khỏi cười khổ, thầm nghĩ bột này tồi quá, cho vào miệng ăn giống y như nhai đất, có điều một ngày không ăn gì nên cũng chẳng chú ý đến những điều này. Cả đĩa dưa muối cũng đổ vào bát ăn ngấu nghiến.
Tuyết Phi Phi bật cười khúc khích: “Nhìn ngài thế này! Chắc là đói lắm rồi. Ăn chậm một chút, không ai tranh của ngài đâu”.
Đỗ Văn Hạo không trả lời, ăn sạch sành sanh một bát bánh bao nhúng nước. Lau miệng một cái, vỗ vỗ bụng, lúc này mới xấu hổ cười ngờ nghệch.
Tuyết Phi Nhi cũng mỉm cười nhìn hắn: “Mau đi ngủ đi, tôi đi đây!”
Đỗ Văn Hạo luôn miệng cám ơn, tiễn Tuyết Phi Nhi ra cửa.
Sau khi Tuyết Phi Nhi đi, Đỗ Văn Hạo đóng cửa lại, rải tấm khăn trải giường có mùi nấm mốc thum thủm ra, cởi áo dài bằng vải thô có màu xanh nhạt xuống, thổi tắt đèn rồi nằm lên giường, cực khổ cả một ngày, không khỏi hông mỏi lưng đau.
Đây là buổi tối đầu tiên ở Tống triều, những đồng tiên đầu tiên kiếm được chỉ đủ ăn cơm một ngày, hắn không khỏi thấy ai oán, nghĩ tới mười năm gian khổ học hành, hiện giờ không hiểu sao lại xuyên việt tới Tống triều, trở thành một lang trung vân du bốn phương, nằm trên một chiếc giường nhỏ cũ kỹ một cách đáng thương, chăn còn bốc mùi nấm mốc, ăn bánh bao nguội cứng đến nỗi có thể đập vỡ đầu, nếu cha mẹ biết rằng bọn họ lúc trước không nỡ gửi con trai đến nơi phải chịu khổ, hiện tại lại phải chịu cảnh như thế này, không biết sẽ đau lòng như thế nào, trong lòng không khỏi bi thương, mủi cảm thấy cay cay.
Có điều, hắn không phải là một người đa sầu đa cảm, khịt khịt mũi, trở người, đằng nào cũng đã rơi vào cảnh này rồi, trong đầu hồi tưởng lại những chuyện mới mẻ đã gặp ở cổ đại ngày hôm nay, liền thay đổi sự chú ý.
Nghĩ nghĩ ngợi ngợi, nhớ tới nữ chưởng quỹ Lâm Thanh Đại phong tư trác tuyệt, quả cảm trượng nghĩa, lại nghĩ tới Tuyết Phi Nhi hoạt bát đáng yêu, giàu lòng nhân ái, hai nữ tử đều xinh đẹp, lại đối xử tốt với mình, trong lòng bất giác cảm thấy ấm áp. Mệt mỏi một ngày rồi, nghĩ ngợi một hồi liền thiếp đi.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Lần châm cứu giảm đau vừa rồi đã khiến cho thiếu phụ tràn ngập lòng tin đối với Đỗ Văn Hạo, vội vàng nói: “Để đại phu chữa trị cho hài tử đi!”
Mẫu thân của hài tử cũng nói vậy, hai cô gái đương nhiên không có ý kiến. Tuyết Phi Nhi vội vàng chạy đi chuẩn bị, chỉ lo làm không tốt nên khăng khăng xách lò vào đây, lại bưng một chậu nước sạch đặt lên lò, đem một con dao nhỏ, đôi đũa mới và vải xô ném vào trong để luộc.
Sau khi luộc xong, Đỗ Văn Hạo dùng hỗn hợp cam thảo với nước thuốc để sát trùng rửa tay, rồi lại dùng bông thấm nước thuốc để sát trùng vết thương, cầm con dao nhỏ đã được khử trùng ở nhiệt độ cao lên, dùng mũi đao cắt mủ, đưa dao gảy lên trên, móc từ trong ra ngoài, gạt bỏ dịch mủ, dùng đũa chọc vào khoang mủ rồi tách ra, lại dùng đũa làm dẫn đạo, đưa con dao nhỏ về hai bên miệng vết cắt dài cho đến tận mép. Cắt hết hoàn toàn mủ ra. Sau đó, dùng bông thấm hỗn hợp với các loại dược liệu như đại hoàng để khử trùng, tẩy rửa vết thương.
Sau khi làm sạch vết mủ, dùng đũa kẹp vải sô ngâm hoàng liên, hỗn hợp hạt mã tiền để loại bỏ dịch viêm, một mặt ấn vào khoang mủ, mặt khác bôi ngoài, chôn đường dẫn lưu (dùng phẫu thuật để dẫn mủ và dịch trong cơ thể ra ngoài), sau đó dùng vải xô khô và sạch đã được hấp qua lót ở bên trên, bên ngoài dùng băng vải hình tam giác buộc lại để cố định.
Phẫu thuật hoàn thành, Đỗ Văn Hạo thờ phào nhẹ nhõm: “Được rồi, không được để vết thương dính nước, phải giữ sạch sẽ. Đợi một chút ta sẽ kê một phương thuốc nước cho đứa nhỏ uống, có tác dụng chống viêm… cái này, để ngăn vết thương lại mưng mủ”.
Hắn thấy hai nữ đối với từ chống viêm cảm thấy rất kỳ lạ, liền đổi cách giải thích. Thầm nhắc nhở bản thân, đây là cổ đại, không thể dùng từ hiện đại được, để tránh làm người khác kinh hãi.
Do dùng kim châm để giảm bớt đau đớn, trong quá trình phẫu thuận hài tử tuy khóc, nhưng không còn vẻ đau thấu tâm can như lúc trước, phẫu thuật hoàn thành, hài tử tựa như cũng biết, trên khuôn mặt bé nhỏ nở nụ cười, hé miệng lộ ra hai hàng răng trắng vừa mới nhú, vô cùng đáng yêu.
Đỗ Văn Hạo còn ít nhiều lo lắng đối với phẫu thuật đơn giản này, dù sao thì thuốc cũng là góp nhặt, dao, vải sô đều không được khử trùng đúng cách, không biết vết thương có bị nhiễm khuẩn hay không, may mà chỗ sưng tấy bưng mủ chỉ ở lớp da ngoài, vấn đề không lớn, nếu ở sâu trong da thịt, hoặc là ở những chỗ quan trọng như đầu, thậm chí mở khoang (khoang trong thân thể như khoang bụng, lồng ngực) ra để phẫu thuật thì với điều kiện phẫu thuận thô sơ như thế này, chỉ sợ sẽ xảy ra vấn đề.
Lâm Thanh Đại và Tuyết Phi thấy tiểu hài cười cũng cười theo, nhìn Đỗ Văn Hạo một cách khen ngợi. Mẫu thân của hài tử thì mắt đẫm lệ cảm tạ ba người.
Tuyết Nhi mỉm cười với Đỗ Văn Hạo: “Nhìn không ra, linh y ngài thật có bản lĩnh. Thế này được rồi chứ?”
“Về cơ bản thì không có vấn đề gì, chiều ngày mai cần thay một lần đường dẫn lưu nữa…, à không, thay thuốc. Thấy tình hình vết thương đã khép miệng thì băng bó lại vết thương, nếu không mưng mủ nữa thì là ổn”.
“Được, ngày mai lại phiền đại phu tới thay thuốc cho hài tử. Còn chưa thỉnh giáo quý tính của đại phu?”
“Tôi tên Đỗ Văn Hạo”.
“Ồ, tôi tên Tuyết Phi Nhi, khách sạn này do cha tôi mở, đây là Lâm Đại Thanh Lâm chưởng quỷ của Ngũ Vị đường, là tỷ tỷ tốt của tôi”.
Đỗ Văn Hạo tuy vừa mới xuyên việt tới Tống triều một ngày, nhưng từ phim điện ảnh, tiểu thuyết tạp chí trên biết được rất nhiều kiến thức, lễ tiết này của cổ nhân cũng biết, lại thêm ngày hôm qua đã quan sát, rất nhanh liền học được lễ tiết cơ bản của Tống triều, học theo mẫu chắp tay nói: “Bái kiến hai vị cô nương”.
Tuyết Phi Nhi sặc cười, nói: “Gọi toi là cô nương thì được, nhưng gọi tỷ ấy thế thì không được đâu, Lâm tỷ tỷ là tiểu tức phụ, không phải là cô nương! Nam nhân của tỷ ấy… hai năm trước đã mất rồi, ngài không thể gọi linh tinh được”.
Đỗ Văn Hạo ngây người, thì ra Lâm Thanh Đại là một quả phụ trẻ, tuổi còn trẻ đã phải ở góa, hắn hiểu được tình cảnh của nàng, trong lòng tràn ngập thông cảm, chắp tay nói: “Xin lỗi, thực là thất lễ, bái kiến phu nhân! Xin phu nhân tha thứ cho tội lỗ mãng vừa rồi!”
Lâm Thân Đại cũng cúi chào, vẻ mặt có chút buồn bã: “Tiên sinh nặng lời rồi, thiếp là phụ nữ ở góa, cứ gọi tên của thiếp hoặc chưởng quỹ là được rồi”.
“Vậy…, vâng! Lâm chưởng quỹ!”
Tuyết Phi Nhi hỏi: “Đỗ lang trung, ngài sống ở đâu?”
Đỗ Lang Trung? Sao nghe giống ‘thổ lang trung’ thế nhỉ?” Đỗ Văn Hạo cười khổ trong lòng, bản thân tự xưng là linh y chứ đâu phải là một thổ lang trung, hắn thở dài: “Tôi hành tẩu giang hồ, tứ hải là nhà, hành nghề bán thuốc cao thuốc viên, kiếm được gì đều bị cướp hết, người không có một xu, xem ra chỉ đành ngủ ở đầu đường xó chợ thôi”.
Tuyết Phi Nhi gật gật đầu, nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Thế này đi, ngài nếu không ngại thì ở khách sạn của cha tôi một đêm, đằng nào ngày mai ngài cũng còn phải thay thuốc cho đứa nhỏ. Thời gian này tôi sẽ tìm vài bệnh nhân cho ngài để kiếm chút tiền. Rồi từ chỗ của Lâm tỷ tỷ mua một chút linh y dược liệu để làm thuốc cao thuốc viên, mua dụng cụ y tế mới rồi lại để cho ngài làm lang trung vân du bốn phương, thế nào?”
Đỗ Văn Hạo nói mình là linh y, chẳng qua là thuận miệng mà thôi, hắn không hề muốn phiêu du tứ hải, có điều cô nương này có thể tìm vài bệnh nhân cho mình khám bệnh, kiếm ít tiền. Chủ ý này cũng không tồi. Lục trước ở phòng khám bệnh của bá phụ cũng từng làm đại phu nghiệp dư, bệnh tật bình thường cũng không làm khó được hắn, lập tức học theo dáng vẻ của người Tống, chắp tay cúi người chín mươi độ, thi lễ: “Vậy thì đa ta cô nương!”
“Không dám! Có điều những người này có thể không trả ngài nhiều tiền đâu, tới lúc đó ngài đừng chê ít nhé”.
“Đâu dám, cô nương nói đùa rồi, linh y hành nghề, khám bệnh lấy tiền thì tùy tâm, đâu có thể chê ít”.
“Vậy thì được, mau viết đơn thuốc đi”.
Đỗ Văn Hạo viết đơn thuốc chống viêm cho Lâm Thanh Đại mua về cho đứa nhỏ uống.
Sau khi Lâm Thanh Đại đi, Tuyết Phi Nhi tìm một gian nhà thô sơ trong căn nhà một tầng cho hắn dùng làm chỗ ở và khám bệnh.
Lúc trước Đỗ Văn Hạo làm phẫu thuật dẫn lưu cho hài tử, bệnh nhân trong thông phô (kiểu như lữ điểm, ký túc xá tập thể có chỗ nằm nối liền với nhau) ngoài trừ những đường đang ngủ ra thì đều thức xem náo nhiệt, đối với phẫu thuật ngoại khoa của vị lang trung này cảm thấy rât mới mẻ, liền truyền miệng cho nhau, đặc biệt là Tuyết Phu Nhi tuyên truyền cổ động khắp nơi, kể lại cố sự đầy đức độ rằng Đỗ Văn Hạo không chút nề hà chữa bệnh cho hài tử nghèo khó không lấy tiến, khiến cho người nghe phải khen ngợi, cho nên, không chỉ những người hầu của tiểu thương ở thông phô thân có chút bệnh tới tìm hắn chữa bệnh, ngay cả những thương gia sống ở thượng phòng cũng tới tìm hắn.
Những người tới khám bệnh chủ yếu là bị các loại bệnh thường gặp như cảm lạnh, tiêu chảy, mụn nhọt, những bệnh này trước kia hắn ở phòng khám của bá phụ đã chữa rồi, cho nên bắt bệnh chữa trị rất tự nhiên.
Chỉ là hắn viết bút lông thì chẳng ra làm sao, từ trước đến giờ chưa luyện qua nên cầm bút như cầm dao, xiêu xiêu vẹo vẹo, cao thấp không đều, hơn nữa còn phải viết chữ phồn thể, khám bệnh không mất nhiều thời gian, viết phương thuốc thì lại tốn không ít công sức, trước cái nhìn giễu cợt của Tuyết Phi Nhi cố viết xong một đơn thuốc thì đầu đầy mồ hôi hột. Thầm nghĩ, muốn tiếp tục lăn lộn ở Tống triều, có thời gian phải luyện viết bút lông thật giỏi mới được.
Tuyết Phi Nhi giúp hắn tìm bệnh nhân, chờ hắn kê xong đơn thuốc thì lại giúp đi đến Ngũ Vị đường ở đối diện thay bệnh nhân lấy thuốc. Hai người bận suốt đến tới đêm khuya mới chữa xong cho bệnh nhân cuối cùng.
Đỗ Văn Hạo đếm số tiền chữa bệnh chiều này, những người tìm đến hắn khám bệnh đại đa số là những người hầu xót tiền, nghèo khổ của các tiểu thương, tiền khám trả một cách tùy tiện, mỗi người tối đa là hai, ba văn, có có vài người còn không trả tiền, cho nên cộng lại chỉ được hai mươi mấy văn, tương đương với hơn hai chục nhân dân tệ, có điều thế là đủ để mai ăn cơm rồi, coi như là có chút xíu thu hoạch.
(Chú: chế độ tiền tệ của Tống triều cực kỳ hỗn loạn, ghi chép cũng đầy mâu thuẫn. Về tỉ giá hối đoái căn cứ vào tham số cơn bản của giá gạo, một lượng bạc Tống triều đại khái giá trị sau mươi đến một ngàn ba trăm đồng nhân dân tệ. Sách này để tiện tự thuật và lý giải, xác định công thức hối đoái là: 1 ngàn văn đồng tiền = 1 quán = 10 điếu = 1 lượng bạc =0.1 lượng vàng = 1 ngàn đồng nhân dân tệ. Một văn tiền cũng tương đương với một đồng nhân dân tệ).
Tuyết Phi Nhi đang muốn cáo từ thì Đỗ Văn Hạo vội vàng nói: “Tuyết cô nương!”
Tuyết Phi Nhi quay người nhìn hắn: “Có chuyện gì?”
“Ừm, tôi…, tôi đói bụng, một ngày không ăn gì rồi. Không biết trong tiệm còn gì ăn không?”
“A? Sao ngài không nói sớm, giờ đã là canh ba, đầu bếp đi ngủ rồi”.
“Vừa rồi bậnn khám bệnh suốt, tôi sao có thể để bệnh nhân chờ còn mình thì đi ăn chứ. Ăn gì cũng được, chỉ cần có cái nhét vào bụng là được rồi”.
Khách sạn này của cha Tuyết Phi Nhi chủ yếu dành cho ở trọ, tuy có nhà ăn, nhưng không chú trọng kinh doanh ẩm thực, cho nên không còn nhiều thức ăn thừa, nàng ta nói: “Vậy được rồi, tôi tới phòng bếp xem thử. Ngài đợi nhé!”
Tuyết Phi Nhi vội vã ra ngoài, không lâu sau, cầm hai cái bánh bao đã khô cứng và một đĩa dưa muối chạy về: “Thật ngại quá, chỉ còn cái này thôi”.
Đỗ Văn Hạo lúc này đã đói mờ cả mắt rồi, nhìn thấy hai cái bánh bao khô, so với vây cá tôm hùm còn thèm khát hơn, vội vàng nhận lấy: “Không hề gì! Thế này là được rồi!” Nhét vào miệng cắn mạnh một miếng, rắc rắc, tí thì gãy răng.
Tuyết Phi Nhi mỉm cười: “Bánh bao nguội cứng lắm, nhúng nước rồi hẵng ăn”.
Khác sạn ở trọ này đều dành cho những người hầu của thương không có tiền, bán giá cao thì người khác không mua được, cho nên bánh bao này được làm bằng bột đen rẻ tiền nhất, khi nguội thì cứng như đá. Đỗ Văn Hạo vội vàng bẻ vụn bánh ra rồi bỏ vào bát, đổ nước ngâm cho mềm rồi mới cho vào miệng nhai, nhai được mấy miếng thì không khỏi cười khổ, thầm nghĩ bột này tồi quá, cho vào miệng ăn giống y như nhai đất, có điều một ngày không ăn gì nên cũng chẳng chú ý đến những điều này. Cả đĩa dưa muối cũng đổ vào bát ăn ngấu nghiến.
Tuyết Phi Phi bật cười khúc khích: “Nhìn ngài thế này! Chắc là đói lắm rồi. Ăn chậm một chút, không ai tranh của ngài đâu”.
Đỗ Văn Hạo không trả lời, ăn sạch sành sanh một bát bánh bao nhúng nước. Lau miệng một cái, vỗ vỗ bụng, lúc này mới xấu hổ cười ngờ nghệch.
Tuyết Phi Nhi cũng mỉm cười nhìn hắn: “Mau đi ngủ đi, tôi đi đây!”
Đỗ Văn Hạo luôn miệng cám ơn, tiễn Tuyết Phi Nhi ra cửa.
Sau khi Tuyết Phi Nhi đi, Đỗ Văn Hạo đóng cửa lại, rải tấm khăn trải giường có mùi nấm mốc thum thủm ra, cởi áo dài bằng vải thô có màu xanh nhạt xuống, thổi tắt đèn rồi nằm lên giường, cực khổ cả một ngày, không khỏi hông mỏi lưng đau.
Đây là buổi tối đầu tiên ở Tống triều, những đồng tiên đầu tiên kiếm được chỉ đủ ăn cơm một ngày, hắn không khỏi thấy ai oán, nghĩ tới mười năm gian khổ học hành, hiện giờ không hiểu sao lại xuyên việt tới Tống triều, trở thành một lang trung vân du bốn phương, nằm trên một chiếc giường nhỏ cũ kỹ một cách đáng thương, chăn còn bốc mùi nấm mốc, ăn bánh bao nguội cứng đến nỗi có thể đập vỡ đầu, nếu cha mẹ biết rằng bọn họ lúc trước không nỡ gửi con trai đến nơi phải chịu khổ, hiện tại lại phải chịu cảnh như thế này, không biết sẽ đau lòng như thế nào, trong lòng không khỏi bi thương, mủi cảm thấy cay cay.
Có điều, hắn không phải là một người đa sầu đa cảm, khịt khịt mũi, trở người, đằng nào cũng đã rơi vào cảnh này rồi, trong đầu hồi tưởng lại những chuyện mới mẻ đã gặp ở cổ đại ngày hôm nay, liền thay đổi sự chú ý.
Nghĩ nghĩ ngợi ngợi, nhớ tới nữ chưởng quỹ Lâm Thanh Đại phong tư trác tuyệt, quả cảm trượng nghĩa, lại nghĩ tới Tuyết Phi Nhi hoạt bát đáng yêu, giàu lòng nhân ái, hai nữ tử đều xinh đẹp, lại đối xử tốt với mình, trong lòng bất giác cảm thấy ấm áp. Mệt mỏi một ngày rồi, nghĩ ngợi một hồi liền thiếp đi.