Tông Chính Tự dù sao cũng không phải nha môn tư pháp, tôi một mình điều tra, không có ai giúp sức, rất khó mở rộng, huống hồ án này liên quan tới hai vị vương gia cùng đủ thứ dây mơ rễ má trong triều, vướng chân vướng tay, biết bắt đầu từ đâu được?"
"Ta sẽ giúp cô! Chúng ta...chúng ta bắt tay từ cách tách lớp mực phía trên đi!" Chu Tử Tần sửa áo ngồi nghiêm ngắn lại, "Lần trước ta tới đập cửa nhà Dịch tiên sinh, ép ông ta dạy cách tách mực, thoạt đầu ông ta không chịu nhưng ta cứ lăn lộn nài xin suốt một ngày, cuối cùng ông ta mới nói đó là phương pháp bí truyền, trừ đệ tử nhập thất ra không truyền cho ai cả."
"Sau đó thì sao?" Hoàng Tử Hà biết tài đeo bám của Chu Tử Tần là đệ nhất thiên hạ, nhất định không có việc gì không làm được.
Quả nhiên, gã ghé sát lại thì thào: "Ta lập tức chuẩn bị sáu phần lễ vật, quỳ xuống dâng trà dập đầu bái sư, ngay chiều hôm ấy đã moi được phương pháp bí truyền nọ."
Hoàng Tử Hà chẳng biết nên thán phục hay bỉ bôi, cuối cùng đành cúi đầu lẳng lặng ăn cháo: "Sao công tử không kể cho tôi?"
Nghe cô hỏi, Chu Tử Tần tiu nghỉu đáp: "Đừng nhắc đến nữa, cách đó có thể tác dụng với bức tranh của tiên hoàng, nhưng chẳng có ích gì với lá bùa kia cả."
"Công tử thử nói nghe xem nào?"
"Là thế này, muốn xóa hết lớp mực bên trên, phải hong giấy trên lửa, khi giấy nóng lên thì liên tục dùng vải mềm tẩm dấm ấm lên, đồng thời vẫn phải hong lửa riu riu để tránh giấy bị ngấm nước lại mủn ra. Nếu giấy dầy thì còn đỡ, nếu mỏng thì hết cách. Để xóa được hết vết mực mà không làm hỏng giấy, thường phải thấm một ngày một đêm, thấm một lúc lại nghỉ một lúc. Sau đó xoá sạch vết mực, lại phải đun trà trong phòng hong tờ giấy một ngày một đêm, mới khử hết được mùi dấm!" Hoàng Tử Hà trầm ngâm: "Tức là, ít nhất cũng mất hai ngày một đêm."
"Phải, trước đây cô và Quỳ vương đã nói, lá bùa kia có mấy lần chỉ trong vòng nửa ngày đã đổi màu, nên nhất định không thể dùng cách này được."
"Huống hồ, trí nhớ của Quỳ vương rất rành mạch, nếu lá bùa bị vần vò như thế, sao gia lại không phát hiện ra?" Hoàng Tử Hà nhíu mày, trầm ngâm giây lát mới chậm rãi nói tiếp: "Có lẽ, chúng ta đều nghĩ ngược mất rồi."
"Ngược cái gì?" Chu Tử Tần gặng.
"Có lẽ không cần phải xóa vết mực son đi, mà thực ra, chúng đã dùng một biện pháp đơn giản hơn nhiều..." Cô cau mày, "Có điều hiện giờ chưa lấy được lá bùa của Quỳ vương, nhất thời tôi cũng không thể khẳng định suy đoán của mình được."
"Lá bùa giờ ở đâu?"
"Chắc vẫn còn ở gác Ngữ Băng trong phủ Quỳ. Có điều giờ Quỳ vương đang ở ngôi đình của Tông Chính Tự, không về lấy được."
Chu Tử Tần nghĩ ngợi rồi vỗ trán đề nghị: "Ta cầm cái của ta đi, lén tráo đổi với cái của vương gia, sau đó đưa đến chỗ Quỳ vương, chẳng phải được rồi ư?"
Hoàng Tử Hà nghe nói cũng thấy buồn cười: "Sao phải lén cầm hộp đi tráo đổi? Giờ lá bùa ấy chẳng còn gì quan trọng nữa, công tử nhờ người nói với Quỳ vương một tiếng, xin gia viết cho một tờ giấy rồi đến vương phủ mà lấy, chẳng phải đường hoàng hơn ư?"
"À...cũng đúng nhỉ." Chu Tử Tần nói đi là đi, lập tức đứng dậy bước ra, "Cứ vậy đi, đợi ta lấy được lá bùa sẽ đem đến cho cô xem."
Hoàng Tử Hà bất lực nhìn theo bóng gã đi thẳng ra cửa. Đối với kẻ đến đi ào ào như gió thế này, cô đành gọi với theo: "Nhớ cẩn thận đấy!"
Lời vừa ra khỏi miệng, cô bỗng sững sờ, ánh chớp vụt lóe lên trong đầu khiến cô sực nghĩ ra gì đó, nhưng hết sức hư vô mờ mịt, cơ hồ không thể nắm giữ.
Hoàng Tử Hà lẩm bẩm nhắc lại lời Chu Tử Tần: "Ta cầm cái của ta đi, lén tráo đổi với cái của vương gia..."
Thình lình cô đứng phắt dậy gọi to: "Chu Tử Tần!"
Chu Tử Tần đã ra khỏi phòng, nghe tiếng cô thì giật bắn mình, hớt hải trở vào: "Sao thế sao thế?"
"Công tử đợi cho một lát." Nói rồi cô rút cây trâm trên đầu, vạch lên mặt bàn. Chu Tử Tần nghi hoặc hết sức, nhưng biết đây là thói quen của cô, đành dựa vào khung cửa nhìn cô vạch loạn cả lên, vết vạch rất nông, không hề để lại dấu tích. Gã nhìn mãi vẫn chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì.
Cuối cùng, Hoàng Tử Hà cắm cây trâm ngọc vào chỗ cũ, đứng dậy: "Đi thôi."
"Đi đâu?"
"Tiệm đồ gỗ Lương Ký, tìm Tôn sư phụ."
Tháng Giêng vốn là mùa ế ẩm của các tiệm đồ gỗ, nhưng Lương Ký vẫn làm ăn phát đạt, mấy mảnh sân chất đầy vật liệu thượng đẳng, mọi người vừa làm vừa tán gẫu: "Lần này là nhà nào mà làm nhiều đồ xa hoa thế?"
"Họ Vương Lang Gia cưới dâu, chú rể chính là Vương Uẩn, hữu thống lĩnh của Ngự Lâm quân, em họ hoàng hậu, con trai Vương thượng thư đấy mà. Nghe nói là cưới con gái của Hoàng sứ quân, nguyên là thị lang bộ Hình, về sau đến Thục làm quận thú đó."
Ai nấy đều gật gù tán thưởng: "Ồ, đúng là môn đăng hộ đối, trời xe duyên lành!"
Chu Tử Tần ngạc nhiên quay sang Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà cũng không ngờ lại gặp phải việc này ở đây, nghe họ bàn luận cuộc hôn nhân giữa mình và Vương Uẩn, lòng cô ngổn ngang trăm mối, đành quay đi, vừa buồn bã vừa thẹn thùng.
Song Chu Tử Tần lại sán đến hỏi nhỏ: "Thì ra cô đến xem đồ cưới hả?"
Mặt Hoàng Tử Hà đỏ bừng lên, vừa ngượng vừa tức, trừng mắt lườm gã rồi quay ngắt đi vào trong, tìm Tôn sư phụ.
Chu Tử Tần còn nghe thấy đám người phía sau bàn tán: "Nhưng thường thì đồ cưới là do nhà gái chuẩn bị, sao giờ lại đến lượt nhà họ Vương làm?"
"Ài, cả nhà Hoàng sứ quân chỉ còn lại một cô con gái mồ côi ấy thôi, ai chuẩn bị những thứ này cho cô ấy được? Còn chẳng phải nhà họ Vương chuẩn bị sẵn, tới lúc đó đưa đến ngoại thành cho đội rước dâu, để cô ấy được vẻ vang gả vào nhà chồng hay sao."
"Hoàng tiểu thư tuy gặp nhiều trắc trở, nhưng được nhà chồng như thế đúng là có phúc!"
Chu Tử Tần lẳng lặng ngó sang, thấy Hoàng Tử Hà bịt tai giả điếc, xăm xăm đi về phía Tôn sư phụ đang cắm cúi với nào ống mực nào dùi đục.
Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua bệ gỗ nơi Tôn sư phụ làm việc, cũng như lần trước, trên đó lổng chổng hết búa lại bào cùng cơ man mảnh gỗ vụn và mùn cưa, khiến người ta không sao tưởng tượng nổi những rương hòm, chậu chén tinh xảo kia đều từ đây mà ra.
Tôn sư phụ thoạt nhìn đã nhận ra Chu Tử Tần, vồn vã chào hỏi: "Đến đấy à? Hôm nay công tử muốn làm gì?" Chu Tử Tần nhìn Hoàng Tử Hà, thấy cô đang chăm chú quan sát bệ gỗ, bèn đáp: "Hôm nay ta theo cô ấy đến tham quan thôi."
"Thế ư?" Tôn sư phụ xoa tay cười nói: "Chiếc hộp lần trước công tử mua của tôi, dùng vẫn tốt chứ?"
"Tốt lắm." Chu Tử Tần đáp bừa.
"Phải rồi, năm xưa sư phụ tôi dạy rằng, một nghề cho chín còn hơn chín nghề. Dĩ nhiên tôi chẳng dám mong phát tài to như lão nhân gia, chỉ cần nhờ phúc các quý khách, có bát cơm ăn là đủ."
Nghe ông ta nói vậy, Hoàng Tử Hà liền hỏi: "Hoắc sư phụ là thợ mộc nổi tiếng kinh thành, đương nhiên khấm khá, nhưng dù sao cũng là người làm việc tay chân, hẳn phải vất vả lắm nhỉ?"
"Ai dám bảo không nào? Cả đời ông ấy luôn tay luôn chân, nhưng cũng chỉ nhận bạc cắc, ba bốn năm trước mới mua được mười mấy mẫu đất ở quê và một căn nhà lớn, sư phụ bấy giờ tuyên bố không làm nữa, muốn về quê hưởng an nhàn..." Kể tới đây, Tôn sư phụ thở dài lắc đầu: "Tiếc rằng lão nhân gia chẳng có cái phúc ấy, trên đường về quê lại gặp cướp, cả nhà lớn bé đều...Ôi!"
Chu Tử Tần vội hỏi: "Vậy đất đai nhà cửa thì sao?"
"Bị người trong tộc xâu xé cả, tôi cũng không rõ lắm."
Hoàng Tử Hà hờ hững góp lời: "Tiếc thật đấy, mười mấy mẫu ruộng và một gian nhà rộng, người bình thường làm quần quật cả đời chẳng kiếm nổi chừng ấy, vậy mà ông ta thoắt cái đã mua được, nhưng cuối cùng cũng không có phúc hưởng."
"Đúng vậy, có lẽ đó là tiền sư phụ tôi gom góp cả đời...Thế mà bình thường tôi chẳng nhìn ra." Nói đoạn, Tôn sư phụ lại quay sang lấy lòng Chu Tử Tần, "Hay là công tử làm một cái hộp nữa như thế đi?"
"Thôi thôi, ta dùng cái hộp phiền phức ấy làm gì? Muốn mở ra cũng phải vật vã nửa ngày, chỉ hợp với người trí nhớ siêu phàm thôi, ta chịu thua không thể mở nó thoăn thoắt như thế được." Chu Tử Tần chê bôi.
Hoàng Tử Hà nhìn cách bày biện trong phòng, hỏi dò: "Ở đây có còn di vật của Hoắc sư phụ không?"
Tôn sư phụ lắc đầu: "Ông ấy đã quyết rời kinh, đời nào còn để lại đồ đạc. Chỉ cho tôi tất cả công cụ hành nghề, nói rằng về sau không dùng đến nữa."
Hoàng Tử Hà đề nghị: "Cho tôi xem các công cụ ấy được không?"
"Được thôi, nhưng có mấy thứ mấy năm nay tôi dùng cũng hỏng hóc, vứt bỏ mất rồi..." Tôn sư phụ dẫn bọn họ ra phía sau, ngồi xuống mở hòm đồ nghề ra, lần lượt lấy từng thứ bên trong bày xuống đất.
Hoàng Tử Hà nhìn qua một lượt những thước lỗ ban, ống mực, dây gai...đã cũ, rồi dừng ở mấy miếng keo ong(1): "Thợ mộc cũng dùng thứ này ư?"
(1) Hỗn hợp gồm một loại nhựa cây trộn với chất tiết ra từ tuyến nước bọt của ong. Ong sử dụng loại keo này để trát kín tổ, qua đó giúp bảo quản mật ong, bảo vệ sự phát triển của ấu trùng và trứng khỏi sự tấn công của vi rút cũng như bảo vệ bản thân ong khỏi sự tấn công của các loài chuột bọ.
"Đúng vậy, tôi cũng lấy làm lạ, hơn nữa miếng keo ong này chẳng dính mấy, hình như có lẫn mùn cưa." Tôn sư phụ giải thích, "Lúc tôi mới ra nghề, sư phụ từng nói có những thợ mộc tay nghề kém, ghép mộng không khớp, lung lay như răng bà lão, đành phải trét keo ong vào mối ghép để lừa khách. Như vậy lúc khách mới lấy về thì vững chãi, nhưng dùng ít lâu keo ong long ra, mộng ghép không chắc, nhẹ thì bàn ghế lung lay, nặng thì đổ sập. Sư phụ bấy giờ còn kiêu hãnh nói, từ lúc ra nghể đến giờ là ba mươi năm, chưa bao giờ dùng đến keo ong!"
Hoàng Tử Hà giơ ngón tay chạm nhẹ vào miếng keo ong, để qua vài năm, trời lại rét buốt, miếng keo đã cứng lại thành một cục đen sì cứng ngắc, lẫn nhiều mùn cưa, trông rất khó coi.
Chu Tử Tần nhận xét: "Xem ra Hoắc sư phụ tay nghề cũng không ổn lắm, làm bấy nhiêu năm mà vẫn phải dùng loại keo ong này."
Tôn sư phụ giận dữ phản bác: "Không có chuyện đó! Tay nghề sư phụ vô cùng khéo léo, chưa bao giờ có vấn đề! Có lẽ ông ấy dùng vào việc khác thôi!"
"Còn dùng vào việc gì được nữa? Trên miếng keo nhiều mùn cưa thế này, thoạt nhìn đã biết là dùng để dán gỗ rồi." Chu Tử Tần vặc lại.
Tôn sư phụ đỏ mặt tía tai, nhưng không sao cãi được. Hoàng Tử Hà vặt một miếng keo ong, dùng giấy dầu gói lại rồi đứng dậy: "Đa tạ Tôn sư phụ, tôi nghĩ Hoắc sư phụ là thợ mộc có tiếng, ắt sẽ cần nó vào việc khác, chứ không dùng vào những việc bình thường đâu."
"Hẳn là thế..." Tôn sư phụ hậm hực đáp.
Thấy Hoàng Tử Hà quay người trở ra, Chu Tử Tần theo sau hỏi: "Cô lấy cái này làm gì?"
"Có gì đâu." Hoàng Tử Hà hờ hững trả lời. "Có lẽ đây là chìa khóa để mở hộp cửu cung."
"Gì cơ? Keo ong mở được hộp cửu cung ư?" Chu Tử Tần thất thanh hỏi lại.
Hoàng Tử Hà gật đầu.
Chu Tử Tần bám theo sau cô, băng qua đám thợ mộc đang tất bật trong sân, thấy cô đi thẳng ra cổng thì cuống quýt gặng: "Nói cho ta đi mà, rốt cuộc là chuyện gì thế?"
Song Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ rảo bước ra khỏi xưởng đồ gỗ, đứng giữa ngọn gió đầu xuân lạnh buốt, thở hắt ra một hơi rồi ngoái lại nhìn gã: "Tử Tần..."
Chu Tử Tần vội sán ngay đến, chỉ thiếu điều chưa vẫy đuôi: "Tử Hà?"
"Công tử còn nhớ trung thu năm ngoái, chúng ta đã phá vụ án một nhạc kỹ gảy không hầu ở Thục không?"
"Hả? Vụ đồ đệ Úc Lý giết sư phụ Bích Đào ấy à?" Chu Tử Tần ngỡ ngàng không hiểu sao cô lại đột nhiên nhắc tới vụ này.
Hoàng Tử Hà nhìn ráng chiều cuối trời, gật đầu: "Bấy giờ chúng ta thấy trên mu bàn tay Bích Đào có một vết xước mới, nên suy đoán rằng nhất định có thứ gì đó đã bị tuột ra khỏi cổ tay cô ta đúng không?"
"Phải phải, chính là xâu vòng một gã đàn ông tặng, hại hai thầy trò họ tàn sát lẫn nhau, ôi, cả hai cô đều xinh đẹp nữa chứ, đúng là khiến người ta thương tiếc." Chu Tử Tần đương nhiên chỉ biết nghĩ đến chuyện thương hoa tiếc ngọc.
"Thực ra mọi thứ trên đời này, chỉ cần nghĩ cách, ắt sẽ tìm thấy dấu vết tương ứng, phải không?" Hoàng Tử Hà quay đầu nhìn gã, ánh mặt trời từ sau lưng hắt lại, khiến đôi mắt cô càng thêm sáng rỡ, cả người cũng sáng bừng lên, "Ví như bất luận là tám mươi thanh đồng của người thợ mộc đóng hay tám mươi mã chữ ngẫu nhiên do Quỳ vương chọn lựa, chỉ cần cố ý, đều có thể để lại dấu vết, phải không nào?"
Chu Tử Tần ngẫm nghĩ hồi lâu rồi ngơ ngác nhìn cô: "Ý cô là...mấu chốt nằm ở keo ong ư?"
Hoàng Tử Hà gật đầu nói khẽ: "Đúng vậy. Sau đây tôi phải kiểm chứng lại một việc nữa. Nếu việc này là thật, thì mọi thứ có thể kết thúc." Nói dứt câu, vẻ mặt cô cũng chẳng biết là vui hay buồn, song cặp mắt đã giăng đầy sương khói.
Dưới ánh nắng chiều nhàn nhạt, Trường An cổ kính toát lên vẽ đìu hiu quạnh quẽ, những thân cây trút hết lá đứng ủ rủ bên đường, cả thế gian dường như chỉ có dung mạo cô sáng bừng lên. Mắt cô ánh lên vẻ cố chấp kiên nghị, không lùi một bước, khiến Chu Tử Tần thấy vừa thân thuộc vừa xa lạ, vừa kính sợ lại vừa thương xót, nhưng chẳng biết phải diễn tả thế nào, đành lặng lẽ nhìn cô, nói hùa theo: "Kết thúc...thì tốt quá." Gã đưa cô về đến nhà rồi mới một mình lủi thủi quay về, đi giữa phố phường Trường An, chợt ngẩng lên nhìn bầu trời âm u nhạt nắng, sực nhớ ra vì sao lúc nãy lại thấy ánh mắt Hoàng Tử Hà quen đến vậy.
Có một năm, vào mùa đông, gã hẹn với một đám lính Ngự Lâm thân thiết ra ngoại ô đi săn. Thảo nguyên mùa đông rộng mêng mông, họ thúc ngựa phi như bay, xua bầy hươu vào giữa vòng vây rồi quây lại bắn giết. Những con hươu sao hoảng loạn chạy trốn lần lượt ngã xuống, không con nào thoát được số phận bị tên bắn xuyên mình.
Vòng vây của họ càng lúc càng thu hẹp lại, cuối cùng chỉ còn một con duy nhất, đứng bên thi thể đồng loại, mở to mắt nhìn đoàn người thúc ngựa áp sát.
Đôi mắt nó trong suốt mà sáng rực, dưới hàng mi dày cong vuốt, trông còn to tròn, gần như có thể thấy rõ bóng kẻ đi săn đang giương cung lắp tên in trong đó.
Chẳng biết vì lẽ gì, Chu Tử Tần lại từ từ hạ cung tên xuống, ngây ra nhìn con hươu.
Giữa đống xác hươu, tứ chi thon dài và bốn nhánh sừng vươn cao đẹp đẽ trên đầu nó càng thêm nổi bật. Mười mấy người đều kéo căng dây cung, nhắm chuẩn vào nó.
Vào khoảnh khắc đối mặt với cái chết, nó bỗng tung người nhảy lên, vượt qua xác tất cả đồng loại, lao đi như bay. Hai mũi tên bay sát qua sườn, khiến bộ lông tuyệt đẹp của nó đầm đìa máu, con hươu mang theo vết thương chạy biến vào khe núi, mất tăm mất tích.
Chỉ có đôi mắt ấy, vẫn đọng lại trong ký ức Chu Tử Tần.
Giống như vẻ kiên cường cố chấp không lùi một bước dù đã sắp rơi vào đường cùng trong mắt Hoàng Tử Hà vậy.
Chu Tử Tần bỗng ngẩn ngơ, mọi thứ trên đời dường như đều lùi ra xa, không cách nào đến gần được. Gã đành dựa vào gốc cây phía sau, đứng lặng giây lát, thầm nghĩ, chẳng biết cô ấy có thể liều chết tung người nhảy khỏi vòng vây như con hươu nọ, trở về thế giới của mình không?
Mà con hươu bị thương bỏ trốn vào trong núi ấy, cuối cùng có sống được hay không?
Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu. Nhìn thái độ của cô, Vương Uẩn hạ giọng hỏi: “Cô gặp Lữ Tích Thúy rồi ư?”
“Còn chưa dám khẳng định. Nhưng nếu Vương công tử tuần tra trên đường, có thể để ý giúp tôi không?”
“Được.” Y đáp ngắn gọn, không chút lưỡng lự.
Hoàng Tử Hà cảm kích nhìn y, nói khẽ: “Đa tạ công tử.”
“Sao cô khách sáo thế?” Y cúi đầu nhìn cô, ánh mắt đầy ý cười.
Hoàng Tử Hà chợt thấy lòng xao xuyến, đành cúi đầu từ biệt rồi lặng lẽ quay đi.
Có lúc sự đời cứ trêu ngươi như thế. Hoàng Tử Hà bắt gặp Tích Thúy hai lần trước tiệm nhang đèn, nhưng Chu Tử Tần, Trương Hàng Anh và Vương Uẩn, ba người ở trong kinh, lại không sao tìm thấy tung tích nàng.
“Vậy đừng tìm nữa nhé, tìm được cũng chưa chắc đã là chuyện tốt, có khi còn thêm phiền phức.” Mấy hôm sau Vương Uẩn tới thăm, bảo cô như vậy.
Hoàng Tử Hà gật đầu, lại thấy nước đọng trên tóc mai y, bèn hỏi: “Bên ngoài đổ mưa ư?”
“Mấy bông tuyết tan bám vào tóc ấy mà.” Y lơ đãng phủi đi.
Hoàng Tử Hà nhìn những bông tuyết vụn như có như không bên ngoài, khơi cho lò lửa to hơn rồi hỏi: “Thời tiết thế này, việc gì phải đến tận đây tìm tôi để nói chuyện đó?”
“Vì muốn gặp cô đấy thôi.” Y cười, chăm chú nhìn cô hồi lâu rồi dịu giọng nói thêm, “E cô cả ngày buồn chán.”
Trước cái nhìn đăm đắm của y, Hoàng Tử Hà hơi lúng túng, đành đưa mắt nhìn sang đôi A Già Thập Niết trong bình pha lê cạnh đó: “Không sao, thỉnh thoảng tôi lại ngồi ngắm đôi cá Vương công công tặng.”
“Không phải cô nhàn rỗi cả ngày chỉ cho cá ăn đấy chứ? Để ta xem lớn lên được tí nào chưa?” Y cười nói, giơ bình pha lê lên ngang mắt ngắm nhìn rồi lại quay sang cô, “Gay thật, cả cá lẫn người đều gầy nhom thế này, có phải vì trời suốt ngày đổ tuyết không?”
Hoàng Tử Hà phì cười: “Tuyết phải kêu oan, oan quá oan quá, từ bao giờ mà cá béo cá gầy cũng đổ cho tôi?”
Vương Uẩn tươi cười nhìn đôi cá nhỏ, rồi nhìn sang cô, ngắm gương mặt chưa tắt nụ cười, đôi mắt lấp lánh như sao, hàng mi cong vút, khóe môi tươi tắn, lòng bất giác lại thấy ngọt ngào.
Cuối cùng y nhẹ tay đặt bình cá xuống bàn, khẽ gọi: “Tử Hà...”
Hoàng Tử Hà nhướng mày nhìn y.
Phút giây ấy, bỗng quên khuấy chẳng biết mình định nói gì với cô, dường như chỉ muốn gọi tên cô một lần, dường như chỉ muốn nhìn ánh mắt cô hướng sang mình mà thôi.
Thật lâu, y mới ngượng nghịu đáp: “Thực ra, ta không phải đến vì việc Lữ Tích Thúy.”
“Ồ?” Hoàng Tử Hà ngạc nhiên.
“Hoàng hậu muốn gặp cô.”
Hoàng Tử Hà kinh ngạc hỏi lại: “Hoàng hậu nương nương muốn gặp tôi ư? Có việc gì căn dặn sao?”
“Chuyện đó thì ta không biết. Trường Linh nữ quan chỉ đến báo rằng hoàng hậu bảo ta dẫn cô vào bái kiến.”
Trong cơn mưa tuyết lay phay, Hoàng Tử Hà theo cung nữ bước lên thềm gác Bồng Lai cung Đại Minh.
Vương hoàng hậu ngồi trước tấm bình phong chạm lầu ngọc núi tiên, vận bộ váy tía pha chỉ vàng, như ráng chiều lộng lẫy chói mắt. Khắp thiên hạ này, cũng chỉ có hoàng hậu mới kết hợp được hai màu đỏ tía và vàng kim huy hoàng như vậy thôi.
Sau khi cho tất cả lui ra, gian điện thênh thang chỉ còn hai người họ, khó tránh khỏi trống trải quạnh quẽ. Hoàng Tử Hà nhìn làn khói lững lờ bay lên từ lò hương sơn son thếp vàng, khiến cả gian điện mờ mịt mơ hồ, ngay dung mạo Vương hoàng hậu cũng như khuất dưới làn mây, không sao trông rõ được nét mặt.
Chỉ nghe thấy giọng hoàng hậu bình thản mà vô tình: “Chúc mừng ngươi rửa sạch oan khiên, báo thù cho người nhà.”
Hoàng Tử Hà cúi đầu: “Đa tạ nương nương hạ cố.”
Hoàng hậu vẫn bình thản, chậm rãi hỏi tiếp: “Nghe nói lần này ngươi về Thục, còn phá được vụ án một nghệ nhân ở Dương Châu?”
Hoàng Tử Hà thản nhiên đáp: “Bẩm vâng. Có một nghệ nhân dựng vở ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, tên Phó Tân Nguyễn, sau khi đến Thục thì bỏ mạng dưới tay tình nhân là Tề Đằng. Chị em của cô ta là Công Tôn Diên và Ân Lộ Y đã lập mưu giết chết Tề Đằng báo thù. May sao có Lan Đại thu xếp từ bên trong, cuối cùng họ cũng giữ được tính mạng, chỉ bị đày đến Tây Cương mà thôi.”
“Thực đáng tiếc...người ta chị em nghĩa nặng, vốn dĩ sau khi báo thù sẽ lại sống yên vui như thường, sao ngươi tự dưng đi khuấy vũng nước đục ấy lên?” Giọng Vương hoàng hậu thoáng vẻ thê lương.
Hoàng Tử Hà cúi đầu, song eo lưng thon thả vẫn thẳng như quản bút, bình thản đáp: “Pháp lý nhân tình, pháp trước, sau mới đến tình. Nếu có oan uổng, nha môn sẽ xử lý, sao lại tự ý ra tay được?”
Vương hoàng hậu nhìn cô chằm chằm, hồi lâu mới thong dong đứng dậy, bước xuống sập trầm hương, đến trước mặt Hoàng Tử Hà rồi dừng lại nhìn xoáy vào cô. Hoàng Tử Hà cứ ngỡ sẽ bị khiển trách, ngờ đâu hoàng hậu chỉ cười khẽ: “Vậy cũng phải gặp người như ngươi, mới có thể trả lại sự trong sạch cho người ta được. Nếu lần này ngươi không đến Thục, ngươi tưởng sẽ có người rửa oan cho Phó Tân Nguyễn hay sao? Cả vụ án của Công Tôn Diên và Ân Lộ Y nữa, ai mà phá được?”
“Lưới trời lồng lộng, ắt có công đạo.”
“Có lúc ta cảm thấy, nếu ngươi không xuất hiện, rất nhiều chuyện có lẽ sẽ tốt hơn.” Vương hoàng hậu dạo quanh cô một vòng, rồi lại chậm rãi nói, “Nhưng cũng có lúc, nếu không có ngươi, có những việc sẽ không bao giờ bộc lộ chân tướng. Ngay cả ta- cũng có lúc cần chân tướng.”
Hoàng Tử Hà dập đầu vái lạy hoàng hậu, lặng thinh đợi bà ta nói tiếp.
Vương hoàng hậu nhìn chằm chằm vào cô nói thật chậm: “Ít nhất ngươi cũng đã giúp ta thu nhặt đầu lâu, để con bé đáng thương ấy được toàn thây.”
Giọng Vương hoàng hậu hơi run rẩy. Cô ngước lên, thoáng trông thấy đôi mắt u buồn của hoàng hậu loang loáng nước, nhưng đặt trên gương mặt bình thản, lại khiến cô cứ ngỡ vừa rồi chỉ là ảo giác.
Chẳng đợi cô kịp trông rõ, Vương hoàng hậu đã quay mặt đi: “Lại nói, ngươi giỏi nhất là phá giải những chuyện ly kỳ không có manh mối, mà sự việc kỳ quái chấn động nhất kinh thành hiện giờ, là Ngạc vương tự vẫn.”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vâng...Điểm quái dị trong chuyện này khiến người ta khó mà suy đoán được.”
“Tuy người trong kinh bàn tán xôn xao, nhưng ta nghĩ, trừ Ngạc Vương ra, có lẽ chỉ mình ngươi mới lần ra được chân tướng bên trong thôi. Dù sao Vương công công cũng đã nhận lấy củ khoai phỏng tay này, ắt sẽ phải có câu trả lời cho hoàng thượng.” Nói rồi, Vương hoàng hậu lại thong dong đi sang bên cạnh. Hoàng Tử Hà còn đương phân vân chưa hiểu hoàng hậu có ý gì, thấy bà ta lẳng lặng đi thẳng, thì cũng lật đật đi theo.
Ra khỏi cửa sau gác Bồng Lai, trước mặt là một con đường quanh co hẹp mà dài. Trường Linh đã đứng đợi sẵn, trao cho cô một chiếc ô, đồng thời xòe một chiếc nữa ra che cho Vương hoàng hậu.
Vương hoàng hậu chẳng buồn nhìn Hoàng Tử Hà, thản nhiên nhấc gấu váy đi tiếp. Thấy chân hoàng hậu xỏ đôi ủng ánh bạc, Hoàng Tử Hà biết hoàng hậu đã chuẩn bị từ trước. May mà hôm nay vào cung, cô cũng đi một đôi ủng thấp, không sợ lội mưa.
Dọc con đường lát đá xanh, thi thoảng lại thấy vài chiếc lá vàng. Vườn ngự mưa tuyết tơi bời, giá rét cùng hơi nước khiến tất cả chỉ muốn trốn trong nhà, trên đường vắng hoe không một bóng người. Hoàng Tử Hà cắm cúi theo sau Vương hoàng hậu, cho tới khi thấy hoàng hậu bước lên thềm, cô ngẩng lên mới thấy cung điện nguy nga sừng sững ngay trước mặt, ra là điện Tử Thần. Trong triều thường nói muốn ra vào điện Tử Thần phải băng qua cửa gác Đông hoặc gác Tây ở hai bên điện Tuyên Chính, nên mới gọi là “vào gác”, ai ngờ phía sau điện Bồng Lai còn một lối đi bí mật thông thẳng sang thế này.
Vương hoàng hậu dẫn Hoàng Tử Hà bước vào trong, Trường Linh khép ô, dừng chân ngoài cửa. Từ đầu đến cuối Vương hoàng hậu không hề nhìn Hoàng Tử Hà, xăm xăm đi thẳng vào một khung cửa nhỏ. Hoàng Tử Hà theo vào mới thấy đây là một phòng ngăn bốn bề chạm hoa, bài trí rất đơn sơ, chỉ có một chiếc sập nhỏ, trước sập bày một bàn thấp, bên trên đặt bút nghiên giấy mực.
Vương hoàng hậu ngồi xuống, ngã người tựa vào thành sập.
Thấy trong phòng không còn gì khác, Hoàng Tử Hà đành lặng lẽ đứng một bên, Vương hoàng hậu không nói gì, cô cũng lặng thinh.
Chợt nghe tiếng chân khe khẽ, rồi giọng Từ Phùng Hàn cất lên: “Tâu bệ hạ, Quỳ vương đến rồi.”
Tiếng y rất gần, như ở ngay bên tai vậy. Hoàng Tử Hà giật thót mình, quay đầu nhìn quanh, nhận ra tiếng động vọng từ phòng bên cạnh sang.
Giọng hoàng đế cũng từ bên cạnh đưa sang: “Cho vào.”
Cô rón rén đi đến trước bức tường chạm hoa, phát hiện giữa hai lớp hoa văn chạm trổ có lót một lớp gấm dày không lọt sáng. Gian phòng ngăn này cách chính điện của hoàng đế hai lớp hoa văn và một lớp gấm, chẳng trách nghe rõ mồn một động tĩnh bên kia.
Hoàng Tử Hà thầm nhủ, mọi người đều nói hoàng đế nhu nhược, lại đau ốm luôn, nhiều việc trong triều đều do Vương hoàng hậu quyết định, xem ra ngài ngự đã gợi ý cho hoàng hậu đến đây nghe việc chính sự. Chỉ là sau khi bị biếm đến cung Thái Cực rồi quay trở lại, chắc hoàng đế cũng sinh lòng nghi ngờ hoàng hậu, căn phòng này hẳn ít là dùng tới.
Đang miên man nghĩ ngợi, cô chợt nghe thấy bên ngoài vang lên một giọng không thể quen hơn, sang sảng mà rành rọt: “Thần đệ tham kiến bệ hạ.” Đã lâu không gặp, đột nhiên nghe thấy tiếng y, cô sững cả người ra, tưởng như đã cách một đời.
Vương hoàng hậu liếc cô, nửa cười nửa không rồi nhắm nghiền mắt lại dưỡng thần.
Chỉ nghe giọng hoàng đế và Quỳ vương rõ mồn một, dù sao hai người cũng là anh em, sau một hồi chuyện gẫu việc nhà, hoàng đế mới vào đề: “Chuyện Thất đệ...giờ đã có manh mối gì chưa?”
Lý Thư Bạch ngập ngừng một thoáng mới đáp: “Bệ hại sai Vương Tông Thực điều tra vụ này, y cũng đã tới hỏi han đệ. Nhưng thần đệ thực không biết gì cả, nên chẳng cung cấp được manh mối nào hữu dụng.”
“Ừm...” Hoàng đế trầm ngâm giây lát, đoạn hỏi: “Giờ tin đồn đã lan khắp trong kinh, cực kỳ bất lợi cho đệ, chẳng biết Vương Tông Thực có cách nào giải quyết không?”
“Vương công công khuyên đệ giao binh mã hai quân Thần Vũ, Thần Uy ra để bịt miệng thiên hạ.”
Y vừa buông ra câu này, hoàng đế liền im lặng, bầu không khí cũng gượng gạo hẳn.
Lòng bàn tay Hoàng Tử Hà dâm dấp mồ hôi, cô tựa đầu lên vách tường chạm hoa thầm nghĩ, việc này đương nhiên là ý của hoàng đế, song giờ Lý Thư Bạch lại đổ cho Vương Tông Thực tự tiện bày ra, chẳng biết ngài ngự có nhân cớ này tỏ rõ ý mình không, cũng không rõ hôm nay Quỳ vương đã có cách nào rút lui an toàn hay chưa nữa?
Nhưng ngay sau đó, cô lại nghĩ Lý Thư Bạch là người suy nghĩ kín kẽ, tính toán cẩn thận, việc gì phải lo thay cho y.
Quả nhiên, cuối cùng hoàng đế ngáp dài: “Mấy chuyện vụn vặt ấy đệ cứ bàn bạc với Vương Tông Thực là được, ta không lo thay cho đệ đâu.”
“Đa tạ hoàng thượng.” Lý Thư Bạch lặng thinh giây lát, rồi nói tiếp, “Giờ thần đệ đã thoái thác rất nhiều việc trong triều, tuy thong dong nhàn tản, song vẫn canh cánh vụ án của Thất đệ. Dẫu Vương Tông Thực là trọng thần hầu cận hoàng thượng, rất đáng tin cậy, nhưng trước đây chưa từng gánh vác việc pháp ty, hoàng thượng để y chủ quản án này, hình như không ổn lắm?”
“Ta biết, về việc này thì không ai bằng được tiểu hoạn quan Dương Sùng Cổ bên cạnh đệ lúc trước.” Hoàng đế thở dài, “Nhưng dẫu sao hắn cũng là người bên cạnh đệ, phải tránh điều tiếng. Ngoài ra, cả Đại Lý Tự lẫn kinh triệu doãn đều có quan hệ mật thiết với đệ, trong triều cũng không ai dám đứng ra; Vương Lân thượng thư bộ Hình tuy không bị xử lý công khai việc câu kết với hoàng hậu, nhưng sắp cáo lão về quê; mấy ông già ở Ngự Sử Đài lại chỉ giỏi đấu võ mồm hễ gặp việc là cuống lên. Nghĩ đi nghĩ lại trong triều chẳng còn ai dùng được, đành tìm một người xưa nay ít qua lại với đệ là Vương Tông Thực, dù sao hắn là hoạn quan nội thị, trẫm cũng đã tỏ ý rằng đây là việc nhà của trẫm.”
“Vậy thì tốt quá, đa tạ hoàng thượng lao tâm.” Thấy hoàng đế giải thích vòng vo, Lý Thư Bạch hiểu ngài ngự sẽ không đổi người, cũng không nài thêm nữa mà chuyển ngay chủ đề: “Chẳng hay Vương công công đã phái người đến phủ Thất đệ điều tra chưa?”
“Chắc là rồi, gần đây vì chuyện này mà chứng đau đầu của trẫm lại tái phát, nên cũng chưa hỏi lại.” Nói đoạn, hoàng đế thở dài, “Anh em của trẫm chỉ còn đệ, Thất đệ và Cửu đệ, giờ Thất đệ lại... Ôi chao, sao đệ ấy lại nghĩ quẩn, trước lúc lâm chung còn thốt ra mấy lời rúng động lòng người, hại lây sang cả Tứ đệ như thế...”
Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: “Thần đệ nghĩ việc này nhất định có ẩn tình, chẳng qua hiện giờ chưa vạch trần được đó thôi.”
“Tin rằng nếu có thời gian, việc này ắt sẽ rõ trắng đen. Trẫm không lý nào lại nhìn lầm đệ, chỉ mong tới lúc đó muôn dân cũng hiểu cho tấm lòng Tứ đệ.”
Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn nền gạch vàng, khẽ đáp: “Thần đệ đa tạ bệ hạ tin tưởng.”
“Chỉ là trẫm vẫn hơi lo lắng. Hiện hai quân Thần Vũ, Thần Uy đã đóng giữ trong kinh ba năm, theo lệ phải đổi, năm xưa binh lính Từ Châu vì đóng lâu một chỗ nhớ nhà mà làm phản, giờ đệ không tiện ra mặt, chẳng hay có nên tìm một người khác xử lý chuyện này không?”
Quanh co từ nãy tới giờ mới đến màn chính. Hoàng Tử Hà ngồi bên này cũng biết, hôm nay hoàng đế triệu Lý Thư Bạch đến, thực ra là vì chuyện này. Giờ ngài ngự đã nói toẹt, Lý Thư Bạch dù có muốn chống đối, cũng làm sao cự tuyệt được?
Bất giác, cô siết chặt lấy vách ngăn chạm hoa, mồ hôi trong lòng bàn tay cũng thành ra lạnh buốt.
Giọng Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên: “Bệ hạ đã nghĩ cho sự bình an của muôn dân thiên hạ, thần đệ sao dám không tuân?”
Giọng hoàng đế nãy giờ vẫn hạ thấp, bỗng cao hẳn lên, không giấu được vẻ mừng rỡ: “Tứ đệ chấp thuận thực ư?”
“Vâng, lời của bệ hạ, thần đệ đương nhiên không dám cãi.” Lý Thư Bạch đứng dậy hành lễ, “Nhưng thần đệ có một yêu cầu hơi quá đáng.”
“Tứ đệ cứ nói xem.” Thấy y khom lưng vái lạy, hoàng đế bèn đứng dậy giơ tay ra ý miễn lễ.
Lý Thư Bạch ngẩng lên thưa: “Hai quân Thần Vũ, Thần Uy do thần đệ phụng lệnh hoàng thượng xây dựng, giờ muốn đổi tướng, hoàng thượng chỉ cần nói một tiếng là xong. Nhưng khi ở Thục thần đệ từng bị hành thích hai lần, tuy đã về kinh song vẫn có cảm giác nguy hiểm rình rập, không dám lơ là cảnh giác. Xin bệ hạ thư thả cho mấy tháng, thần đệ sẽ vỗ yên sĩ tốt, đợi mọi chuyện sóng yên gió lặng rồi điều phối lại, bệ hạ thấy sao?”
Hoàng đế thoáng biến sắc, toan nói gì đó thì ngực chợt đau thắt, đương đứng phải ngồi phệt xuống.
Lý Thư Bạch phản ứng rất nhanh, thấy thân hình ngài ngự loạng choạng suýt ngã khỏi ghế bèn bước đến đỡ lấy. Hoàng đế thở gấp, cả người run lên, sắc mặt tái nhợt, mồ hôi lạnh túa ra đầy trán.
Từ Phùng Hàn đứng hầu cạnh đó vội chạy đến, lấy trong ngăn tủ bên cạnh một viên thuốc, hòa vào ly trà dâng lên.
Đợi ngài ngự uống xong, chống trán ngả người ra ghế, hơi thở bình ổn lại, Lý Thư Bạch mới nhíu mày hỏi nhỏ Từ Phùng Hàn: “Chứng đau đầu của bệ hạ sao lại nặng hơn rồi?”
Từ Phùng Hàn cúi đầu thở dài: “Các ngự y vẫn trông nom luôn, danh y dân gian cũng mời không biết bao nhiêu người, song mãi chẳng thấy ai trị dứt được cả.”
“Giờ hay phát tác lắm ư? Bao lâu lại bị một lần?”
Từ Phùng Hàn chưa kịp đáp, hoàng đế đã lên tiếng: “Bệnh cũ ấy mà, trẫm cũng hết cách. Chứng đau đầu này.... năm xưa Ngụy Vũ Đế () cũng mắc phải, ông ta hùng tài đại lược, văn võ song toàn nhường ấy, vậy mà thiên hạ rộng lớn... có ai trị khỏi được cho ông ta đâu?”
() Tức Tào Tháo
Thấy hoàng đế đau đến nỗi giọng nói run bắn lên nhưng vẫn cố kìm nén, Lý Thư Bạch đành khuyên nhủ: “Xin bệ hạ giữ gìn sức khỏe, thần đệ nghĩ thiên hạ rộng lớn, ắt sẽ có người như Hoa Đà Biển Thước trị khỏi được bệnh này. Chỉ cần hoàng thượng hạ lệnh cho các châu phủ tìm thầy thuốc chuyên trị chứng đau đầu đưa về kinh hội chẩn, nhất định sẽ tìm được phương thuốc trúng bệnh thôi.”
Hoàng đế ôm đầu rên rỉ. Hồi lâu mới nói, giọng đứt quãng: “Được rồi, đệ lui trước đi.”
Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Vương hoàng hậu, chỉ thấy hoàng hậu vẫn ngả người trên sập, nheo mắt nhìn ra ngoài, vẻ mặt hết sức bình thản, chẳng hiểu đang nghĩ gì. Đợi Lý Thư Bạch lui xuống, hoàng hậu mới đứng dậy, mở cửa vách ngăn, lập tức đổi sang bộ dạng liêu xiêu nhào đến ôm chầm lấy hoàng đế, rưng rưng hỏi: “Bệ hạ thấy đỡ chút nào chưa?”
Hoàng đế nắm chặt tay hoàng hậu, nghiến răng chịu đựng nhưng những giọt mồ hôi to như hạt đậu vẫn lăn dài trên trán. Vương hoàng hậu một tay choàng qua người ngài ngự, tay kia nâng mặt rồng lên: “Bệ hạ cố chịu một chút... Đám thái y toàn đồ bỏ cả, nuôi bọn chúng chẳng được tích sự gì hết!” Vừa nói, Vương hoàng hậu vừa đặt tay lên miệng hoàng đế, khóc lóc nài nỉ: “Bệ hạ, đừng để cắn phải đầu lưỡi, chi bằng cứ cắn tay thần thiếp đây!”
Từ Phùng Hàn đứng cạnh đó vội chạy đến gỡ tay hoàng hậu ra: “Nương nương là thân ngàn vàng, sao có thể bị thương được. Xin bệ hạ cứ cắn nô tài đây...”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng bên cạnh nhìn nước mắt Vương hoàng hậu lăn dài, cảm thấy thật khó xử.
Dường như thuốc đã có tác dụng, tuy hoàng đế vẫn siết chặt tay Vương hoàng hậu, song hơi thở đã dần bình ổn lại, Vương hoàng hậu và Từ Phùng Hàn vội đỡ ngài ngự ngồi thẳng dậy, đắp thêm cho ngài một tấm chăn gấm.
Bấy giờ hoàng đế mới nhận ra vừa rồi phát bệnh đã siết chặt tay Vương hoàng hậu, song hoàng hậu chỉ nhịn đau không kêu. Ngài ngự thở dài, dùng hai tay nắm lấy tay hoàng hậu, nhìn sang Hoàng Tử Hà hồi lâu mới ngỡ ngàng hỏi: “Kẻ đứng sau lưng hoàng hậu... hình như không giống bọn Trường Linh?”
Hoàng Tử Hà vội quỳ xuống hành lễ. Vương hoàng hậu thản nhiên đáp: “Là tiểu cung nữ ở bên ngoài mới đưa đến, thần thiếp giữ bên mình để chỉ bảo cho quen việc.”
“Ừm.” Hoàng đế chẳng hỏi thêm nữa, chỉ mệt mỏi nhắm mắt lại.
Từ Phùng Hàn lo lắng hỏi: “Hoàng thượng có muốn vào nội điện nghỉ ngơi không?”
Ngài ngự gật đầu, vỗ nhẹ lên chân mình. Từ Phùng Hàn hiểu ý, vội bước đến đỡ hoàng đế vào trong. Tuy thân hình y cao lớn, nhưng hoàng đế lại đẫy đà, một mình Từ Phùng Hàn dìu đỡ cũng chật vật. Vương hoàng hậu vội giúp một tay, dìu ngài ngự vào.
Hoàng Tử Hà chỉ thấy lưng vã mồ hôi lạnh, cuối cùng cũng hiểu ý đồ của Vương hoàng hậu khi triệu kiến mình hôm nay.
Chứng đau đầu của hoàng đế đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Không chỉ ảnh hưởng thị lực, đến nỗi không nhận ra những người không mấy quen mặt như cô, mà cả việc đi lại cũng hết sức khó khăn. Chẳng qua vẫn giấu giếm người trong ngoài cung, e rằng chỉ Từ Phùng Hàn và Vương hoàng hậu mới hay chuyện.
Nguyên nhân hoàng hậu giấu kín không nói, đương nhiên là vì bà ta vẫn còn việc phải hoàn thành. Giờ thái tử còn nhỏ tuổi, một khi hoàng thượng đổ bệnh nặng, việc trao nhận quyền lực sẽ vô cùng nguy cấp. Chẳng biết trong mắt hoàng đế, kẻ nào mới là mối uy hiếp lớn nhất đến ngai vị này đây?
Vương hoàng hậu từ nội điện bước ra, bảo cô: “Gọi đám người hầu hạ vào đi, hoàng thượng ngủ rồi.”
Hoàng Tử Hà vâng dạ, rảo bước đi ra cửa điện báo cho các cung nữ và hoạn quan đứng bên ngoài vào. Tuyết vẫn chưa tạnh, gió rét len lỏi luồn vào áo, khiến mồ hôi lạnh thấm hết vào da thịt, làm cô run bắn lên.