Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu. Nhìn thái độ của cô, Vương Uẩn hạ giọng hỏi: “Cô gặp Lữ Tích Thúy rồi ư?”
“Còn chưa dám khẳng định. Nhưng nếu Vương công tử tuần tra trên đường, có thể để ý giúp tôi không?”
“Được.” Y đáp ngắn gọn, không chút lưỡng lự.
Hoàng Tử Hà cảm kích nhìn y, nói khẽ: “Đa tạ công tử.”
“Sao cô khách sáo thế?” Y cúi đầu nhìn cô, ánh mắt đầy ý cười.
Hoàng Tử Hà chợt thấy lòng xao xuyến, đành cúi đầu từ biệt rồi lặng lẽ quay đi.
Có lúc sự đời cứ trêu ngươi như thế. Hoàng Tử Hà bắt gặp Tích Thúy hai lần trước tiệm nhang đèn, nhưng Chu Tử Tần, Trương Hàng Anh và Vương Uẩn, ba người ở trong kinh, lại không sao tìm thấy tung tích nàng.
“Vậy đừng tìm nữa nhé, tìm được cũng chưa chắc đã là chuyện tốt, có khi còn thêm phiền phức.” Mấy hôm sau Vương Uẩn tới thăm, bảo cô như vậy.
Hoàng Tử Hà gật đầu, lại thấy nước đọng trên tóc mai y, bèn hỏi: “Bên ngoài đổ mưa ư?”
“Mấy bông tuyết tan bám vào tóc ấy mà.” Y lơ đãng phủi đi.
Hoàng Tử Hà nhìn những bông tuyết vụn như có như không bên ngoài, khơi cho lò lửa to hơn rồi hỏi: “Thời tiết thế này, việc gì phải đến tận đây tìm tôi để nói chuyện đó?”
“Vì muốn gặp cô đấy thôi.” Y cười, chăm chú nhìn cô hồi lâu rồi dịu giọng nói thêm, “E cô cả ngày buồn chán.”
Trước cái nhìn đăm đắm của y, Hoàng Tử Hà hơi lúng túng, đành đưa mắt nhìn sang đôi A Già Thập Niết trong bình pha lê cạnh đó: “Không sao, thỉnh thoảng tôi lại ngồi ngắm đôi cá Vương công công tặng.”
“Không phải cô nhàn rỗi cả ngày chỉ cho cá ăn đấy chứ? Để ta xem lớn lên được tí nào chưa?” Y cười nói, giơ bình pha lê lên ngang mắt ngắm nhìn rồi lại quay sang cô, “Gay thật, cả cá lẫn người đều gầy nhom thế này, có phải vì trời suốt ngày đổ tuyết không?”
Hoàng Tử Hà phì cười: “Tuyết phải kêu oan, oan quá oan quá, từ bao giờ mà cá béo cá gầy cũng đổ cho tôi?”
Vương Uẩn tươi cười nhìn đôi cá nhỏ, rồi nhìn sang cô, ngắm gương mặt chưa tắt nụ cười, đôi mắt lấp lánh như sao, hàng mi cong vút, khóe môi tươi tắn, lòng bất giác lại thấy ngọt ngào.
Cuối cùng y nhẹ tay đặt bình cá xuống bàn, khẽ gọi: “Tử Hà...”
Hoàng Tử Hà nhướng mày nhìn y.
Phút giây ấy, bỗng quên khuấy chẳng biết mình định nói gì với cô, dường như chỉ muốn gọi tên cô một lần, dường như chỉ muốn nhìn ánh mắt cô hướng sang mình mà thôi.
Thật lâu, y mới ngượng nghịu đáp: “Thực ra, ta không phải đến vì việc Lữ Tích Thúy.”
“Ồ?” Hoàng Tử Hà ngạc nhiên.
“Hoàng hậu muốn gặp cô.”
Hoàng Tử Hà kinh ngạc hỏi lại: “Hoàng hậu nương nương muốn gặp tôi ư? Có việc gì căn dặn sao?”
“Chuyện đó thì ta không biết. Trường Linh nữ quan chỉ đến báo rằng hoàng hậu bảo ta dẫn cô vào bái kiến.”
Trong cơn mưa tuyết lay phay, Hoàng Tử Hà theo cung nữ bước lên thềm gác Bồng Lai cung Đại Minh.
Vương hoàng hậu ngồi trước tấm bình phong chạm lầu ngọc núi tiên, vận bộ váy tía pha chỉ vàng, như ráng chiều lộng lẫy chói mắt. Khắp thiên hạ này, cũng chỉ có hoàng hậu mới kết hợp được hai màu đỏ tía và vàng kim huy hoàng như vậy thôi.
Sau khi cho tất cả lui ra, gian điện thênh thang chỉ còn hai người họ, khó tránh khỏi trống trải quạnh quẽ. Hoàng Tử Hà nhìn làn khói lững lờ bay lên từ lò hương sơn son thếp vàng, khiến cả gian điện mờ mịt mơ hồ, ngay dung mạo Vương hoàng hậu cũng như khuất dưới làn mây, không sao trông rõ được nét mặt.
Chỉ nghe thấy giọng hoàng hậu bình thản mà vô tình: “Chúc mừng ngươi rửa sạch oan khiên, báo thù cho người nhà.”
Hoàng Tử Hà cúi đầu: “Đa tạ nương nương hạ cố.”
Hoàng hậu vẫn bình thản, chậm rãi hỏi tiếp: “Nghe nói lần này ngươi về Thục, còn phá được vụ án một nghệ nhân ở Dương Châu?”
Hoàng Tử Hà thản nhiên đáp: “Bẩm vâng. Có một nghệ nhân dựng vở ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, tên Phó Tân Nguyễn, sau khi đến Thục thì bỏ mạng dưới tay tình nhân là Tề Đằng. Chị em của cô ta là Công Tôn Diên và Ân Lộ Y đã lập mưu giết chết Tề Đằng báo thù. May sao có Lan Đại thu xếp từ bên trong, cuối cùng họ cũng giữ được tính mạng, chỉ bị đày đến Tây Cương mà thôi.”
“Thực đáng tiếc...người ta chị em nghĩa nặng, vốn dĩ sau khi báo thù sẽ lại sống yên vui như thường, sao ngươi tự dưng đi khuấy vũng nước đục ấy lên?” Giọng Vương hoàng hậu thoáng vẻ thê lương.
Hoàng Tử Hà cúi đầu, song eo lưng thon thả vẫn thẳng như quản bút, bình thản đáp: “Pháp lý nhân tình, pháp trước, sau mới đến tình. Nếu có oan uổng, nha môn sẽ xử lý, sao lại tự ý ra tay được?”
Vương hoàng hậu nhìn cô chằm chằm, hồi lâu mới thong dong đứng dậy, bước xuống sập trầm hương, đến trước mặt Hoàng Tử Hà rồi dừng lại nhìn xoáy vào cô. Hoàng Tử Hà cứ ngỡ sẽ bị khiển trách, ngờ đâu hoàng hậu chỉ cười khẽ: “Vậy cũng phải gặp người như ngươi, mới có thể trả lại sự trong sạch cho người ta được. Nếu lần này ngươi không đến Thục, ngươi tưởng sẽ có người rửa oan cho Phó Tân Nguyễn hay sao? Cả vụ án của Công Tôn Diên và Ân Lộ Y nữa, ai mà phá được?”
“Lưới trời lồng lộng, ắt có công đạo.”
“Có lúc ta cảm thấy, nếu ngươi không xuất hiện, rất nhiều chuyện có lẽ sẽ tốt hơn.” Vương hoàng hậu dạo quanh cô một vòng, rồi lại chậm rãi nói, “Nhưng cũng có lúc, nếu không có ngươi, có những việc sẽ không bao giờ bộc lộ chân tướng. Ngay cả ta- cũng có lúc cần chân tướng.”
Hoàng Tử Hà dập đầu vái lạy hoàng hậu, lặng thinh đợi bà ta nói tiếp.
Vương hoàng hậu nhìn chằm chằm vào cô nói thật chậm: “Ít nhất ngươi cũng đã giúp ta thu nhặt đầu lâu, để con bé đáng thương ấy được toàn thây.”
Giọng Vương hoàng hậu hơi run rẩy. Cô ngước lên, thoáng trông thấy đôi mắt u buồn của hoàng hậu loang loáng nước, nhưng đặt trên gương mặt bình thản, lại khiến cô cứ ngỡ vừa rồi chỉ là ảo giác.
Chẳng đợi cô kịp trông rõ, Vương hoàng hậu đã quay mặt đi: “Lại nói, ngươi giỏi nhất là phá giải những chuyện ly kỳ không có manh mối, mà sự việc kỳ quái chấn động nhất kinh thành hiện giờ, là Ngạc vương tự vẫn.”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vâng...Điểm quái dị trong chuyện này khiến người ta khó mà suy đoán được.”
“Tuy người trong kinh bàn tán xôn xao, nhưng ta nghĩ, trừ Ngạc Vương ra, có lẽ chỉ mình ngươi mới lần ra được chân tướng bên trong thôi. Dù sao Vương công công cũng đã nhận lấy củ khoai phỏng tay này, ắt sẽ phải có câu trả lời cho hoàng thượng.” Nói rồi, Vương hoàng hậu lại thong dong đi sang bên cạnh. Hoàng Tử Hà còn đương phân vân chưa hiểu hoàng hậu có ý gì, thấy bà ta lẳng lặng đi thẳng, thì cũng lật đật đi theo.
Ra khỏi cửa sau gác Bồng Lai, trước mặt là một con đường quanh co hẹp mà dài. Trường Linh đã đứng đợi sẵn, trao cho cô một chiếc ô, đồng thời xòe một chiếc nữa ra che cho Vương hoàng hậu.
Vương hoàng hậu chẳng buồn nhìn Hoàng Tử Hà, thản nhiên nhấc gấu váy đi tiếp. Thấy chân hoàng hậu xỏ đôi ủng ánh bạc, Hoàng Tử Hà biết hoàng hậu đã chuẩn bị từ trước. May mà hôm nay vào cung, cô cũng đi một đôi ủng thấp, không sợ lội mưa.
Dọc con đường lát đá xanh, thi thoảng lại thấy vài chiếc lá vàng. Vườn ngự mưa tuyết tơi bời, giá rét cùng hơi nước khiến tất cả chỉ muốn trốn trong nhà, trên đường vắng hoe không một bóng người. Hoàng Tử Hà cắm cúi theo sau Vương hoàng hậu, cho tới khi thấy hoàng hậu bước lên thềm, cô ngẩng lên mới thấy cung điện nguy nga sừng sững ngay trước mặt, ra là điện Tử Thần. Trong triều thường nói muốn ra vào điện Tử Thần phải băng qua cửa gác Đông hoặc gác Tây ở hai bên điện Tuyên Chính, nên mới gọi là “vào gác”, ai ngờ phía sau điện Bồng Lai còn một lối đi bí mật thông thẳng sang thế này.
Vương hoàng hậu dẫn Hoàng Tử Hà bước vào trong, Trường Linh khép ô, dừng chân ngoài cửa. Từ đầu đến cuối Vương hoàng hậu không hề nhìn Hoàng Tử Hà, xăm xăm đi thẳng vào một khung cửa nhỏ. Hoàng Tử Hà theo vào mới thấy đây là một phòng ngăn bốn bề chạm hoa, bài trí rất đơn sơ, chỉ có một chiếc sập nhỏ, trước sập bày một bàn thấp, bên trên đặt bút nghiên giấy mực.
Vương hoàng hậu ngồi xuống, ngã người tựa vào thành sập.
Thấy trong phòng không còn gì khác, Hoàng Tử Hà đành lặng lẽ đứng một bên, Vương hoàng hậu không nói gì, cô cũng lặng thinh.
Chợt nghe tiếng chân khe khẽ, rồi giọng Từ Phùng Hàn cất lên: “Tâu bệ hạ, Quỳ vương đến rồi.”
Tiếng y rất gần, như ở ngay bên tai vậy. Hoàng Tử Hà giật thót mình, quay đầu nhìn quanh, nhận ra tiếng động vọng từ phòng bên cạnh sang.
Giọng hoàng đế cũng từ bên cạnh đưa sang: “Cho vào.”
Cô rón rén đi đến trước bức tường chạm hoa, phát hiện giữa hai lớp hoa văn chạm trổ có lót một lớp gấm dày không lọt sáng. Gian phòng ngăn này cách chính điện của hoàng đế hai lớp hoa văn và một lớp gấm, chẳng trách nghe rõ mồn một động tĩnh bên kia.
Hoàng Tử Hà thầm nhủ, mọi người đều nói hoàng đế nhu nhược, lại đau ốm luôn, nhiều việc trong triều đều do Vương hoàng hậu quyết định, xem ra ngài ngự đã gợi ý cho hoàng hậu đến đây nghe việc chính sự. Chỉ là sau khi bị biếm đến cung Thái Cực rồi quay trở lại, chắc hoàng đế cũng sinh lòng nghi ngờ hoàng hậu, căn phòng này hẳn ít là dùng tới.
Đang miên man nghĩ ngợi, cô chợt nghe thấy bên ngoài vang lên một giọng không thể quen hơn, sang sảng mà rành rọt: “Thần đệ tham kiến bệ hạ.” Đã lâu không gặp, đột nhiên nghe thấy tiếng y, cô sững cả người ra, tưởng như đã cách một đời.
Vương hoàng hậu liếc cô, nửa cười nửa không rồi nhắm nghiền mắt lại dưỡng thần.
Chỉ nghe giọng hoàng đế và Quỳ vương rõ mồn một, dù sao hai người cũng là anh em, sau một hồi chuyện gẫu việc nhà, hoàng đế mới vào đề: “Chuyện Thất đệ...giờ đã có manh mối gì chưa?”
Lý Thư Bạch ngập ngừng một thoáng mới đáp: “Bệ hại sai Vương Tông Thực điều tra vụ này, y cũng đã tới hỏi han đệ. Nhưng thần đệ thực không biết gì cả, nên chẳng cung cấp được manh mối nào hữu dụng.”
“Ừm...” Hoàng đế trầm ngâm giây lát, đoạn hỏi: “Giờ tin đồn đã lan khắp trong kinh, cực kỳ bất lợi cho đệ, chẳng biết Vương Tông Thực có cách nào giải quyết không?”
“Vương công công khuyên đệ giao binh mã hai quân Thần Vũ, Thần Uy ra để bịt miệng thiên hạ.”
Y vừa buông ra câu này, hoàng đế liền im lặng, bầu không khí cũng gượng gạo hẳn.
Lòng bàn tay Hoàng Tử Hà dâm dấp mồ hôi, cô tựa đầu lên vách tường chạm hoa thầm nghĩ, việc này đương nhiên là ý của hoàng đế, song giờ Lý Thư Bạch lại đổ cho Vương Tông Thực tự tiện bày ra, chẳng biết ngài ngự có nhân cớ này tỏ rõ ý mình không, cũng không rõ hôm nay Quỳ vương đã có cách nào rút lui an toàn hay chưa nữa?
Nhưng ngay sau đó, cô lại nghĩ Lý Thư Bạch là người suy nghĩ kín kẽ, tính toán cẩn thận, việc gì phải lo thay cho y.
Quả nhiên, cuối cùng hoàng đế ngáp dài: “Mấy chuyện vụn vặt ấy đệ cứ bàn bạc với Vương Tông Thực là được, ta không lo thay cho đệ đâu.”
“Đa tạ hoàng thượng.” Lý Thư Bạch lặng thinh giây lát, rồi nói tiếp, “Giờ thần đệ đã thoái thác rất nhiều việc trong triều, tuy thong dong nhàn tản, song vẫn canh cánh vụ án của Thất đệ. Dẫu Vương Tông Thực là trọng thần hầu cận hoàng thượng, rất đáng tin cậy, nhưng trước đây chưa từng gánh vác việc pháp ty, hoàng thượng để y chủ quản án này, hình như không ổn lắm?”
“Ta biết, về việc này thì không ai bằng được tiểu hoạn quan Dương Sùng Cổ bên cạnh đệ lúc trước.” Hoàng đế thở dài, “Nhưng dẫu sao hắn cũng là người bên cạnh đệ, phải tránh điều tiếng. Ngoài ra, cả Đại Lý Tự lẫn kinh triệu doãn đều có quan hệ mật thiết với đệ, trong triều cũng không ai dám đứng ra; Vương Lân thượng thư bộ Hình tuy không bị xử lý công khai việc câu kết với hoàng hậu, nhưng sắp cáo lão về quê; mấy ông già ở Ngự Sử Đài lại chỉ giỏi đấu võ mồm hễ gặp việc là cuống lên. Nghĩ đi nghĩ lại trong triều chẳng còn ai dùng được, đành tìm một người xưa nay ít qua lại với đệ là Vương Tông Thực, dù sao hắn là hoạn quan nội thị, trẫm cũng đã tỏ ý rằng đây là việc nhà của trẫm.”
“Vậy thì tốt quá, đa tạ hoàng thượng lao tâm.” Thấy hoàng đế giải thích vòng vo, Lý Thư Bạch hiểu ngài ngự sẽ không đổi người, cũng không nài thêm nữa mà chuyển ngay chủ đề: “Chẳng hay Vương công công đã phái người đến phủ Thất đệ điều tra chưa?”
“Chắc là rồi, gần đây vì chuyện này mà chứng đau đầu của trẫm lại tái phát, nên cũng chưa hỏi lại.” Nói đoạn, hoàng đế thở dài, “Anh em của trẫm chỉ còn đệ, Thất đệ và Cửu đệ, giờ Thất đệ lại... Ôi chao, sao đệ ấy lại nghĩ quẩn, trước lúc lâm chung còn thốt ra mấy lời rúng động lòng người, hại lây sang cả Tứ đệ như thế...”
Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: “Thần đệ nghĩ việc này nhất định có ẩn tình, chẳng qua hiện giờ chưa vạch trần được đó thôi.”
“Tin rằng nếu có thời gian, việc này ắt sẽ rõ trắng đen. Trẫm không lý nào lại nhìn lầm đệ, chỉ mong tới lúc đó muôn dân cũng hiểu cho tấm lòng Tứ đệ.”
Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn nền gạch vàng, khẽ đáp: “Thần đệ đa tạ bệ hạ tin tưởng.”
“Chỉ là trẫm vẫn hơi lo lắng. Hiện hai quân Thần Vũ, Thần Uy đã đóng giữ trong kinh ba năm, theo lệ phải đổi, năm xưa binh lính Từ Châu vì đóng lâu một chỗ nhớ nhà mà làm phản, giờ đệ không tiện ra mặt, chẳng hay có nên tìm một người khác xử lý chuyện này không?”
Quanh co từ nãy tới giờ mới đến màn chính. Hoàng Tử Hà ngồi bên này cũng biết, hôm nay hoàng đế triệu Lý Thư Bạch đến, thực ra là vì chuyện này. Giờ ngài ngự đã nói toẹt, Lý Thư Bạch dù có muốn chống đối, cũng làm sao cự tuyệt được?
Bất giác, cô siết chặt lấy vách ngăn chạm hoa, mồ hôi trong lòng bàn tay cũng thành ra lạnh buốt.
Giọng Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên: “Bệ hạ đã nghĩ cho sự bình an của muôn dân thiên hạ, thần đệ sao dám không tuân?”
Giọng hoàng đế nãy giờ vẫn hạ thấp, bỗng cao hẳn lên, không giấu được vẻ mừng rỡ: “Tứ đệ chấp thuận thực ư?”
“Vâng, lời của bệ hạ, thần đệ đương nhiên không dám cãi.” Lý Thư Bạch đứng dậy hành lễ, “Nhưng thần đệ có một yêu cầu hơi quá đáng.”
“Tứ đệ cứ nói xem.” Thấy y khom lưng vái lạy, hoàng đế bèn đứng dậy giơ tay ra ý miễn lễ.
Lý Thư Bạch ngẩng lên thưa: “Hai quân Thần Vũ, Thần Uy do thần đệ phụng lệnh hoàng thượng xây dựng, giờ muốn đổi tướng, hoàng thượng chỉ cần nói một tiếng là xong. Nhưng khi ở Thục thần đệ từng bị hành thích hai lần, tuy đã về kinh song vẫn có cảm giác nguy hiểm rình rập, không dám lơ là cảnh giác. Xin bệ hạ thư thả cho mấy tháng, thần đệ sẽ vỗ yên sĩ tốt, đợi mọi chuyện sóng yên gió lặng rồi điều phối lại, bệ hạ thấy sao?”
Hoàng đế thoáng biến sắc, toan nói gì đó thì ngực chợt đau thắt, đương đứng phải ngồi phệt xuống.
Lý Thư Bạch phản ứng rất nhanh, thấy thân hình ngài ngự loạng choạng suýt ngã khỏi ghế bèn bước đến đỡ lấy. Hoàng đế thở gấp, cả người run lên, sắc mặt tái nhợt, mồ hôi lạnh túa ra đầy trán.
Từ Phùng Hàn đứng hầu cạnh đó vội chạy đến, lấy trong ngăn tủ bên cạnh một viên thuốc, hòa vào ly trà dâng lên.
Đợi ngài ngự uống xong, chống trán ngả người ra ghế, hơi thở bình ổn lại, Lý Thư Bạch mới nhíu mày hỏi nhỏ Từ Phùng Hàn: “Chứng đau đầu của bệ hạ sao lại nặng hơn rồi?”
Từ Phùng Hàn cúi đầu thở dài: “Các ngự y vẫn trông nom luôn, danh y dân gian cũng mời không biết bao nhiêu người, song mãi chẳng thấy ai trị dứt được cả.”
“Giờ hay phát tác lắm ư? Bao lâu lại bị một lần?”
Từ Phùng Hàn chưa kịp đáp, hoàng đế đã lên tiếng: “Bệnh cũ ấy mà, trẫm cũng hết cách. Chứng đau đầu này.... năm xưa Ngụy Vũ Đế (1) cũng mắc phải, ông ta hùng tài đại lược, văn võ song toàn nhường ấy, vậy mà thiên hạ rộng lớn... có ai trị khỏi được cho ông ta đâu?”
(1) Tức Tào Tháo
Thấy hoàng đế đau đến nỗi giọng nói run bắn lên nhưng vẫn cố kìm nén, Lý Thư Bạch đành khuyên nhủ: “Xin bệ hạ giữ gìn sức khỏe, thần đệ nghĩ thiên hạ rộng lớn, ắt sẽ có người như Hoa Đà Biển Thước trị khỏi được bệnh này. Chỉ cần hoàng thượng hạ lệnh cho các châu phủ tìm thầy thuốc chuyên trị chứng đau đầu đưa về kinh hội chẩn, nhất định sẽ tìm được phương thuốc trúng bệnh thôi.”
Hoàng đế ôm đầu rên rỉ. Hồi lâu mới nói, giọng đứt quãng: “Được rồi, đệ lui trước đi.”
Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Vương hoàng hậu, chỉ thấy hoàng hậu vẫn ngả người trên sập, nheo mắt nhìn ra ngoài, vẻ mặt hết sức bình thản, chẳng hiểu đang nghĩ gì. Đợi Lý Thư Bạch lui xuống, hoàng hậu mới đứng dậy, mở cửa vách ngăn, lập tức đổi sang bộ dạng liêu xiêu nhào đến ôm chầm lấy hoàng đế, rưng rưng hỏi: “Bệ hạ thấy đỡ chút nào chưa?”
Hoàng đế nắm chặt tay hoàng hậu, nghiến răng chịu đựng nhưng những giọt mồ hôi to như hạt đậu vẫn lăn dài trên trán. Vương hoàng hậu một tay choàng qua người ngài ngự, tay kia nâng mặt rồng lên: “Bệ hạ cố chịu một chút... Đám thái y toàn đồ bỏ cả, nuôi bọn chúng chẳng được tích sự gì hết!” Vừa nói, Vương hoàng hậu vừa đặt tay lên miệng hoàng đế, khóc lóc nài nỉ: “Bệ hạ, đừng để cắn phải đầu lưỡi, chi bằng cứ cắn tay thần thiếp đây!”
Từ Phùng Hàn đứng cạnh đó vội chạy đến gỡ tay hoàng hậu ra: “Nương nương là thân ngàn vàng, sao có thể bị thương được. Xin bệ hạ cứ cắn nô tài đây...”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng bên cạnh nhìn nước mắt Vương hoàng hậu lăn dài, cảm thấy thật khó xử.
Dường như thuốc đã có tác dụng, tuy hoàng đế vẫn siết chặt tay Vương hoàng hậu, song hơi thở đã dần bình ổn lại, Vương hoàng hậu và Từ Phùng Hàn vội đỡ ngài ngự ngồi thẳng dậy, đắp thêm cho ngài một tấm chăn gấm.
Bấy giờ hoàng đế mới nhận ra vừa rồi phát bệnh đã siết chặt tay Vương hoàng hậu, song hoàng hậu chỉ nhịn đau không kêu. Ngài ngự thở dài, dùng hai tay nắm lấy tay hoàng hậu, nhìn sang Hoàng Tử Hà hồi lâu mới ngỡ ngàng hỏi: “Kẻ đứng sau lưng hoàng hậu... hình như không giống bọn Trường Linh?”
Hoàng Tử Hà vội quỳ xuống hành lễ. Vương hoàng hậu thản nhiên đáp: “Là tiểu cung nữ ở bên ngoài mới đưa đến, thần thiếp giữ bên mình để chỉ bảo cho quen việc.”
“Ừm.” Hoàng đế chẳng hỏi thêm nữa, chỉ mệt mỏi nhắm mắt lại.
Từ Phùng Hàn lo lắng hỏi: “Hoàng thượng có muốn vào nội điện nghỉ ngơi không?”
Ngài ngự gật đầu, vỗ nhẹ lên chân mình. Từ Phùng Hàn hiểu ý, vội bước đến đỡ hoàng đế vào trong. Tuy thân hình y cao lớn, nhưng hoàng đế lại đẫy đà, một mình Từ Phùng Hàn dìu đỡ cũng chật vật. Vương hoàng hậu vội giúp một tay, dìu ngài ngự vào.
Hoàng Tử Hà chỉ thấy lưng vã mồ hôi lạnh, cuối cùng cũng hiểu ý đồ của Vương hoàng hậu khi triệu kiến mình hôm nay.
Chứng đau đầu của hoàng đế đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Không chỉ ảnh hưởng thị lực, đến nỗi không nhận ra những người không mấy quen mặt như cô, mà cả việc đi lại cũng hết sức khó khăn. Chẳng qua vẫn giấu giếm người trong ngoài cung, e rằng chỉ Từ Phùng Hàn và Vương hoàng hậu mới hay chuyện.
Nguyên nhân hoàng hậu giấu kín không nói, đương nhiên là vì bà ta vẫn còn việc phải hoàn thành. Giờ thái tử còn nhỏ tuổi, một khi hoàng thượng đổ bệnh nặng, việc trao nhận quyền lực sẽ vô cùng nguy cấp. Chẳng biết trong mắt hoàng đế, kẻ nào mới là mối uy hiếp lớn nhất đến ngai vị này đây?
Vương hoàng hậu từ nội điện bước ra, bảo cô: “Gọi đám người hầu hạ vào đi, hoàng thượng ngủ rồi.”
Hoàng Tử Hà vâng dạ, rảo bước đi ra cửa điện báo cho các cung nữ và hoạn quan đứng bên ngoài vào. Tuyết vẫn chưa tạnh, gió rét len lỏi luồn vào áo, khiến mồ hôi lạnh thấm hết vào da thịt, làm cô run bắn lên.
Trong cung Đại Minh, lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đã trút sạch sắc thu theo những chiếu lá hòe rụng xuống.
Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, một lần nữa bước vào điện Tử Thần.
Lý Thư Bạch tâu trình lại tình hình ở Thục, rồi dâng cống phẩm các nơi lên. Hoàng đế vẫn tươi cười ôn hòa như trước, chỉ là chiếc cằm vốn đầy đặn giờ đã tóp đi đôi chút. Sau khi Đồng Xương công chúa qua đời, ngài ngự và Quách thục phi đau lòng khôn xiết, gầy rộc hẳn đi.
“Tết Trùng dương hôm trước, mấy anh em tề tựu trong cung dự tiệc, chỉ thiếu mỗi Tứ đệ, Thất đệ còn ngâm câu: 'Nay cắm thù du thiếu một người ()'.” Hoàng thượng lần chuỗi mười tám hạt (), cười nói, “Cung khuyết trẫm mới tu sửa, đệ còn chưa thấy nhỉ?”
() Trích từ bài “Mồng chín tháng Chín nhớ anh em ở Sơn Đông” của Vương Duy. Mùng chín tháng Chín là tết Trùng dương, hay Trùng cửu, người xưa thường hay ăn cua ngắm cúc, lên đài cao ngắm cảnh, cắm một cành thù du – loài cây có hoa rất đẹp – vào bình, tượng trưng cho tình anh em gắn bó.
() Chuỗi mười tám hạt, được xâu thành từ mười tám loại hạt bồ đề khác nhau, chọn ra từ hơn trăm loại hạt bồ đề. Mười tám hạt ý chỉ mười tám giới, bao gồm: lục căn: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý; lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; lục thức: nhãn thức, nhĩ thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
“Cung khuyết ư?” Lý Thư Bạch đã nghe nói, song vẫn thản nhiên hỏi lại.
“Đúng vậy, cửa phượng đế thành mờ mây phủ (), qua cửa cung Đại Minh là thấy ngay hai tòa gác Tường Loan, Tê Phượng nằm trước điện Hàm Nguyên, giờ cả hai đều đã cũ nên trẫm sai người tu sửa lại, đẹp đẽ như mới, Tứ đệ mà trông thấy nhất định sẽ phải tán thưởng.”
() Trích từ “Vâng mệnh họa bài 'Từ điện Bồng Lai đến gác Hưng Khánh, giữa đường dừng lại ngắm xuân trong mưa xuân' của vua”, tác giả Vương Duy.
Lý Thư Bạch chỉ nín lặng gật đầu. Lúc ở Thục y đã được tin lần này hoàng thượng cho sửa sang lại điện Hàm Nguyên cùng hai gác Tường Loan, Tê Phượng nguy nga hơn xa thuở trước, lấy gỗ trầm làm xà, lim vàng làm cột, khắp nơi sơn son thiếp vàng, tổng cộng hết mấy ngàn lượng vàng, vài trăm hộc trân châu, chưa kể sừng tê, đá quý, vân vân. Hậu cục và bộ Công phải giật gấu vá vai đến giờ vẫn chưa đủ bù.
Song ngài ngự nào hay những nông nỗi ấy, chỉ hào hứng kể: “Sau đại tế Đông chí năm nay, chúng ta sẽ uống rượu trên hai tòa gác mới sửa, xem ca múa từ xa, nhất định trở thành câu chuyện phong nhã nổi tiếng trong cung Đại Minh, lưu danh sử sách.”
Lý Thư Bạch lại tâu trình: “Lời bệ hạ rất có lý, có điều công trình này đã tiêu tốn rất nhiều, hôm qua bộ Công tới tìm thần đệ, nói rằng nếu bây giờ lại cho xây một trăm hai mươi tòa tháp để rước cốt Phật thì quả là nan giải.” Hoàng đế nhíu mày, vuốt chòm râu lơ thơ nghĩ ngợi rồi phán, “Lý Dụng Hòa đúng là vô dụng, bộ Công nắm trong tay quyền điều động bao nhiêu tiền bạc như vậy mà có mỗi một trăm hai mươi tòa tháp cũng không xây nổi ư?”
“Bẩm, năm nay xây dựng khá nhiều, đầu năm xây cung Kiến Bật, giữa năm xây mộ công chúa, giờ lại mới trùng tu cung khuyết, nếu xây thêm tháp, e rằng sẽ cạn kiệt quốc khố.”
Hoàng đế thở dài: “Tứ đệ, gần đây ta thấy rất bất an, nhớ năm xưa Linh Huy gặp phúc ắt thông, câu đầu tiên mở miệng ra nói là: 'Sống được', ai ngờ giờ đây lại đột ngột qua đời, để trẫm... người đầu bạc tiễn kẻ tóc xanh, như nến tàn trước gió, ai mà biết được ngày mai lại ở đâu?”
Lý Thư Bạch an ủi: “Bệ hạ đương độ tráng niên, sao lại nói lời chán nản ấy rồi? Triều đình xã tắc còn phải trông vào bệ hạ, xin bệ hạ đừng nản lòng như thế. Theo thần đệ thấy, cốt Phật không rước cũng chẳng hề gì.”
“Cốt Phật nhất định phải rước về. Kiếp này ta được trông thấy thì có chết cũng không hối tiếc.” Hoàng đế lắc đầu đầy cương quyết, rồi hỏi: “Vậy... Tứ đệ tinh thông sách sử, cảm thấy chín chín tám mươi mốt tòa tháp có được không?”
“Cửu cửu quy nhất, con số này cũng rất tốt lành.” Nói rồi, Lý Thư Bạch nhíu mày, “Nếu bệ hạ vẫn quyết rước cốt Phật về, thì thần đệ cho rằng, quan trọng nhất là tâm ý. Nhà Phật có thuyết thập nhị nhân duyên, bệ hạ xây mười hai tòa cũng đủ. Cũng có thể chỉ xây ba tòa thôi, tượng trưng cho Phật, pháp, tăng, vừa thanh tịnh lại phù hợp.”
“Tứ đệ không hiểu lòng thành của trẫm rồi, xây có mấy tòa như thế làm sao tỏ lòng được?” Hoàng đế không vui, xua tay cho y lui ra.
Lý Thư Bạch đứng dậy cáo lui, ra đến cửa điện còn nghe hoàng đế nói: “Bảy mươi hai vậy, bên trong thờ phụng thất thập nhị hương nhà Phật cũng được.”
“Lần trước rước cốt Phật là năm Nguyên Hòa thứ mười bốn, cách đây năm mười năm rồi.” Tại phủ Ngạc, Lý Nhuận phấn khởi rót trà cho Lý Thư Bạch, “Nghe nói lần đó náo nhiệt chưa từng thấy, dân chúng trong trành tranh nhau mua đèn nhang để cung nghênh cốt Phật, lần này chắc cũng thế.”
Lý Thư Bạch đón lấy chung trà Lý Nhuận vừa pha, chậm rãi hỏi: “Đệ có biết hôm cốt Phật được rước từ chùa Pháp Môn ra, có một bà lão dẫn theo cháu gái đứng đợi bên ngoài, cốt Phật vừa ra, bà ta liền dốc vào miệng đứa bé một lọ thủy ngân, dùng nhục thân của nó để cúng dường không?”
Lý Nhuận hít vào một hơi khí lạnh, mở to mắt: “Nhưng... Phật pháp cao thâm, thiện nam tín nữ đông đảo, khó tránh có kẻ cuồng tín, chẳng qua cũng chỉ cầu được phù hộ đấy thôi.”
“Nếu chỉ dân chúng tin Phật thì đâu đến nông nỗi ấy, nhưng hoàng gia đi rước, triều đình làm gương, sẽ trở thành mầm họa. Dốc hết sức lực toàn quốc, khiến dân ngu cuồng loạn thì ích gì?” Lý Thư Bạch lắc đầu, “Năm ấy Hàn Dũ chỉ vì can gián việc rước cốt Phật mà bị biếm, giờ đây xem chừng cũng cần một người đứng ra khuyên ngăn.”
“Tứ ca đừng làm chuyện dại dột!” Lý Nhuận vội can, “Từ sau khi Đồng Xương công chúa qua đời, bệ hạ luôn gặp ác mộng, giờ chỉ một lòng muốn rước cốt Phật vào cung thờ phụng để tiêu tai giải nạn. Ý bệ hạ đã quyết, không ai khuyên nổi đâu!”
Lý Thư Bạch gật đầu không đáp.
Uống hết nửa ly trà, thấy Lý Thư Bạch không nói gì thêm, Lý Nhuận mới hơi yên lòng, ngẩng lên trông thấy Hoàng Tử Hà vận đồ nữ thì ồ lên hỏi: “Bên cạnh Tứ ca cuối cùng cũng có một thị nữ rồi ư?”
Hoàng Tử Hà nâng vạt áo lên hành lễ, gật đầu với y.
“Hình như ta đã thấy cô ở đâu rồi thì phải...” Vừa nói đến đó, y bỗng “à” lên rồi vỗ trán, “Dương Sùng Cổ! Gần đây trong kinh đồn ầm lên rằng, Hoàng Tử Hà cải trang thành tiểu hoạn quan, Quỳ vương xuôi Nam phá án, đám tiên sinh kể chuyện ngoài phố đã dựng thành chuyện kể khắp nơi rồi đấy!”
Hoàng Tử Hà cúi đầu: “Khi trước tiểu nữ không dám tiết lộ thân phận, chứ không phải cố ý lừa gạt Ngạc vương gia, mong vương gia thứ tội.”
“Ba bốn năm trước ta và Vương Uẩn từng trông thấy cô trong cung một lần, vậy mà về sau gặp mấy lần vẫn không nhận ra, là ta không biết người tiên đấy thôi.” Nói đoạn, y ra hiệu cho cô ngồi xuống, còn đích thân rót trà mời, xong xuôi mới thắc mắc, “Vương Uẩn chẳng phải cũng về kinh rồi ư? Sao Hoàng tiểu thư còn hầu hạ bên cạnh Tứ ca?”
Hoàng Tử Hà nín lặng uống trà. Người lên tiếng là Lý Thư Bạch: “Dương Sùng Cổ là hoạn quan hạng bét ở phủ ta, đã điểm chỉ ký tên rõ ràng, bất luận thân phận thay đổi thế nào, hễ ta chưa có lời, thì cũng đừng hòng đi đâu được.”
Hoàng Tử Hà nhìn y như muốn mắng: “Vô sỉ”, còn Lý Nhuận lần đầu tiên thấy một Lý Thư Bạch thế này thì sững cả người ra, quên bẵng rót thêm nước vào bình trà.
Hoàng Tử Hà rút một túi gấm trong tay áo ra, đặt nhẹ lên bàn, đẩy về phía Lý Nhuận: “Thứ này xin trả lại cho Ngạc vương gia.”
“Gì vậy?” Lý Nhuận ngạc nhiên cầm lên, mở túi lấy vật bên trong ra.
Vòng ngọc long lanh, phát ra ánh sáng mờ mờ, như có làn khói mỏng bao quanh. Y lặng lẽ nắm chặt nó trong tay, màu ngọc cũng long lanh biến đổi theo động tác của y, tạo ra vô vàn vầng sáng.
Lý Nhuận thần thờ ngắm chiếc vòng hồi lâu, đoạn hỏi: “A Nguyễn... nhờ hai người trả lại ta ư?”
Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu: “Trước khi qua đời, cô ấy nhờ Công Tôn đại nương trả lại cho đệ.”
“Qua đời à...?” Lý Nhuận ngẩng phắt lên, đôi mắt mơ màng mở to.
“Đệ đã biết chuyện Hoàng Tử Hà phá án giải oan, hẳn cũng nghe được manh mối vụ này bắt nguồn từ cái chết của một ca kỹ chứ?”
Lý Nhuận ngỡ ngàng nhìn Lý Thư Bạch, như vừa vỡ lẽ. Mặt y tái ngắt, nốt ruồi son đỏ thắm giữa mi tâm cũng nhạt hẳn đi, ly trà tuột tay rơi xuống nền gạch vỡ tan tành, vụn trà xanh lục loang đầy đất.
Lý Thư Bạch thở dài: “Thất đệ cất đi. Dù sao cũng là di vật của thái phi, vẫn nên trả cho chủ cũ.”
“Vâng...” Y ngơ ngẩn đáp, tay vẫn nắm chặt chiếc vòng.
Thấy y đờ đẫn, Lý Thư Bạch bèn đứng dậy từ biệt: “Ta vừa về kinh, còn rất nhiều việc, vòng đã trả lại đệ, ta cũng phải về đây.”
“Tứ ca...” Lý Nhuận vô thức giữ lấy tay y.
Lý Thư Bạch ngoái lại. Lý Nhuận cắn môi nói khẽ: “Đệ muốn nhờ huynh giúp một việc.” Lý Thư Bạch đành ngồi xuống hỏi: “Sao thế?”
“Đệ nghi ngờ...” Lý Nhuận ngập ngừng, mấy ngón tay siết chặt chiếc vòng đến tái nhợt cả ra. Rồi đột nhiên y đứng phắt dậy, nhìn qua khung cửa sổ mở toang, thấy không có ai lảng vảng mới hít một hơi thật sâu, gắng trấn tĩnh nói tiếp, “Đệ nghi ngờ mẫu phi đệ bị người ta hãm hại.”
Lý Thư Bạch nhíu mày, quay sang nhìn Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ một lát, rồi bình thản hỏi: “Có phải vương gia phát hiện ra chuyện gì không, sao đột nhiên lại nói vậy?”
Lý Nhuận cắn môi gật đầu: “Mời Tứ ca và Hoàng tiểu thư theo đệ.”
Trần thái phi là phi tần của tiên hoàng, theo lệ phải ở trong cung Thái Cực dưỡng già. Nhưng ngay trong đêm tiên hoàng băng hà, thái phi đau đớn quá độ đã hóa điên, cung nữ hầu hạ trong cung Thái Cực lại bỏ mặc không săn sóc, năm ấy Lý Nhuận mới hơn mười tuổi, đến thăm mẫu phi thì thấy bà đầu bù tóc rối, cơm không đủ no áo không đủ mặc, bèn quỳ trước điện Tử Thần thật lâu, cầu xin hoàng đế cho đón mẫu phi về vương phủ phụng dưỡng.
Sau khi được đón về vương phủ, Trần thái phi tuy vẫn phát bệnh luôn, nhưng người ở vương phủ săn sóc chu đáo nên cũng coi như được tĩnh dưỡng. Lý Nhuận chăm nom mẹ rất cẩn thận, cho mở một gian điện nhỏ sau chính điện, để bà ở ngay gần mình. Giờ đây tuy mẫu phi đã qua đời, song y vẫn giữ gian điện nọ, bày biện bài trí hệt như lúc bà còn sống, không hề động đến.
Lý Nhuận dẫn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà vào, chỉ thấy bên trong thờ linh vị của Trần thái phi, trước án thờ bày hoa thơm và nhang đèn, khiến không khí hơi ngột ngạt.
Sau khi thắp cho Trần thái phi nén nhang, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn sang Lý Nhuận. Y đặt chiếc vòng lên trước linh vị mẫu phi, rồi chắp tay vái dài, đứng lặng hồi lâu mới quay lại bảo họ: “Mẫu phi đệ trước khi lâm chung đã có lúc tỉnh táo lại. Bà dặn đệ rằng, thiên hạ Đại Đường sắp mất rồi.” Nghe vậy, cả Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đều biết chuyện này không phải tầm thường, bèn chăm chú lắng nghe y nói tiếp.
“Bấy giờ mẫu phi đã rất lâu không tỉnh, đệ cũng biết tình trạng của bà. Nhưng lần đó mẫu phi thực sự rất tỉnh táo, khác hẳn mọi khi.” Nhớ lại tình cảnh lúc ấy, Lý Nhuận không khỏi thở dài, “Bởi vậy, những lời bà nói nhất định không phải lời của kẻ điên, đệ nghĩ, lúc phụ hoàng lâm chung, chắc mẫu phi đã biết được chuyện gì đó, nên mới hóa điên, ắt hẳn là một bí mật vô cùng quan trọng, bằng không sao mẫu phi lại nghĩ nó có liên quan đến giang sơn xã tắc, thiên hạ Đại Đường?”
Hoàng Tử Hà hỏi: “Bấy giờ thái phi nói thế nào, vương gia có thể thuật lại cho chúng tôi nghe chăng?”
Lý Nhuận mở ngăn tủ, lấy ra một hộp trang điểm sơn đen, khảm xà cừ hình hoa, trông khá cũ kỹ, thoạt nhìn đã biết là vật dùng lâu ngày. Lý Nhuận thận trọng mở hộp, gỡ tấm gương đồng mờ đục ra, để lộ khe hở đằng sau.
Y lại mở một chiếc hộp nhỏ cạnh đó, lấy ra mẩu giấy bông vẽ ba mảng mực đen sì, gập lại ướm vào khe hở sau tấm kính: “Bấy giờ mẫu phi rút mảnh giấy này ra từ đây, chẳng biết bà đã giấu ở đó từ khi nào nữa. Bà đưa cho đệ nói rằng, đây là bà vất vả lắm mới vẽ được mà giấu đi, dặn đệ phải cất thật kỹ... liên quan đến chuyện tồn vong của cả thiên hạ.”
“Có thể thấy thái phi lúc đó rất tỉnh táo, quả thật không phải lú lẫn.” Cô vừa ngẫm nghĩ về mấy chữ “tồn vong của cả thiên hạ”, vừa nghiêng đầu nhìn sang Lý Thư Bạch.
Lý Thư Bạch khẽ gật đầu với cô, rồi hỏi Lý Nhuận: “Còn gì nữa không?”
“Mẫu phi còn nói một câu...” Lý Nhuận ngần ngừ, nhưng cuối cùng cũng thành thực kể, “Bà dặn đệ không được thân thiết với Tứ ca.”
Lý Thư Bạch cúi đầu im lặng nhìn ba mảng mực đen sì trên tờ giấy trong tay y.
Hoàng Tử Hà lúng túng lên tiếng: “Vậy mà Ngạc vương gia vẫn kể chuyện này cho chúng tôi.”
“Ta và Tứ ca cùng lớn lên trong cung Đại Minh, lại cùng bị đưa ra khỏi cung, từ nhỏ đến giờ vẫn khăng khít. Ta... biết Tứ ca có ý nghĩa thế nào với thiên hạ Đại Đường mà.” Lý Nhuận đặt tờ giấy bông lên bàn, cả người như bị rút cạn sức lực, khó khăn lắm mới đứng vững được trước án thờ, “Thế nên ta nghĩ, mẫu phi nhất định đã biết được gì đó, nên mới bị hãm hại đến hóa điên còn thốt ra lời này, mà kẻ hại mẫu phi nhất định có liên quan mật thiết đến việc phụ hoàng băng hà, cũng là kẻ thù của Tứ ca.”
Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu, song không nói gì thêm.
Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Thái phi sinh thời sống ở đây ư? Mọi thứ vẫn giữ nguyên như trước ạ?”
Lý Nhuận gật đầu, ngồi xuống ghế chống tay vào trán nói khẽ: “Hoàng tiểu thư cứ việc tra soát thật kỹ, biết đâu lại thấy manh mối gì đó.”
Hoàng Tử Hà bèn đứng dậy đi qua vách ngăn, sang phòng ngủ của Trần thái phi cạnh đó. Phòng không rộng, mé trái là cửa sổ, đặt một chiếc sập nhỏ, bàn trang điểm và bàn ghế; mé phải là một chiếc giường gỗ trắc chạm trổ, buông màn gấm, treo mấy đồ trang trí bằng ngọc thạch và gỗ đào. Hoàng Tử Hà đi quanh bàn trang điểm một vòng, thấy mọi thứ đều đã được thu dọn, chẳng còn gì cả, vì thường xuyên quét tước nên trong phòng rất sạch, cô miết tay lên mép bàn, chợt khựng lại, cúi xuống nhìn kỹ. Lý Thư Bạch đứng trước cửa thấy vậy thì hỏi với vào: “Gì thế?”
Cô quay lại đáp: “Hình như có vết móng tay khứa.”
Lý Thư Bạch nhặt trong hộp nữ trang Lý Nhuận vừa đem ra một mảnh chì kẻ mày hình xoắn ốc, đặt vào tay cô.
Hoàng Tử Hà miết nhẹ mảnh chì đen vào mép bàn, tức thì những vết móng tay khứa hiện ra rõ mồn một, sắp thành hai chữ xiên xẹo: Quỳ vương.
Lý Thư Bạch thản nhiên ra hiệu cho cô tiếp tục miết.
Một hàng chữ xiêu vẹo dần dần hiện ra: họa từ Quỳ vương.
Lý Nhuận cũng bước đến bức vách, trông thấy mẫy chữ nọ thì ngỡ ngàng hỏi: “Đây... là mẫu phi ta viết ư?”
Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: “Hình như vẫn còn nữa.”
Đoạn cô lại miết tay sang trái, mẩu than chì xanh đen mài lên nền gỗ trắc đen thẫm, dưới ánh mặt trời tạo thành một vệt dài với đủ sắc độ đen khác nhau. Trên đó là những vết khắc vừa nông vừa xiên xẹo, tổng cộng có mười hai chữ: Đại Đường sắp mất triều đình rối loạn họa từ Quỳ vương. Ngoài ra, không còn gì nữa.
Hoàng Tử Hà lục tìm khắp giường tủ nhưng không phát hiện thêm gì.
Cô trả mảnh than chì vào hộp trang điểm, nhìn lại hàng chữ kia một lượt rồi chầm chậm rút khăn tay của mình ra lau sạch đi.
Lý Nhuận đứng trước cửa, lúng túng nhìn Lý Thư Bạch: “Tứ ca...”
Trái lại, Lý Thư Bạch chỉ bình thản vỗ nhẹ vai y: “Ta biết. Ta sẽ bắt tay vào điều tra mọi chuyện năm xưa, để xem rốt cuộc là kẻ nào đứng sau thao túng tất cả.”
Dọc đường về, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ngồi trong xe nhìn quang cảnh phố phường trôi qua bên ngoài, đều trùng trùng tâm sự.
“Ta không thân thiết với Trần thái phi.” Lý Thư Bạch nhìn cô, cuối cùng cũng mở lời.
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Lúc tiên hoàng băng hà, thái phi phát điên, gia mới mười ba tuổi nhỉ?”
“Ừm, tuy ta ở trong cung Đại Minh, nhưng đa phần là phụ hoàng tranh thủ ghé qua thăm, chứ ta ít khi tới chỗ phụ hoàng. Những ngày cuối cùng, bên cạnh phụ hoàng luôn có Trần thái phi hầu hạ, song ta cũng ít khi chạm mặt. Từ sau khi phụ hoàng qua đời, ta không hề gặp lại bà ấy nữa.”
Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng vuốt ve mấy món trang trí bên cửa sổ, trầm ngâm đáp: “Tại sao Trần thái phi cứ đinh ninh ghi nhớ một hoàng tử mới mười ba tuổi, lại hiếm khi gặp mặt, hơn nữa lúc đã phát điên, còn cho rằng gia sẽ làm điên đảo thiên hạ nhỉ?”
Lý Thư Bạch nhíu mày, gõ nhẹ lên bàn hỏi: “Cô nghĩ sao?”
“Ngạc vương có nói một câu mà tôi hết sức tán đồng. Chính là nếu có kẻ làm Trần thái phi phát điên thì nhất định hắn rất muốn hại gia, nên mới dẫn dụ Trần thái phi sinh lòng căm ghét gia như vậy.”
Y đặt bàn tay trắng trẻo thon dài trên bàn, trầm ngâm thật lâu mới hỏi khẽ: “Tử Hà... có tin ta không?”
Cô ngỡ ngàng nhìn Lý Thư Bạch, chẳng hiểu sao y lại đột nhiên hỏi vậy.
“Trang Chu mộng bướm, tỉnh dậy chẳng biết mình là người hay bướm. Khi phát hiện ra hàng chữ Trần thái phi để lại, ta chợt nhớ đến Vũ Tuyên.” Y không nhìn cô mà ngẩn ngơ nhìn quang cảnh đường phố quen thuộc trôi qua ngoài cửa sổ, “Sau khi giết hại cha mẹ cô, hắn cũng đã quên hết mọi chuyện, hơn nữa còn tin vào đủ thứ ám thị mà khăng khăng cho rằng cô mới là hung thủ.”
Hoàng Tử Hà tròn mắt nghi hoặc hỏi: “Ý gia là?”
“Có lẽ hồi mười ba tuổi ta đã làm chuyện gì đó khiến Trần thái phi nhớ mãi không quên?” Đôi mày y nhíu lại, ánh mắt hướng ra ngoài cũng dao động theo nhịp rung lắc của xe, “Con cá đỏ thình lình xuất hiện trong đời ta và con cá đã biến mất cùng đoạn ký ức quan trọng kia của Vũ Tuyên, có quan hệ gì đây?”
Mọi thứ thứ trước mắt bỗng chốc chìm vào sương mù, không sao trông rõ được.
Hoàng Tử Hà bất giác sinh lòng nghi hoặc, liệu có phải cỗ xe đang lộc cộc lăn đi này, quang cảnh đường phố trôi qua ngoài cửa kia, cùng Lý Thư Bạch ngay trước mặt chỉ với tay ra là chạm đến, cũng là hư ảo không?
Ký ức của họ rốt cuộc là giả hay thật? Cuộc đời của họ cho đến bây giờ liệu có từng bị bóp méo, thêm nếm thứ gì đó mà họ tin chắc, rồi lại xóa bỏ thứ gì đó mà họ khắc cốt ghi tâm chăng?
Bên trong xe nhất thời rơi vào im lặng. Cả hai đều làm thinh, tựa hồ có một áp lực nặng nề khủng khiếp đang đè lên họ, đến hít thở cũng chậm chạp khó khăn.
Một hồi lâu sau, Hoàng Tử Hà mới nhẹ nhàng giơ tay ra, ấp lên tay y: “Bất luận chân tướng cuối cùng ra sao, tôi chỉ biết, tất cả những gì chúng ta từng trải qua đều là chân thực... Ít nhất thì tình cảm giữa đôi bên hiện giờ là thực.”
Lý Thư Bạch lặng lẽ nâng hai bàn tay cô lên, vùi mặt vào. Hoàng Tử Hà cảm giác được hơi thở nặng nề mà rối loạn của y phả vào lòng bàn tay mình.
Y từng dựa vào chỉ tay, những đường chỉ tượng trưng cho số mệnh cả đời mà nhận ra thân phận của cô, song giờ đây, hơi thở của y đã vương vào cuộc đời cô, để lại dấu ấn vĩnh cửu trong huyết mạch, đời đời kiếp kiếp, cô cũng không thể lãng quên.
Chẳng biết bao lâu sau, xe ngựa dần chậm lại, bên ngoài có người bẩm: “Thưa gia, đã đến bộ Công.”
Lý Thư Bạch ngẩng lên, ấp tay cô trong hai bàn tay mình, im lặng một thoáng rồi nói: “Vào thôi.” Giọng đã lại lạnh lùng trầm thấp. Ra khỏi xe ngựa, rời khỏi không gian chỉ có hai người, y vẫn chỉ có thể là Quỳ vương gia lạnh lùng cứng cỏi, không bao giờ biết sợ.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ theo sau y, bước qua cổng lớn.
Trong lúc Lý Thư Bạch bàn luận với Lý Dụng Hòa, Hoàng Tử Hà ngồi trong đại sảnh. Giờ cô là nữ tử, ngồi được một lúc đã bị vô số quan viên xì xầm bàn tán, bèn đứng dậy ra mảnh vườn đằng trước ngắm hoa cúc.
Đã sắp đến tháng Mười, hoa cúc nhuốm sương, bắt đầu tàn úa. Cô lơ đãng ngắm, thầm nghĩ đến hàm nghĩa bốn chữ “họa từ Quỳ vương” thì có người xăm xăm chạy đến gọi to: “Sùng Cổ! Quả nhiên là ở đây!”