Bên tai vẳng đến tiếng chim ngói. Tiết trời tháng Sáu ấm áp dễ chịu, cả làn gió cũng dịu dàng như nước, khác nào tấm sa mỏng manh phớt qua tai làm người ta nhồn nhột, xa xa vẳng lại tiếng hát du dương của cô gái hái sen bên bờ nước.
Cũng vào mùa đất trời giao hòa thế này, Hoàng Tử Hà mười hai tuổi nghe thấy tiếng cha gọi mình. Đang ở bên bờ nước, cô ngoái lại, nắng rọi vào mắt cô biến tầm nhìn thành màu đỏ rực hoặc gần giống màu mã não, bao phủ cả thế giới trước mặt.
Trong ánh sáng đỏ rực dị thường ấy, cô trông thấy thiếu niên đứng cạnh cha mình, quần áo rách rưới, vẻ mặt rầu rĩ, làn da trắng bệch và mái tóc đen nhánh. Gã nhìn cô bằng đôi mắt đen như điểm sơn, chẳng khác nào bóng đêm tăm tối nhất, thăm thẳm u ám, từ độ ấy in sâu vào đáy lòng cô như dao khắc, vĩnh viễn không sao xóa được.
Cô cứ thế đứng chân trần dưới nước, một ôm hoa sen đầy tay chẳng biết tự lúc nào đã rơi cả xuống mặt nước.
Cô thấy ánh mắt thiếu niên kia thấp thoáng nét cười, gã thong thả tiến lại, giúp cô vớt từng cành sen còn phong nhụy dưới nước lên, chắc cũng nhìn thấy những đốm bùn lấm tấm bắn lên chân cô cùng những mảy cỏ dính đầy gấu váy lụa, nhưng gã chỉ mỉm cười, trao bó hoa cho cô. Ánh mắt gã nhìn cô không phải ánh nhìn thông thường dành cho một cô bé, mà là vẻ dịu dàng của thiếu niên đối với thiếu nữ.
Có lúc, một cô bé lớn lên, chỉ nhờ vào một ánh mắt của đối phương mà thôi.
“Vũ Tuyên…” Đang nằm trên giường, Hoàng Tử Hà bật dậy, vươn tay toan nắm lấy những hình ảnh còn sót lại trước mắt, song lại phát hiện tất cả chỉ là giấc mộng.
Đêm đen thăm thẳm, gió rít lên ngoài song cửa, hơi lạnh mùa xuân se sắt thấm vào xương tủy. Giữa đêm khuya, Hoàng Tử Hà ôm chăn gấm, lặng lẽ nhìn giấc mộng xưa trôi dần qua kẽ tay tan đi mất.
Cô gắng nín thở, từ từ nằm xuống, vùi mình trong chăn gấm gối tơ. Sau khi phá được vụ án Bốn phương, cô đã nổi danh khắp kinh thành, bởi vậy Quỳ vương phủ cũng đối đãi với tiểu hoạn quan này rất hậu. Đồ dùng hằng ngày đều là hàng thượng phẩm, thậm chí còn cao cấp hơn thời cô là thiên kim nhà sứ quân.
Vậy mà, ở giữa chăn ấm nệm êm cô còn thấy khó ngủ hơn cả khi dầm mưa dãi nắng bôn ba lặn lội rừng hoang núi thẳm. Cô cứ thế chong mắt nằm trong bóng tối nghe tiếng gió rít gào ngoài cửa sổ hồi lâu, cuối cùng đành tung chăn bò dậy mặc quần áo rồi mở cửa bước ra ngoài.
Bóng cây bốn bề trùng điệp, cô đi theo trí nhớ, băng qua trùng trùng sân vườn trong Quỳ vương phủ. Các thị vệ tuần tra dọc đường thấy cô cũng làm lơ, chắc hẳn dưới đều biết gần đây cô là người tâm phúc của vương gia nên có thể tùy tiện đi lại, không ai quản thúc.
Cô đi thẳng đến hiên Tịnh Dữu, chỉ thấy ánh trăng tràn trề trên lá cây ngọn cỏ, bốn bề tĩnh lặng. Giờ chưa đến canh tư, đương nhiên Lý Thư Bạch còn đang ngủ.
Bấy giờ cô mới sực nghĩ ra, dù mình mơ ngủ rồi sốt ruột đến đâu thì Quỳ vương Lý Thư Bạch sao có thể vì cô mà nửa đêm trở dậy, hỏi han tâm trạng cô được.
Cô đành tìm một tảng đá dưới khóm hoa ngoài sân ngồi xuống, gục mặt vào giữa hai đầu gối, định bụng lẳng lặng ngồi chờ một lát rồi quay về đợi y triệu gọi.
Chẳng biết ngồi đó đã bao lâu, trăng nhạt dần, cuối trời cũng thấp thoáng ánh xanh lam. Sang xuân sương vẫn còn dày, ướt đẫm cả vạt áo, cô đờ đẫn nhìn mầm cỏ mới nhú lên mặt đất, đương lúc thẫn thờ, chợt thấy một đôi ủng da đen giẫm ngay lên mầm cỏ.
Nhìn dọc theo đôi ủng, cô thấy y vận một chiếc áo tím thêu hoa văn quỳ long xanh đậm, cắt may rất khéo càng làm nổi bật thân thể cao lớn. Bên hông đeo một miếng ngọc bội tím có hình lầu gác thần tiên, được buộc bằng dây tơ xanh thắt chín nút vòng mười tám chỗ, cổ áo tay áo may theo lối tay hẹp cổ vuông đơn giản, chính là kiểu áo mà người trong kinh đang đua nhau phỏng theo.
Quỳ vương Lý Thư Bạch hào hoa phong nhã, mỗi bộ đồ y mặc chẳng bao lâu sau đều sẽ trở nên thịnh hành.
Kẻ này, nếu chỉ xét riêng ngoại hình, thực giống hạng con cháu hoàng gia áo gấm cơm vàng, mải mê chơi bời hát xướng chọi chó đua ngựa. Tì cằm lên đầu gối, Hoàng Tử Hà nghĩ thầm trong lúc nhìn y.
Lý Thư Bạch sừng sững ngó xuống cô, thấy cô nhìn mình chẳng nói chẳng rằng, bèn quay sang nhìn ngọn đèn lồng treo trên cây, hỏi, “Sáng sớm ngày ra, gió rét thế này, một tiểu hoạn quan như ngươi chạy đến đây ngắm hoa là sao?”
Hoàng Tử Hà lí nhí đáp, “Đêm qua tôi nằm mơ, tôi… Tôi muốn hỏi, vương gia định ủy thác cho tôi việc gì, liệu tôi có thể hoàn thành thật nhanh để mau chóng về Thục không?”
Dưới ánh đèn lồng, Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, không nói không rằng, đi ngang qua cô, bước lên hành lang quanh co bên cạnh.
Hoàng Tử Hà đứng dậy đi theo, chỉ thấy y ngồi bệt xuống, như thể xung quanh không người. Cô đành đứng bên đợi y lên tiếng.
Những ngọn đèn lồng treo dọc hành lang cứ lung lay chập chờn. Gió đêm phe phẩy, đèn lụa họa hình Bồng Lai tiên cảnh xoay vần trong gió, gương mặt Lý Thư Bạch cũng lúc sáng lúc tối, khó mà trông rõ.
Lý Thư Bạch chẳng vội hỏi tới cô, chỉ ngẩng đầu ngắm ngọn đèn treo dưới mái ngói cong vút. Hoàng Tử Hà thấp thỏm đứng chờ y mãi, cuối cùng cũng thấy không ổn, bèn quay sang nhìn ngọn đèn kia. Đó là một chiếc đèn bát giác bình thường, khung gỗ sơn đỏ được ghép rất khéo thành hoa văn chớp sáng mây lành, trên mặt lồng đèn bằng sa trắng họa núi tiên biển mây, ở giữa có chín tầng lầu gác, thần tiên qua lại dập dìu.
Cô không thấy chiếc đèn này có gì khác lạ, song ngoảnh đầu lại phát hiện Lý Thư Bạch đang nhìn mình chằm chằm, dưới ngọn đèn leo lét, ánh mắt âm u như sao xa cuối trời.
Hoàng Tử Hà vội đưa tay sờ mặt mình, còn chưa kịp hỏi đã nghe Lý Thư Bạch thong thả lên tiếng, “Thật khéo quá, mới rồi ta cũng nằm mơ, mơ thấy ta đứng trên thành lâu ở Từ Châu, nhìn xuống ngàn vạn nếp nhà trong mưa bên dưới. Sau khi tỉnh lại không tài nào ngủ tiếp được nữa.”
Hoàng Tử Hà nghiêng người ngồi xuống lan can sát mép nước, lẳng lặng nhìn y. Cô thấy ánh mắt y sáng như trăng sao, cũng lăn tăn như sóng gợn.
“Bao năm nay, ta có một việc vô cùng quái dị, lại rất khó giải thích. Ta là người trong cuộc, bấy lâu vẫn rầu rĩ không hiểu nổi, bởi vậy luôn muốn tìm một người có thể giúp ta phá giải câu đố này.” Lại nhìn lên non tiên mờ ảo trên đèn, y chậm rãi hỏi, “Ngươi có biết tại sao ta lại nói sẽ cho ngươi thời gian mười ngày không?”
Hoàng Tử Hà lắc đầu, nhìn y dưới ánh sáng chập chờn, vẻ dò hỏi.
“Vì sau mười ngày là đến hôm ta tuyển phi, ngày đó, việc đó, đều khiến ta rất bực bội.” Y thở dài, tựa lưng vào lan can, ánh đèn lập lòe chớp tắt rọi lên người y, trông càng mờ ảo mông lung vào một đêm xuân như thế này.
“Năm xưa, ta từng nhặt được một lá bùa ở Từ Châu. Nội dung trên bùa làm ta vẫn canh cánh trong lòng,”
Nghe nhắc tới Từ Châu, sực nhớ đến một sự việc kinh động thiên hạ năm xưa, Hoàng Tử Hà không khỏi biến sắc mặt. Lý Thư Bạch cũng thừa nhận, “Không sai, Từ Châu là bước ngoặt trong vận mệnh của ta, ai nấy đều nói đó là đất lành của ta. Nhưng không một ai biết, sau khi bình định Từ Châu, đêm cuối trước ngày về kinh, lúc ta đứng trên thành lâu nhìn xuống toàn thành, đã xảy ra một việc mà đến tận bây giờ ta vẫn nhớ như in.”
Nói đến đây, rốt cuộc y cũng ngoái lại nhìn cô, rồi rút trong tay áo ra một tờ giấy.
Chất giấy dày dặn song đã ngả vàng, rộng chừng hai tấc, dài tám tấc, hoa văn trên mặt giấy đỏ thắm, hình dạng như sâu như rắn, nhìn rất quái đản, bên trên viết ba chữ “côi”, “tàn”, “góa”(*) đậm nét. Trong đó, quanh chữ “góa” và chữ “côi” lại có hai vòng tròn đỏ lòm màu máu, chẳng khác nào vận mệnh bị khoanh bằng máu tươi, nhìn vô cùng rùng rợn.
(*) Mồ côi, tàn tật, góa vợ.
Ngón tay Lý Thư Bạch phác qua những hoa văn tinh tế đỏ rực nửa sâu nửa rắn, “Kiểu hoa văn này là trùng xà triện, ghi lại bát tự của ta.”
Hoàng Tử Hà nhìn ba chữ quái gở cùng hai vòng tròn đỏ như máu in trên bát tự của y, lòng gờn gợn một dự cảm không lành.
Lý Thư Bạch đặt lá bùa lên lan can, ấn nhẹ tay bên trên, “Lá bùa này xuất hiện đúng vào đêm ta đứng trên thành lâu Từ Châu, nhìn xuống bên dưới. Dường như nó lẳng lặng hiện ra ngay trên ụ tránh tên cạnh ta, khi ta cầm lấy lần đầu thì bên trên mới chỉ có ba chữ, chưa thấy hai khoanh tròn, song quanh chữ 'côi' có một vòng đỏ lờ mờ.” Đoạn y trỏ vào chữ “côi” như đang ve vuốt quá khứ của chính mình, “Mất cha từ nhỏ gọi là côi, bấy giờ phụ hoàng đã qua đời, song mẫu phi còn tại thế nên ta cũng không để tâm, chỉ cho rằng đây là thứ bùa chú tầm thường của kẻ thù, bèn giữ lại, chuẩn bị rà soát xem trong số những người thân cận, kẻ nào dám đặt thứ này cạnh ta. Ngờ đâu…”
Ánh mắt y lại quay sang ngọn đèn bên cạnh, giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh đèn cứ lay lắt chực tắt, khiến Hoàng Tử Hà cảm giác trong một chớp mắt đó, bốn bề xung quanh cô đều mờ mịt hẳn đi.
“Đêm đó, ta gặp ác mộng triền miên. Trong mộng, ba chữ kia cứ sờ sờ đập vào mắt hết lần này sang lần khác. Tỉnh dậy ta định đốt quách lá bùa đó cho rồi, song khi rút ra xem lại phát hiện vòng đỏ lờ mờ quanh chữ 'côi' bấy giờ đã đậm hẳn lên, giống hệt lúc này.” Ngón tay y đặt trên chữ “côi”. Trong ánh trăng, khoanh đỏ chẳng khác nào một đóa hồng kì dị nở bung dưới tay y, lại hệt như vết máu tươi loang rộng khiến người ta nhìn mà kinh hồn táng đởm. “Cũng đêm ấy, cùng lúc ấy, trong kinh thành gửi ra một văn kiện khẩn cấp, ta mở xem mới biết đó là tin báo tử mẫu phi.”
Vào ngày khoanh đỏ khoanh đúng chữ “côi”, y đã thực sự trở thành kẻ không cha không mẹ.
Hoàng Tử Hà thấy y thu bàn tay đặt trên lá bùa lại, rồi bất giác nắm chặt thành quyền, đôi tay tuyệt đẹp của y vì siết quá mạnh mà đốt ngón tay cũng trắng bệch cả ra. Cô buột miệng, “Có lẽ chỉ là trùng hợp thôi, gia đừng nghĩ ngợi quá nhiều.”
“Sau khi nhận được tin mẫu phi qua đời, trên đường từ Từ Châu về kinh, ta bị hành thích. Tay trái ta bị thương, vết thương không sâu nhưng hung khí lại tẩm độc, các thái y trong quân doanh đều nói cánh tay ta không giữ nổi, nếu còn muốn sống buộc phải chặt cụt tay.” Y đưa tay phải vuốt nhẹ lên cánh tay trái, tựa hồ cơn đau khi ấy còn chưa tan hết, “Bấy giờ, ta rút lá bùa bên mình ra, trông thấy trên đó lại lờ mờ xuất hiện một vòng tròn nữa, khuyên quanh chữ 'tàn'.”
Giữa đêm đen tĩnh mịch chợt nổi gió to, ngọn đèn bỗng nhiên xoay tít, ánh đèn mờ mịt soi xuống thân hình hai người, mép lá bùa có hai khoanh đỏ kia cũng bay lật phật trong gió, như thể vận mệnh đang lay động.
Lý Thư Bạch nhìn cô, vẻ mặt bình thản đến gần như cứng đờ, “Ngươi, có biết bấy giờ ta đã làm gì không?”
Hoàng Tử Hà nhặt lấy lá bùa, ánh mắt không rời Lý Thư Bạch, “Tôi đoán, vương gia nhất định đã cho bắt đám thái y lại, tra rõ thủ phạm.”
Gương mặt nãy giờ vẫn đanh lại của Lý Thư Bạch từ từ dãn ra, khóe môi y còn khẽ nhếch cao nữa. Vẻ lạnh nhạt vốn có được nụ cười tôn lên, chợt toát ra nét dịu dàng thanh tịnh như gió xuân mơn man quanh người. Dù nụ cười ấy vô cùng lợt lạt, song cũng không giấu nổi những gì vừa bộc lộ từ tận đáy lòng y. Lý Thư Bạch tán thưởng, “Hoàng Tử Hà, ngươi thực giống ta, đều là kẻ không tin vận mệnh.”
“Tôi ở Thục quận ba năm, đã kinh qua hai mươi sáu vụ án mạng, trong đó tám vụ nghe đồn có dính líu tới quỷ thần. Song cuối cùng khi chân tướng bị vạch trần, chẳng qua đều là những kẻ lòng dạ đen tối giả thần giả quỷ. Ví như vụ án Bốn phương mấy ngày trước, chẳng phải cũng mượn danh quỷ thần đó ư!” Hoàng Tử Hà đặt tay lên lá bùa, “Cũng như lá bùa này vậy, những điều vương gia vừa kể đã đủ vạch rõ ý đồ của kẻ đứng đằng sau rồi.”
Lý Thư Bạch nhìn cô, vui vẻ bảo, “Ngươi nói thử xem?”
Hoàng Tử Hà đưa tay vén tóc mai, vừa chạm vào cây trâm gỗ cắm trên đầu, bàn tay cô chợt khựng lại, rõ ràng lại nhớ đến bộ dáng đầu tóc rũ rượi lần trước. Cô bèn buông tay xuống, dùng ngón tay vạch một chữ nhất lên lan can rồi nói, “Thứ nhất, chỉ có người thân cận bên cạnh vương gia mới dàn xếp được sự xuất hiện của lá bùa kia, bởi thế, nhất định là kẻ có lòng dạ bất chính ấy đã lén lút đặt nó tại nơi gia chuẩn bị đến – thành lâu Từ Châu.”
Nói đoạn, ngón tay cô lại vạch hai nét ngang trên lan can, “Thứ hai, khuyên đỏ trên lá bùa đều xuất hiện hoặc đột ngột thay đổi lúc ở bên cạnh gia, bởi thế kẻ này không chỉ theo gia lên thành lâu mà còn ở kề bên, bất cứ lúc nào cũng có thể tiếp xúc với mọi thứ của gia, có lẽ là kẻ thân cận nhất bên cạnh, ví dụ thị tòng. Thứ ba, bệnh mà thái y chẩn đoán lại ngấm ngầm trùng khớp với lá bùa này, chứng tỏ bên cạnh gia không chỉ có một mà phải tiềm phục ít nhất hai kẻ có ý xấu, một kẻ là thái y, kẻ kia là thuộc hạ của gia." Dứt lời, cô thu tay lại, thổi thổi ngón tay mình, đoạn tổng kết, “Lần theo manh mối thái y, hẳn có thể moi ra tên thuộc hạ trốn trong bóng tối kia.”
Lý Thư Bạch không nhận xét gì, mà tiếp tục kể, “Tên thái y đã tự vẫn trước khi bị tra hỏi, sau đó ta cũng lần lượt phái các thị vệ bồi dưỡng nhiều năm đi xa, không định triệu họ về nữa.”
Hoàng Tử Hà đưa mắt nhìn lá bùa, “Nhưng trên đó…” Khoanh tròn quanh chữ “tàn” đã phai đi, chỉ còn lờ mờ dấu tích.
“Sau hơn nửa năm chữa trị, cánh tay ta cũng giữ được, nên khuyên tròn quanh chữ ‘tàn’ mờ dần. Song hiện giờ tay trái ta coi như hỏng. Chỉ thực hiện được vài việc thông thường, viết lách vẽ vời còn tạm, nhưng không thể cầm kiếm giương cung nữa.” Y giơ tay trái ra, co duỗi ngón tay trước mặt cô, “Thực ra trước đây ta thuận tay trái.”
Một người thuận tay trái, sau khi tay thuận trục trặc đã tức tốc rèn luyện để thuận tay phải, những gian khổ khó khăn trong quá trình đó, hẳn người thường khó mà hình dung nổi.
Nhớ tới thân thủ nhanh nhẹn của y lúc lôi mình từ ngăn tủ ra, Hoàng Tử Hà không khỏi bội phục. Ít nhất, cô cũng thấy mình rất khó có ý chí làm lại từ đầu đến mức tập tay không thuận thành tay thuận như thế.
“Ta cứ ngỡ giải tán đám người vẫn theo hầu bên cạnh thì chuyện này cũng trôi vào dĩ vãng, bởi vậy đã cất lá bùa vào một chỗ bí mật. Vì ta vẫn hy vọng dùng nó để bắt tên nội gián bên mình. Song mấy ngày trước, nghe nói bệ hạ định tuyển phi cho mình, ta nhớ đến lá bùa bèn lấy ra xem, kết quả phát hiện trên đó lại xuất hiện một khuyên tròn, lần này là quanh chữ ‘góa’.” Y cầm lá bùa lên, gí ngón tay vào chữ “góa” bị khoanh đỏ, cười giễu cợt, “Đàn ông mất vợ gọi là góa vợ, xem ra việc thành thân của ta cũng sẽ gặp phải biến cố không thể tưởng tượng được rồi.”
Hoàng Tử Hà cầm lấy lá bùa từ tay y, quan sát thật kỹ. Sắc đỏ này tươi mới hơn khuyên đỏ quanh chữ “côi”, cả lá bùa đỏ lòe như máu, càng toát lên vẻ quỷ quái kinh người.
“Thật không thể tưởng tượng nổi, chẳng khác nào thần quỷ trêu người, vận mệnh định sẵn. Cứ cách ba bốn năm, lá bùa này lại loang màu máu mới.” Lý Thư Bạch chậm rãi nói, “Ta đã thay tùy tùng hầu cận mấy lần, hơn nữa khi cất nó đi, ta còn cẩn thận hơn cả lúc xử lý quân vụ trọng yếu, nào ngờ lá bùa đáng lẽ không thể sơ sẩy mảy may, cuối cùng vẫn hiện ra điểm chẳng lành.”
Hoàng Tử Hà đặt lá bùa xuống, “Xem ra lá bùa này phức tạp hơn chúng ta tưởng nhiều.”
“Ừm.” Lý Thư Bạch ậm ừ, ngập ngừng một lát mới tiếp, “Tóm lại lần này nhất định sẽ có người gây khó khăn cho hôn sự của ta. Hơn nữa, vương phi được chọn cho ta, tức con gái nhà họ Vương ở Lang Gia, cũng có lai lịch không đơn giản. Nếu cuộc hôn nhân của ta bị kẻ khác lợi dụng hoặc có kẻ muốn thừa cơ làm mưa làm gió, chẳng hạn…”
Ánh mắt y dừng lại ở cô, hồi lâu mới nói, “Ta vừa nhớ ra, Vương Uẩn cháu đích tôn chi trưởng họ Vương Lang Gia từng là vị hôn phu của ngươi. Ngươi thà hạ độc chết cả nhà chứ không chịu gả cho y, rõ ràng là sự sỉ nhục lớn nhất đời y từ xưa đến nay. Mối nhục như vậy, y nuốt trôi chứ ta nuốt không trôi được.”
“Tôi không giết người nhà.” Hoàng Tử Hà cắn chặt môi, nói rành rọt từng tiếng, “Nếu vương gia muốn tôi giúp đỡ thì đừng nhắc lại việc này trước mặt tôi nữa.”
Lý Thư Bạch liếc cô, “Ta chỉ thuật lại cái nhìn của người khác, chứ đâu phải của ta.”
Cô khẽ cắn môi, hỏi nhỏ, “Vương gia bắt đầu tin tôi không giết hại người nhà từ bao giờ?”
Y nhìn cô, cười nửa miệng, đứng dậy băng qua cây cầu nhỏ quanh co bắc ngang dòng nước, tựa hồ không muốn nói thêm với cô nữa.
Hai người men theo con đường nhỏ tranh tối tranh sáng tiến sâu vào phía trong lầu gác sáng rực đèn đuốc. Cô đi đằng sau, nghe thấy y chậm rãi nói, “Ta xem tay ngươi, nhận ra ngươi chưa hề giết người.”
Cô thoáng sững người, nhưng ngay lập tức nhận ra chỗ sơ hở trong lời y, “Lần trước xem tay cho tôi, rõ ràng vương gia nói nhìn chỉ tay đủ thấy tôi đã hạ độc giết cả nhà, bởi vậy mới đoán ra thân phận của tôi còn gì!”
“Gạt ngươi thôi.”
“Vậy bấy giờ làm sao vương gia nhận ra thân phận của tôi?”
“Điều này ngươi không cần quan tâm.” Chỉ một câu, y đã chặn đứng chủ đề lại. “Ngươi cứ giúp ta vạch trần bí mật đằng sau lá bùa, thế là hoàn thành nhiệm vụ rồi.”
“Sao vương gia không xem ngay chỉ tay cho đám người xung quanh, chẳng phải sẽ tra rõ tất cả ư?” Cô vẫn bướng bỉnh hỏi.
“Không có hứng.” Y chẳng buồn ngoảnh đầu, “Ta thích xem kẻ khác giả làm tiểu hoạn quan hơn là xem chỉ tay cho đầy tớ.”
Thế là tiểu hoạn quan thê thảm của Quỳ vương phủ, Hoàng Tử Hà – à không, là Dương Sùng Cổ - phải theo vương gia vào cung, đến gác Bồng Lai ở cung Đại Minh, tham dự quá trình tuyển chọn Quỳ vương phi.
Trời tháng ba còn chưa có nắng, đào mận nở khắp vườn ngự uyển cũng không sao xua tan được cái lạnh bao trùm cả hoàng cung.
“Lạ thật, rõ ràng cung Đại Minh xây ở chỗ cao, hướng về phía mặt trời, sao còn lạnh hơn cả trong thành kia chứ?”
Nghe thấy Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, Lý Thư Bạch lườm cô rồi giải thích, “Vì đây là nội cung, nơi cao quý nhất dưới gầm trời, cũng là nơi nhiều âm mưu nhất trong triều chứ sao.”
Hoàng Tử Hà nhìn xuống gợn sóng bên dưới, nín lặng. Có những lời người này nói được, người kia lại không.
Lúc này họ đang đứng trên đài cao ở gác Bồng Lai, nhìn xuống hồ Thái Dịch. Hoa cỏ hai bên bờ hồ dập dờn lay động theo cơn gió phần phật, chẳng khác nào biển hoa mênh mông, những đợt sóng đủ màu đỏ trắng vây lấy hồ Thái Dịch xanh biếc.
“Thiên kim các nhà mười phần đã đông đủ tám chín, chi bằng vương gia vào điện xem họ đang nói chuyện gì.” Hoàng Tử Hà đề nghị.
Lý Thư Bạch nhếch mép, quay sang nhìn cô, “Vội gì chứ?”
Hoàng Tử Hà đành nén nỗi tò mò muốn ngắm nhìn các mỹ nữ kinh thành, kiên nhẫn đợi đến lúc y ra lệnh. Nào ngờ lại nghe ý hỏi, “Tín vật vẫn còn đấy chứ?”
“Vâng.” Cô mở hộp gấm đang ôm trong lòng ra nhìn. Người trong cung đều đồn đoán, chẳng biết tín vật Quỳ vương gia tặng cho vương phi tương lai sẽ là vàng ngọc quý giá hay bảo bối hiếm có nào, ai mà ngờ được vật cô ôm trong lòng đây lại là một đóa mẫu đơn khởi lưu ly đương nở rộ.
Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn bông hoa đỏ thắm diễm lệ, nói, “Sáng sớm nay, theo lời vương gia dặn dò, tôi đã hái đúng lúc nó vừa bừng nở. Nào ngờ lão Lưu làm vườn không biết nội tình, giậm chân mắng tôi sa sả, kể lể rằng phải đào đường ngầm, dùng than củi đun liu riu suốt hơn hai tháng trời mới thúc nở được một bông này, hái đi rồi thì năm nay giống mẫu đơn khởi lưu ly hiếm có khó tìm coi như không còn ra hoa mà ngắm nữa.”
Khóe miệng Lý Thư Bạch rốt cuộc cũng nở hẳn thành một nụ cười, “Coi như lão có công.”
“Dùng hoa mẫu đơn làm tín vật, vương gia quả là phong nhã.” Hoàng Tử Hà đậy nắp hộp lại, bưng trong tay. Thấy nét vui vẻ hiếm có trên mặt Lý Thư Bạch, cô không khỏi nghĩ thầm, hoa đẹp không dễ nở mà chớp mắt đã héo tàn, người thông minh như Quỳ vương đời nào không nghĩ đến điểm này? Hẳn là bởi những tín vật khác đều có thể giữ gìn lâu dài, về sau nếu muốn nuốt lời, thì đòi lại tín vật đâm ra khó coi.
Cô ôm chiếc hộp đựng mẫu đơn trong lòng, nghĩ tới lá bùa mấy hôm trước trông thấy, bất giác sinh lòng thương cảm cô gái sắp được tuyển làm vương phi.
Chẳng bao lâu sau, nữ quan hầu cận của hoàng hậu tới báo, mọi người đã đến đông đủ, xin vương gia tự nhiên.
Lý Thư Bạch liền ra hiệu cho Hoàng Tử Hà theo mình vào nội điện.
Theo thông lệ bản triều, các ứng viên cho vị trí vương phi đều có thân phận cao quý, là con gái của đại thần trong triều hoặc xuất thân danh gia vọng tộc, bởi thế đương nhiên không để người ta quan sát săm soi từng cô rồi tuyển chọn. Quá trình tuyển phi, tuy mọi người đều ngầm hiểu cả nhưng không ai nói ra miệng, chỉ cho bày tiệc mời các nàng ở đại sảnh, vương gia lùi ra sau, âm thầm quan sát qua bình phong, ưng ai thì bảo một tiếng, tiểu thư đó sẽ được vời vào, nhận tín vật do vương gia đích thân trao tặng, hỏi rõ tên tuổi và thân phận, ngoài ra không nói thêm gì khác, mọi sự cứ như vậy mà quyết định.
Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch bước vào trong. Chỉ thấy giữa điện buông một bức mành dày, cánh cửa ngăn đại sảnh với nội điện đóng chặt, mặt cửa trổ hoa văn cát tường rồi dán một lớp sa mỏng như cánh ve màu ngân hồng lên. Tuy cách một cánh cửa, y vẫn có thể thấy rõ mồn một mọi người ở phía ngoài, còn người ta chỉ thấy được thấp thoáng bóng y mà thôi.
Cảm giác được vương gia đang quan sát nên các thiên kim ứng xử đều có phần gượng gạo mất tự nhiên, duy một thiếu nữ ngồi bên phải hoàng hậu vẫn ung dung tự tại, không hề lộ vẻ câu nệ.
Ánh mắt Hoàng Tử Hà hướng về phía Vương hoàng hậu. Hoàng hậu vận chiếc áo đỏ rực trang trí hoa văn mây ráng, dung mạo cực kỳ xinh đẹp, đôi mắt phượng tinh nhanh mà trong veo, hơi xếch, mỗi lúc đưa mắt nhìn lại như có ánh sáng nội tại tỏa ra, quả là nhan sắc rực rỡ. Người là hoàng hậu thứ hai của nhà họ Vương ở Lang Gia, sau khi tỷ tỷ trong họ qua đời được bệ hạ triệu vào cung lập làm hoàng hậu. Tuổi chừng hơn ba mươi, nhưng trông chỉ như ngoài hai mươi.
Các thiếu nữ trong điện ai nấy đều trang điểm lộng lẫy, gấm lụa lượt là, quây quần quanh bàn tiệc như những đóa hoa, song không một ai át nổi hào quang của hoàng hậu. Hoàng Tử Hà thầm tán thưởng, bụng bảo dạ, ba năm trước khi vào cung bái kiến hoàng hậu, cô còn là một tiểu cô nương chưa nhận thức được thế nào là nghiêng nước nghiêng thành, hiện giờ đã lớn hơn, cuối cùng cũng hiểu, thì ra sức quyến rũ của mỹ nhân có thể đạt đến bậc này.
Thiếu nữ bên cạnh Vương hoàng hậu hẳn là Vương Nhược, thiên kim nhà họ Vương ở Lang Gia. Hai người là tỷ muội trong họ mà trông khác hẳn nhau. Người sao tên vậy, Vương hoàng hậu nhũ danh Thược, khoác áo gấm đỏ, giống hệt đóa thược dược cao quý. Vương Nhược vận đồ hồng cánh sen như đào mận ngát hương, kiều diễm yểu điệu, tuy nhan sắc và khí chất đều không thể bì với hoàng hậu, song lại trẻ trung yêu kiều, khả ái hồn nhiên mà lãng mạn mê người.
Các thiếu nữ khác tuy không tệ, song so ra không thể bằng được hai tỷ muội họ. Giữa đám người, Hoàng Tử Hà chú ý đến một cô nương vận y phục lấm tấm hồng, gò má hơi cao, cặp mắt hạnh tuyệt đẹp, có điều cằm cứ hếch lên, vừa tỏ rõ khí chất xuất chúng vừa toát ra vẻ ngạo nghễ bẩm sinh. Hoàng Tử Hà nghĩ thầm, đây chắc là Kỳ Lạc quận chúa trăm phương nghìn kế muốn được gả cho Quỳ vương mà dân kinh thành vẫn đồn đại đây. Người cai quản việc trong cung hiện giờ là Triệu thái phi, nghe nói Kỳ Lạc quận chúa từng hối lộ cung nữ để mình được tới chép kinh giúp Triệu thái phi, hòng nài nỉ bà gả mình cho Quỳ vương gia, tiếc rằng ý định không thành.
Hoàng Tử Hà đang nghĩ vẩn vơ, chợt thấy Lý Thư Bạch vẫy tay ra hiệu cho một nữ quan lớn tuổi lại gần, trỏ Vương Nhược, “Là cô ấy.”
Hoàng Tử Hà không khỏi kinh ngạc, thế này chẳng phải quá nhanh ư, tuyển vương phi là việc lớn cả đời, sao y chỉ liếc mắt đã quyết định ngay vậy? Nhưng cô chỉ có thể nói, “Vương gia không cân nhắc thêm sao?”
Lý Thư Bạch bình thản đáp, “Chẳng qua chọn lấy một người giữa đám đông xa lạ để chung sống suốt đời thôi, cần gì cân nhắc?”
“Nhưng người con gái có thể được vương gia lựa chọn nhất định phải có điểm đặc biệt chứ.”
Y quay mặt sang nhìn cô, khóe môi hơi nhếch lên, tựa như đang cười, song ánh mắt không mảy may vui vẻ, chỉ lạnh nhạt nói, “Không sai, trong tất cả những kẻ dự tuyển, cô ta đẹp nhất.”
Hoàng Tử Hà sững người trước lý do không hề che đậy này, hồi lâu mới tiếp, “Có lẽ… vương gia nên thận trọng hơn?”
“Ngươi sai rồi, đây chính là lựa chọn thận trọng nhất đấy. Dù sao những thứ như gia thế và phẩm cách đức hạnh đều có người chọn hộ ta rồi, vậy thì ta chỉ cần chọn lấy người vừa mắt nhất là được, ngươi thấy sao?”
Đến nước này cô đành nói, “Chúc mừng vương gia tìm được duyên lành.”
Y chìa tay ra trước mặt cô, không nói nửa lời.
Trong thoáng chốc, Hoàng Tử Hà còn không hiểu y muốn gì, quay lại trông thấy Vương Nhược đã được các nữ quan dẫn đi vào trong, mới sực tỉnh.
Từ đại sảnh vọng vào những tiếng xôn xao, thì ra Kỳ Lạc quận chúa thấy Vương Nhược đứng dậy theo cung nữ vào nội điện, hiểu được sự lựa chọn của Quỳ vương, tức thì tay run bắn lên, làm đổ cả bát canh nóng vào người thiên kim của Lưu thái phó ngồi cạnh.
Kỳ Lạc quận chúa vội cầm khăn tay của mình lau cho Lưu cô nương, miệng rối rít, “Ôi chao, ta sơ ý…” Chưa dứt câu, khóe mắt đã đỏ lên không sao nói tiếp nổi, biết nước mắt sắp trào ra, cô liền cắn chặt môi quay đi, giật lấy chậu ngọc trong tay cung nữ đứng sau, vờ súc miệng, nuốt hết nước mắt vào trong.
Hoàng Tử Hà cũng chẳng rảnh mà quan sát cô ta nữa, vội vã mở hộp gấm trên tay, lấy cành mẫu đơn khởi lưu ly dâng lên Lý Thư Bạch.
Vương Nhược cúi mặt, hai má ửng hồng bước đến.
Nhìn gần mới thấy nàng chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xiêm y thêu đầy hoa hải đường, tấm lụa khoác vai vàng nhạt rợp hoa văn hình mây, đầu cài sáu hàng trâm vàng, bước chân ung dung yểu điệu, chuỗi ngọc trên người lấp lánh. Nhưng bấy nhiêu phục sức diễm lệ hoa mỹ lại càng làm nổi bật vẻ non nớt khờ khạo không hiểu việc đời của nàng.
Vương Nhược từng bước tiến lại, thẹn thùng cúi đầu, không dám nhìn ai.
Lý Thư Bạch đợi nàng tới trước mặt mới chìa đóa mẫu đơn ra, giọng điệu cuối cùng cũng nhuốm đôi phần êm ái, “Vương Nhược?”
Thiếu nữ chợt run bắn mình như bị sét đánh trúng, Hoàng Tử Hà thấy nàng nắm chặt tay lại rồi ngẩng đầu lên nhìn Lý Thư Bạch đầy vẻ kích động và sửng sốt. Đôi mắt mờ đi vì một làn hơi nước, dáng vẻ ngơ ngẩn, thân hình run run, tay túm chặt lấy tay áo, song không thốt nổi lời nào.
Hoàng Tử Hà liếc Lý Thư Bạch. Gác Bồng Lai xây trên đài cao, y đứng bên song cửa sổ nội điện, nắng bên ngoài rọi vào lồng bóng y sáng rỡ, chẳng khác nào thần thánh trên trời do lưu ly châu ngọc đắp nên. Đóa mẫu đơn nở bung, đỏ thắm trên tay, song không sao át nổi hào quang của y, trái lại càng làm tôn lên phong thái tao nhã và vẻ tuấn tú hào hoa.
Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, dù không khiến người ta vừa gặp đã yêu, nhưng trông y cũng làm gì đến nỗi dọa ai sợ phát khiếp đâu.
Lý Thư Bạch đương nhiên cũng nhận thấy phản ứng kỳ dị của Vương Nhược, y hơi cau mày.
Bấy giờ Vương Nhược mới ý thức được trạng thái khác thường của mình, vội giơ hai tay lên bịt chặt miệng, hoảng loạn lắp bắp, “Quỳ vương gia… đúng… đúng là vương gia thật.”
Lý Thư Bạch nhướng mày nín lặng.
“Thiếp… Thiếp không ngờ mình lại may mắn đến thế, nên, nên hôm nay mới thất lễ như vậy, mong vương gia bỏ quá cho…” Nàng ấp úng nói, thái độ cử chỉ đều cuống cả lên, ngẩng đầu thấy Lý Thư Bạch không phản ứng, tức thì nước mắt rân rấn, xem chừng sắp chảy dài đến nơi.
Lý Thư Bạch không lên tiếng, song vẻ mặt rõ ràng đã dịu hẳn đi, y trao đóa khởi lưu ly trong tay cho nàng, “Không sao, ta nghĩ hằng ngày nàng ở yên trong nhà, chắc không quen với tình huống này, là ta đường đột làm nàng giật mình.”
Vương Nhược nuốt nước mắt gật đầu mỉm cười, sửa lại vạt áo vái y một vái thật dài, đoạn đưa tay đón lấy cành khởi lưu ly ôm vào lòng, mặt đỏ ửng lên như đóa hải đường vừa hé.
“Ngươi thấy Vương Nhược thế nào?”
Ngồi trên xe ngựa quay về, Lý Thư Bạch hỏi.
Hoàng Tử Hà do dự một thoáng mới đáp, “Tôi chỉ là một tiểu hoạn quan trong vương phủ, không dám bình luận vương phi tương lai.”
Lý Thư Bạch phớt lờ, cầm chiếc bình lưu ly nhỏ lên, chăm chú nhìn con cá đỏ lượn lờ bên trong, chẳng buồn gặng hỏi thêm.
Hoàng Tử Hà đành trả lời, “Có vẻ có vấn đề.”
“Có vẻ ư?” Y gõ nhẹ ngón tay lên thành bình, giọng thản nhiên, “Khi chưa gặp ta, dáng vẻ ung dung thoải mái của cô ta rõ ràng xuất phát từ tận đáy lòng, đủ thấy cô ta vốn không hề để tâm có được ta chọn làm vương phi hay không.”
“Nhưng khi được nữ quan mời vào, trông thấy mặt vương gia, Vương Nhược lại thay đổi hoàn toàn, thái độ kinh ngạc và mừng rỡ kia có phần thái quá, không thật.”
“Ừm.” Lý Thư Bạch gật đầu, ánh mắt cuối cùng cũng rời con cá nhỏ, chuyển sang cô, “Còn nữa, khi rời khỏi gác Bồng Lai, hai bên có trao đổi canh thiếp(*), ta liền phát hiện ra một điểm đáng lưu tâm.”
(*) Tấm thiệp ghi bát tự của một người, gồm giờ, ngày, tháng, năm sinh.
Nói đoạn y rút từ ngăn kéo tủ ra một mảnh giấy hồng đặt lên bàn, đẩy tới trước mặt cô.
Hoàng Tử Hà đón lấy, nhìn hàng chữ trên mặt giấy.
Tiểu nữ họ Vương ở Lang Gia thuộc chi thứ tư ngành thứ tên Vương Nhược, sinh vào giờ Mão hai khắc ngày 30 tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười. Phụ thân Vương Trung, mẫu thân họ Khương, huynh trưởng Vương Gia, Vương Hứa, tiểu đệ Vương Phú.
Chỉ vỏn vẹn bấy nhiêu chữ. Hoàng Tử Hà đọc rồi thầm nhẩm tính, đoạn trình lại mảnh giấy cho y, “Canh thiếp này là giả.”
Y khẽ gật đầu, “Ngươi cũng nhận ra?”
“Vâng. Tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười chỉ có hai mươi chín ngày, không có ba mươi.”
Lý Thư Bạch nhếch mép, “Không sai.”
“Điểm này có thể tính ra được, đủ thấy kẻ giả mạo còn vụng.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn xem lại tấm thiếp, “Chữ ‘nhuận’ hơi nhỏ, theo lệ viết canh thiếp, giữa tháng và năm phải cách ra, nhưng ở đây lại không có, rõ ràng về sau mới thêm chữ ‘nhuận’ vào, điểm này tôi cũng không rõ tại sao.”
“Vì 30 tháng Mười là ngày giỗ mẹ ta, không tốt lành.” Y thản nhiên bổ sung.
Cô gật đầu. “Bởi thế, để tránh điểm đó, đành tạm thời sửa đi, hòng lọt qua vòng tuyển lựa.”
"Về tình về lý đều có thể chấp nhận được, song nếu xét theo trình tự thì có rất nhiều nghi vấn.” Y đặt ngón tay lên tấm thiếp, vẻ lạnh lùng, “Canh thiếp trước tiên phải đưa đến Thái Sử Lệnh tính toán so xét, nếu thấy ngày sinh là 30 tháng Mười, nhất định sẽ tấu rằng bị trùng với ngày giỗ của mẫu phi ta, không thể dự tuyển, do vậy dù có kẻ giúp cô ta làm giả hẳn cũng không thể sửa quấy sửa quá, dẫn tới cái sai rành rành như thế. Nếu khi trình lên đã là 30 tháng Mười nhuận, thì Thái Sử Lệnh trong quá trình cân nhắc ngày giờ sinh của các cô gái dự tuyển xem lành hay dữ, sẽ phát hiện ngay không có ngày đó, tấm thiếp này càng không thể xuất hiện trước mặt ta.”
“Bởi thế, có lẽ Vương Nhược thoạt đầu không hề nằm trong đám người dự tuyển, cũng không hề qua xét duyệt, song cuối cùng lại xuất hiện trước mặt vương gia.” Hoàng Tử Hà phán đoán, “Có lẽ vì cô ấy là tiểu muội trong họ của hoàng hậu, nên được ưu ái cho qua tất cả thủ tục phiền phức, thuận tiện đi thẳng vào vòng trong.”
“Cũng có thể. Có điều ta không lo về Vương Nhược, cô ta chỉ là một con cờ thôi. Điều ta để tâm là kẻ nào đã đưa Vương Nhược đến cho ta, sau lưng cô ta còn ẩn giấu điều gì.” Lý Thư Bạch trầm ngâm hồi lâu mới thong thả nói, “Có dây mơ rễ má gì đây, kỳ tuyển phi lần này hẳn là liên quan chặt chẽ đến lá bùa ta nhặt được năm xưa.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, hồi tưởng lại vẻ kinh hoàng của Vương Nhược khi gặp Lý Thư Bạch cùng nụ cười rưng rưng nước mắt trên gương mặt thẹn thùng. Cũng là nữ nhi, cô cảm thấy đó rõ ràng không phải tình cảm có thể thấy ở một quân cờ. Nhưng cụ thể là gì thì hiện giờ cô chưa xác định được.
Thấy cô trầm ngâm nghĩ ngợi, Lý Thư Bạch liền nói, “Việc ta lập phi khiến cục diện ngươi phải đối mặt trở nên phức tạp hơn nhiều rồi.”
“Nội tình các phức tạp sẽ càng để lộ nhiều sơ hở, giúp chúng ta nắm được càng nhiều manh mối, bởi thế phức tạp không phải chuyện xấu.” Hoàng Tử Hà đáp.
Lý Thư Bạch chăm chú nhìn Hoàng Tử Hà, thấy gương mặt cô trầm lặng mà bình tĩnh, không mảy may ngần ngại, đó là thái độ tự tin toát lên vì hiểu rõ năng lực bản thân, khiến người khác không thể nghi ngờ. Y cảm thấy một nơi nào đó trong lòng mình hơi xao động, bất giác không dám nhìn thẳng vào cô, đành quay sang vén rèm xe lên, nhìn ra phía sau như để che giấu.
Đợt tuyển phi đã kết thúc, các thiên kim tiểu thư ai về nhà nấy, hàng đoàn xe ngựa rời khỏi cung Đại Minh chạy thẳng về thành Trường An.
Cỏ hoang năm ngoái vẫn nhan nhản bên đường, cỏ non năm nay mới cao hai ba tấc, cả ngọn núi phủ một màu vàng úa, chỉ lơ thơ vài vệt xanh lục. Mỗi khi gió thổi, cứ một lớp úa vàng lại một lớp xanh non dập dờn biến ảo.
Phía sau xe họ chính là cỗ xe của nhà họ Vương, một lão bộc điều khiển hai con ngựa khỏe màu lông loang lổ, chạy khoan thai không nhanh không chậm.
Lý Thư Bạch buông rèm xuống, “Xe nhà họ Vương ở ngay phía sau đó.”
Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi đứng dậy mở cửa xe, “Đến giao lộ phía trước, tôi xin xuống trước.”
“Vội gì chứ, ta đâu hạn định thời gian cho ngươi.”
“Đương nhiên phải vội, tôi chỉ mong sớm về Thục được ngày nào hay ngày nấy!” Hoàng Tử Hà đáp. Đến giao lộ, nhân lúc xe ngựa chạy chậm lại để rẽ, cô nhảy xuống đường.
Qua tấm rèm, Lý Thư Bạch thấy cô lảo đảo một cái đã đứng vững lại ngay, bèn cúi đầu nhìn xuống con cá nhỏ trong tay mình.
Xe ngựa của Quỳ vương phủ chạy về phía phường Vĩnh Gia, còn Hoàng Tử Hà thì quay mình đi về phía phường An Hưng.
Quả nhiên, xe ngựa nhà họ Vương từ từ dừng lại cạnh cô, một phụ nữ trung niên vén rèm hỏi, “Chẳng phải tiểu công công hầu cận của Quỳ vương gia ư? Định đi đâu đây?”
Cô ngẩng lên cười với bà ta, “Cảm tạ bà quan tâm, tôi phải đến chợ Tây mua ít đồ.”
Người phụ nữ ngoảnh vào trong xe hỏi vài câu, đoạn cười bảo, “Chúng ta đến phường Quang Đức, ngay bên cạnh chợ Tây. Nếu tiểu công công không chê thì để chúng ta đưa một đoạn, chẳng hay ý công công thế nào?”
Hoàng Tử Hà vội thoái thác, “Không được, sao tôi dám ngồi cùng xe với quý nhân cơ chứ…”
“Ai da, về sau là người một nhà rồi, công công là hầu cận của vương gia, chúng ta còn nhiều cơ hội gặp nhau mà.” Nói đoạn, người phụ nữ cười híp cả mắt, vẻ thân thiện, chẳng đợi cô phân trần đã mở toang cửa ra mời cô.
Hoàng Tử Hà lên xe, quả nhiên thấy Vương Nhược đang ngồi bên trong, liền tham kiến vương phi rồi lại cảm ơn người phụ nữ kia. Bà ta tuổi ngoài bốn mươi song vẫn duyên dáng uyển chuyển, vài nếp nhăn nơi khóe mắt chỉ càng làm tăng thêm vẻ mặn mà, đủ thấy thời xuân sắc nhất định là một mỹ nhân.
Hoàng Tử Hà ngồi xuống chiếc ghế gần cửa xe, cúi đầu liếc Vương Nhược qua khóe mắt. Dáng ngồi của nàng vô cùng tao nhã, hai tay đan nhau đặt trên đùi trái, bàn tay mềm mại nhỏ nhắn hơi lộ ra dưới lớp lụa cánh sen, ngón tay nõn nà, móng tay hồng hồng giũa thành hình vòng cung hoàn mỹ.
Nhìn đôi bàn tay ấy, Hoàng Tử Hà nhớ lại hồi trước ở Thục, tuy là tiểu thư nhà sứ quân, song ngày ngày cô chỉ cùng Hoàng Ngạn và Vũ Tuyên ra ngoài cưỡi ngựa đi dạo, chơi mã cầu, thúc cúc còn giỏi hơn cả nam nhi, nào có bao giờ chăm chút đôi tay mình đến thế?
Đương lúc ngẩn ngơ, chợt nghe người phụ nữ kia hỏi, “Tiểu công công lúc nào cũng ở gần vương gia ư?”
Cô vội lắc đầu đáp, “Mới có mấy ngày thôi, trước đây là các thái giám khác phục dịch, chẳng may dạo này bọn họ đều sinh bệnh nên tạm thời điều tôi tới sai bảo dăm bữa.”
“Đó cũng là do tiểu công công làm việc cẩn thận nên mới được vương gia tín nhiệm.” Người phụ nữ cười, đoạn lại thăm dò, “Vậy chắc tiểu công công cũng nắm được giờ giấc sinh hoạt hằng ngày của vương gia?”
“Hằng ngày… tôi không rõ lắm.” Cô thành thật đáp, “Tôi vụng về, cũng không phải hầu hạ gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng theo gia ra ngoài thôi.”
“Vậy là cũng gần gũi lắm, nhất định phải nắm rõ rồi.” Bà ta cười tươi, “Tiểu công công, tiết lộ cho chúng ta biết với, Quỳ vương gia thích màu gì, thích ăn món gì, thị nữ kề cận tính tình ra sao?”
Hoàng Tử Hà chợt nhận ra mình đã rơi vào một tình cảnh xưa nay chưa từng có, rất khó ứng phó, “Quỳ vương gia… không thích ai lẽo đẽo theo bên cạnh, thường chỉ thích ở một mình, về phần thị nữ gì đó thì…”
“Nhũ mẫu!” Vương Nhược nhịn không nổi, đành buột miệng nhắc.
Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới nhận ra nàng đã sắp vùi hẳn đầu vào trong áo, má đỏ bừng như người say, kiều diễm quyến rũ khôn tả.
“Ai da, cô nương nhà ta thật là, rõ ràng đã có danh phận vương phi rồi, tìm hiểu trước về vương gia cũng là đương nhiên thôi mà, phải không?” Người phụ nữ vội ôm lấy vai Vương Nhược, cười nói.
Hoàng Tử Hà nhờ thế mới được thoát thân, vội an ủi, “Cô nương đừng lo! Quỳ vương rất dễ gần, huống hồ cô nương là thiên kim nhà họ Vương ở Lang Gia, dung mạo lại như hoa như ngọc thế này, gia đã chọn cô nương từ bấy nhiêu người, nhất định sẽ trân quý hơn báu vật, bạc đầu không chia lìa.”
Vương Nhược ngước lên nhìn cô, nói khẽ, “Đa tạ tiểu công công, mong rằng sẽ được như… lời chúc của công công.” Đoạn nàng nở một nụ cười gượng gạo, gương mặt lộ rõ vẻ sợ sệt, “Ta… Ta vừa gặp mặt vương gia đã chẳng biết phải làm gì nữa, đến bước chân cũng cứng đờ. Công công thấy đấy, gia trông bộ dạng đó nhất định sẽ cho rằng ta ngốc nghếch, càng như vậy ta càng căng thẳng, sợ gia không vừa ý, song lại không biết rốt cuộc mình nên làm gì, mồ hôi đổ ra ướt đẫm cả lưng…”
Hoàng Tử Hà thấy nàng càng nói càng hồi hộp, vội trấn an, “Đừng lo, vương gia không để bụng đâu, nhất định gia sẽ hiểu cho tiểu thư mà.”
Nhũ mẫu lập tức phụ họa, “Đúng thế, nâng khăn sửa túi cho Quỳ vương là giấc mộng của biết bao thiếu nữ kinh thành. Cô nương nhà chúng ta từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Quỳ vương, tâm trạng thấp thỏm hồi hộp này, hẳn tiểu công công cũng hiểu.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, “Vâng, ai biết quan sát đều nhận ra cả mà.”
Vương Nhược hít vào một hơi thật sâu rồi khẽ nói, “Đa tạ công công.”
Trừ câu đó ra, nàng không nói thêm một tiếng nào nữa.
Xe ngựa đến gần phường Quang Đức. Trước khi xuống Hoàng Tử Hà lại cảm tạ hai người kia thêm lần nữa.
Cách đó không xa là chợ Tây, cảm thấy về vương phủ ngay thì không ổn, cô bèn đi vào một tiệm bán canh trong góc chợ.
Không gian bên trong quán rất hẹp, ngồi cùng bàn với cô là một cặp mẹ con, bé gái chừng bảy tám tuổi, ngồi trên ghế chân còn chưa chạm đất. Người mẹ dùng đũa xắn sợi mì dài thành từng đoạn nhỏ, bón cho con ăn.
Hoàng Tử Hà trông mà ngẩn người. Thấy cô cứ nhìn chằm chặp, người mẹ ngượng nghịu cười nói, “Cháu còn bé, ăn sợi dài không tiện.”
“Ồ vâng, phải phải.” Hoàng Tử Hà đáp, khóe mắt chợt cay cay. Nhớ lại thuở mới lên mười, mẹ cũng xắn mì cho cô như thế, khiến cha ngồi đối diện phải lắc đầu, “Lớn chừng ấy rồi, nuông quá sinh hư, từng này tuổi còn phải mẹ bón cho.” Đại ca ngồi bên trái cô, vừa xì xụp ăn mì vừa giễu, “Lêu lêu, lớn chừng ấy còn phải bón, sau này nhớ tìm lang quân đảm đang để hắn thay mẹ hầu hạ cho nhé!”
Bấy giờ cô đã vùng vằng quăng đũa xuống chạy thẳng về phòng, giận dỗi không chịu ăn cơm. Nhưng chỉ lát sau, mẹ lại bưng cơm đến ngọt ngào dỗ cô ăn. Vừa ăn được mấy miếng, ngẩng lên thì thấy cha đứng xa xa ngoài cửa sổ nhìn về phía mình. Bắt gặp ánh mắt cô, ông bèn giả vờ chỉ đi ngang qua, thong dong thả bộ trên con đường nhỏ rải sỏi ở vườn sau mất hút.
Bao chuyện vụt vặt tầm thường ngày ấy, giờ hồi tưởng lại như hiển hiện trước mắt, thậm chí những hòn sỏi dưới chân cha xếp thành hình dạng gì, bóng cây ngoài song hắt lên tay mẹ thế nào, đều hiện lên rành rành, trông rõ mồn một.
Bất giác chạnh lòng hồi tưởng lại khiến những ưu sầu và phẫn hận trong cô bị khuấy động, đan dệt vào nhau. Cuối cùng Hoàng Tử Hà phải cắn chặt môi, run rẩy nín thở, mới ngăn được nỗi bi phẫn và nước mắt đồng loạt trào lên. Cô nuốt lại tất cả, chôn vùi thật sâu trong mạch máu.
Cha, mẹ, đại ca…
Cô rưng rưng ăn từng chút mì một, nuốt xuống bụng cùng nước mắt.
Tất cả oan khuất và huyết lệ bây giờ, sẽ có một ngày cô trở về Thục, đích thân đòi lại.
Bên tai vẳng đến tiếng chim ngói. Tiết trời tháng Sáu ấm áp dễ chịu, cả làn gió cũng dịu dàng như nước, khác nào tấm sa mỏng manh phớt qua tai làm người ta nhồn nhột, xa xa vẳng lại tiếng hát du dương của cô gái hái sen bên bờ nước.
Cũng vào mùa đất trời giao hòa thế này, Hoàng Tử Hà mười hai tuổi nghe thấy tiếng cha gọi mình. Đang ở bên bờ nước, cô ngoái lại, nắng rọi vào mắt cô biến tầm nhìn thành màu đỏ rực hoặc gần giống màu mã não, bao phủ cả thế giới trước mặt.
Trong ánh sáng đỏ rực dị thường ấy, cô trông thấy thiếu niên đứng cạnh cha mình, quần áo rách rưới, vẻ mặt rầu rĩ, làn da trắng bệch và mái tóc đen nhánh. Gã nhìn cô bằng đôi mắt đen như điểm sơn, chẳng khác nào bóng đêm tăm tối nhất, thăm thẳm u ám, từ độ ấy in sâu vào đáy lòng cô như dao khắc, vĩnh viễn không sao xóa được.
Cô cứ thế đứng chân trần dưới nước, một ôm hoa sen đầy tay chẳng biết tự lúc nào đã rơi cả xuống mặt nước.
Cô thấy ánh mắt thiếu niên kia thấp thoáng nét cười, gã thong thả tiến lại, giúp cô vớt từng cành sen còn phong nhụy dưới nước lên, chắc cũng nhìn thấy những đốm bùn lấm tấm bắn lên chân cô cùng những mảy cỏ dính đầy gấu váy lụa, nhưng gã chỉ mỉm cười, trao bó hoa cho cô. Ánh mắt gã nhìn cô không phải ánh nhìn thông thường dành cho một cô bé, mà là vẻ dịu dàng của thiếu niên đối với thiếu nữ.
Có lúc, một cô bé lớn lên, chỉ nhờ vào một ánh mắt của đối phương mà thôi.
“Vũ Tuyên…” Đang nằm trên giường, Hoàng Tử Hà bật dậy, vươn tay toan nắm lấy những hình ảnh còn sót lại trước mắt, song lại phát hiện tất cả chỉ là giấc mộng.
Đêm đen thăm thẳm, gió rít lên ngoài song cửa, hơi lạnh mùa xuân se sắt thấm vào xương tủy. Giữa đêm khuya, Hoàng Tử Hà ôm chăn gấm, lặng lẽ nhìn giấc mộng xưa trôi dần qua kẽ tay tan đi mất.
Cô gắng nín thở, từ từ nằm xuống, vùi mình trong chăn gấm gối tơ. Sau khi phá được vụ án Bốn phương, cô đã nổi danh khắp kinh thành, bởi vậy Quỳ vương phủ cũng đối đãi với tiểu hoạn quan này rất hậu. Đồ dùng hằng ngày đều là hàng thượng phẩm, thậm chí còn cao cấp hơn thời cô là thiên kim nhà sứ quân.
Vậy mà, ở giữa chăn ấm nệm êm cô còn thấy khó ngủ hơn cả khi dầm mưa dãi nắng bôn ba lặn lội rừng hoang núi thẳm. Cô cứ thế chong mắt nằm trong bóng tối nghe tiếng gió rít gào ngoài cửa sổ hồi lâu, cuối cùng đành tung chăn bò dậy mặc quần áo rồi mở cửa bước ra ngoài.
Bóng cây bốn bề trùng điệp, cô đi theo trí nhớ, băng qua trùng trùng sân vườn trong Quỳ vương phủ. Các thị vệ tuần tra dọc đường thấy cô cũng làm lơ, chắc hẳn dưới đều biết gần đây cô là người tâm phúc của vương gia nên có thể tùy tiện đi lại, không ai quản thúc.
Cô đi thẳng đến hiên Tịnh Dữu, chỉ thấy ánh trăng tràn trề trên lá cây ngọn cỏ, bốn bề tĩnh lặng. Giờ chưa đến canh tư, đương nhiên Lý Thư Bạch còn đang ngủ.
Bấy giờ cô mới sực nghĩ ra, dù mình mơ ngủ rồi sốt ruột đến đâu thì Quỳ vương Lý Thư Bạch sao có thể vì cô mà nửa đêm trở dậy, hỏi han tâm trạng cô được.
Cô đành tìm một tảng đá dưới khóm hoa ngoài sân ngồi xuống, gục mặt vào giữa hai đầu gối, định bụng lẳng lặng ngồi chờ một lát rồi quay về đợi y triệu gọi.
Chẳng biết ngồi đó đã bao lâu, trăng nhạt dần, cuối trời cũng thấp thoáng ánh xanh lam. Sang xuân sương vẫn còn dày, ướt đẫm cả vạt áo, cô đờ đẫn nhìn mầm cỏ mới nhú lên mặt đất, đương lúc thẫn thờ, chợt thấy một đôi ủng da đen giẫm ngay lên mầm cỏ.
Nhìn dọc theo đôi ủng, cô thấy y vận một chiếc áo tím thêu hoa văn quỳ long xanh đậm, cắt may rất khéo càng làm nổi bật thân thể cao lớn. Bên hông đeo một miếng ngọc bội tím có hình lầu gác thần tiên, được buộc bằng dây tơ xanh thắt chín nút vòng mười tám chỗ, cổ áo tay áo may theo lối tay hẹp cổ vuông đơn giản, chính là kiểu áo mà người trong kinh đang đua nhau phỏng theo.
Quỳ vương Lý Thư Bạch hào hoa phong nhã, mỗi bộ đồ y mặc chẳng bao lâu sau đều sẽ trở nên thịnh hành.
Kẻ này, nếu chỉ xét riêng ngoại hình, thực giống hạng con cháu hoàng gia áo gấm cơm vàng, mải mê chơi bời hát xướng chọi chó đua ngựa. Tì cằm lên đầu gối, Hoàng Tử Hà nghĩ thầm trong lúc nhìn y.
Lý Thư Bạch sừng sững ngó xuống cô, thấy cô nhìn mình chẳng nói chẳng rằng, bèn quay sang nhìn ngọn đèn lồng treo trên cây, hỏi, “Sáng sớm ngày ra, gió rét thế này, một tiểu hoạn quan như ngươi chạy đến đây ngắm hoa là sao?”
Hoàng Tử Hà lí nhí đáp, “Đêm qua tôi nằm mơ, tôi… Tôi muốn hỏi, vương gia định ủy thác cho tôi việc gì, liệu tôi có thể hoàn thành thật nhanh để mau chóng về Thục không?”
Dưới ánh đèn lồng, Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, không nói không rằng, đi ngang qua cô, bước lên hành lang quanh co bên cạnh.
Hoàng Tử Hà đứng dậy đi theo, chỉ thấy y ngồi bệt xuống, như thể xung quanh không người. Cô đành đứng bên đợi y lên tiếng.
Những ngọn đèn lồng treo dọc hành lang cứ lung lay chập chờn. Gió đêm phe phẩy, đèn lụa họa hình Bồng Lai tiên cảnh xoay vần trong gió, gương mặt Lý Thư Bạch cũng lúc sáng lúc tối, khó mà trông rõ.
Lý Thư Bạch chẳng vội hỏi tới cô, chỉ ngẩng đầu ngắm ngọn đèn treo dưới mái ngói cong vút. Hoàng Tử Hà thấp thỏm đứng chờ y mãi, cuối cùng cũng thấy không ổn, bèn quay sang nhìn ngọn đèn kia. Đó là một chiếc đèn bát giác bình thường, khung gỗ sơn đỏ được ghép rất khéo thành hoa văn chớp sáng mây lành, trên mặt lồng đèn bằng sa trắng họa núi tiên biển mây, ở giữa có chín tầng lầu gác, thần tiên qua lại dập dìu.
Cô không thấy chiếc đèn này có gì khác lạ, song ngoảnh đầu lại phát hiện Lý Thư Bạch đang nhìn mình chằm chằm, dưới ngọn đèn leo lét, ánh mắt âm u như sao xa cuối trời.
Hoàng Tử Hà vội đưa tay sờ mặt mình, còn chưa kịp hỏi đã nghe Lý Thư Bạch thong thả lên tiếng, “Thật khéo quá, mới rồi ta cũng nằm mơ, mơ thấy ta đứng trên thành lâu ở Từ Châu, nhìn xuống ngàn vạn nếp nhà trong mưa bên dưới. Sau khi tỉnh lại không tài nào ngủ tiếp được nữa.”
Hoàng Tử Hà nghiêng người ngồi xuống lan can sát mép nước, lẳng lặng nhìn y. Cô thấy ánh mắt y sáng như trăng sao, cũng lăn tăn như sóng gợn.
“Bao năm nay, ta có một việc vô cùng quái dị, lại rất khó giải thích. Ta là người trong cuộc, bấy lâu vẫn rầu rĩ không hiểu nổi, bởi vậy luôn muốn tìm một người có thể giúp ta phá giải câu đố này.” Lại nhìn lên non tiên mờ ảo trên đèn, y chậm rãi hỏi, “Ngươi có biết tại sao ta lại nói sẽ cho ngươi thời gian mười ngày không?”
Hoàng Tử Hà lắc đầu, nhìn y dưới ánh sáng chập chờn, vẻ dò hỏi.
“Vì sau mười ngày là đến hôm ta tuyển phi, ngày đó, việc đó, đều khiến ta rất bực bội.” Y thở dài, tựa lưng vào lan can, ánh đèn lập lòe chớp tắt rọi lên người y, trông càng mờ ảo mông lung vào một đêm xuân như thế này.
“Năm xưa, ta từng nhặt được một lá bùa ở Từ Châu. Nội dung trên bùa làm ta vẫn canh cánh trong lòng,”
Nghe nhắc tới Từ Châu, sực nhớ đến một sự việc kinh động thiên hạ năm xưa, Hoàng Tử Hà không khỏi biến sắc mặt. Lý Thư Bạch cũng thừa nhận, “Không sai, Từ Châu là bước ngoặt trong vận mệnh của ta, ai nấy đều nói đó là đất lành của ta. Nhưng không một ai biết, sau khi bình định Từ Châu, đêm cuối trước ngày về kinh, lúc ta đứng trên thành lâu nhìn xuống toàn thành, đã xảy ra một việc mà đến tận bây giờ ta vẫn nhớ như in.”
Nói đến đây, rốt cuộc y cũng ngoái lại nhìn cô, rồi rút trong tay áo ra một tờ giấy.
Chất giấy dày dặn song đã ngả vàng, rộng chừng hai tấc, dài tám tấc, hoa văn trên mặt giấy đỏ thắm, hình dạng như sâu như rắn, nhìn rất quái đản, bên trên viết ba chữ “côi”, “tàn”, “góa”() đậm nét. Trong đó, quanh chữ “góa” và chữ “côi” lại có hai vòng tròn đỏ lòm màu máu, chẳng khác nào vận mệnh bị khoanh bằng máu tươi, nhìn vô cùng rùng rợn.
() Mồ côi, tàn tật, góa vợ.
Ngón tay Lý Thư Bạch phác qua những hoa văn tinh tế đỏ rực nửa sâu nửa rắn, “Kiểu hoa văn này là trùng xà triện, ghi lại bát tự của ta.”
Hoàng Tử Hà nhìn ba chữ quái gở cùng hai vòng tròn đỏ như máu in trên bát tự của y, lòng gờn gợn một dự cảm không lành.
Lý Thư Bạch đặt lá bùa lên lan can, ấn nhẹ tay bên trên, “Lá bùa này xuất hiện đúng vào đêm ta đứng trên thành lâu Từ Châu, nhìn xuống bên dưới. Dường như nó lẳng lặng hiện ra ngay trên ụ tránh tên cạnh ta, khi ta cầm lấy lần đầu thì bên trên mới chỉ có ba chữ, chưa thấy hai khoanh tròn, song quanh chữ 'côi' có một vòng đỏ lờ mờ.” Đoạn y trỏ vào chữ “côi” như đang ve vuốt quá khứ của chính mình, “Mất cha từ nhỏ gọi là côi, bấy giờ phụ hoàng đã qua đời, song mẫu phi còn tại thế nên ta cũng không để tâm, chỉ cho rằng đây là thứ bùa chú tầm thường của kẻ thù, bèn giữ lại, chuẩn bị rà soát xem trong số những người thân cận, kẻ nào dám đặt thứ này cạnh ta. Ngờ đâu…”
Ánh mắt y lại quay sang ngọn đèn bên cạnh, giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh đèn cứ lay lắt chực tắt, khiến Hoàng Tử Hà cảm giác trong một chớp mắt đó, bốn bề xung quanh cô đều mờ mịt hẳn đi.
“Đêm đó, ta gặp ác mộng triền miên. Trong mộng, ba chữ kia cứ sờ sờ đập vào mắt hết lần này sang lần khác. Tỉnh dậy ta định đốt quách lá bùa đó cho rồi, song khi rút ra xem lại phát hiện vòng đỏ lờ mờ quanh chữ 'côi' bấy giờ đã đậm hẳn lên, giống hệt lúc này.” Ngón tay y đặt trên chữ “côi”. Trong ánh trăng, khoanh đỏ chẳng khác nào một đóa hồng kì dị nở bung dưới tay y, lại hệt như vết máu tươi loang rộng khiến người ta nhìn mà kinh hồn táng đởm. “Cũng đêm ấy, cùng lúc ấy, trong kinh thành gửi ra một văn kiện khẩn cấp, ta mở xem mới biết đó là tin báo tử mẫu phi.”
Vào ngày khoanh đỏ khoanh đúng chữ “côi”, y đã thực sự trở thành kẻ không cha không mẹ.
Hoàng Tử Hà thấy y thu bàn tay đặt trên lá bùa lại, rồi bất giác nắm chặt thành quyền, đôi tay tuyệt đẹp của y vì siết quá mạnh mà đốt ngón tay cũng trắng bệch cả ra. Cô buột miệng, “Có lẽ chỉ là trùng hợp thôi, gia đừng nghĩ ngợi quá nhiều.”
“Sau khi nhận được tin mẫu phi qua đời, trên đường từ Từ Châu về kinh, ta bị hành thích. Tay trái ta bị thương, vết thương không sâu nhưng hung khí lại tẩm độc, các thái y trong quân doanh đều nói cánh tay ta không giữ nổi, nếu còn muốn sống buộc phải chặt cụt tay.” Y đưa tay phải vuốt nhẹ lên cánh tay trái, tựa hồ cơn đau khi ấy còn chưa tan hết, “Bấy giờ, ta rút lá bùa bên mình ra, trông thấy trên đó lại lờ mờ xuất hiện một vòng tròn nữa, khuyên quanh chữ 'tàn'.”
Giữa đêm đen tĩnh mịch chợt nổi gió to, ngọn đèn bỗng nhiên xoay tít, ánh đèn mờ mịt soi xuống thân hình hai người, mép lá bùa có hai khoanh đỏ kia cũng bay lật phật trong gió, như thể vận mệnh đang lay động.
Lý Thư Bạch nhìn cô, vẻ mặt bình thản đến gần như cứng đờ, “Ngươi, có biết bấy giờ ta đã làm gì không?”
Hoàng Tử Hà nhặt lấy lá bùa, ánh mắt không rời Lý Thư Bạch, “Tôi đoán, vương gia nhất định đã cho bắt đám thái y lại, tra rõ thủ phạm.”
Gương mặt nãy giờ vẫn đanh lại của Lý Thư Bạch từ từ dãn ra, khóe môi y còn khẽ nhếch cao nữa. Vẻ lạnh nhạt vốn có được nụ cười tôn lên, chợt toát ra nét dịu dàng thanh tịnh như gió xuân mơn man quanh người. Dù nụ cười ấy vô cùng lợt lạt, song cũng không giấu nổi những gì vừa bộc lộ từ tận đáy lòng y. Lý Thư Bạch tán thưởng, “Hoàng Tử Hà, ngươi thực giống ta, đều là kẻ không tin vận mệnh.”
“Tôi ở Thục quận ba năm, đã kinh qua hai mươi sáu vụ án mạng, trong đó tám vụ nghe đồn có dính líu tới quỷ thần. Song cuối cùng khi chân tướng bị vạch trần, chẳng qua đều là những kẻ lòng dạ đen tối giả thần giả quỷ. Ví như vụ án Bốn phương mấy ngày trước, chẳng phải cũng mượn danh quỷ thần đó ư!” Hoàng Tử Hà đặt tay lên lá bùa, “Cũng như lá bùa này vậy, những điều vương gia vừa kể đã đủ vạch rõ ý đồ của kẻ đứng đằng sau rồi.”
Lý Thư Bạch nhìn cô, vui vẻ bảo, “Ngươi nói thử xem?”
Hoàng Tử Hà đưa tay vén tóc mai, vừa chạm vào cây trâm gỗ cắm trên đầu, bàn tay cô chợt khựng lại, rõ ràng lại nhớ đến bộ dáng đầu tóc rũ rượi lần trước. Cô bèn buông tay xuống, dùng ngón tay vạch một chữ nhất lên lan can rồi nói, “Thứ nhất, chỉ có người thân cận bên cạnh vương gia mới dàn xếp được sự xuất hiện của lá bùa kia, bởi thế, nhất định là kẻ có lòng dạ bất chính ấy đã lén lút đặt nó tại nơi gia chuẩn bị đến – thành lâu Từ Châu.”
Nói đoạn, ngón tay cô lại vạch hai nét ngang trên lan can, “Thứ hai, khuyên đỏ trên lá bùa đều xuất hiện hoặc đột ngột thay đổi lúc ở bên cạnh gia, bởi thế kẻ này không chỉ theo gia lên thành lâu mà còn ở kề bên, bất cứ lúc nào cũng có thể tiếp xúc với mọi thứ của gia, có lẽ là kẻ thân cận nhất bên cạnh, ví dụ thị tòng. Thứ ba, bệnh mà thái y chẩn đoán lại ngấm ngầm trùng khớp với lá bùa này, chứng tỏ bên cạnh gia không chỉ có một mà phải tiềm phục ít nhất hai kẻ có ý xấu, một kẻ là thái y, kẻ kia là thuộc hạ của gia." Dứt lời, cô thu tay lại, thổi thổi ngón tay mình, đoạn tổng kết, “Lần theo manh mối thái y, hẳn có thể moi ra tên thuộc hạ trốn trong bóng tối kia.”
Lý Thư Bạch không nhận xét gì, mà tiếp tục kể, “Tên thái y đã tự vẫn trước khi bị tra hỏi, sau đó ta cũng lần lượt phái các thị vệ bồi dưỡng nhiều năm đi xa, không định triệu họ về nữa.”
Hoàng Tử Hà đưa mắt nhìn lá bùa, “Nhưng trên đó…” Khoanh tròn quanh chữ “tàn” đã phai đi, chỉ còn lờ mờ dấu tích.
“Sau hơn nửa năm chữa trị, cánh tay ta cũng giữ được, nên khuyên tròn quanh chữ ‘tàn’ mờ dần. Song hiện giờ tay trái ta coi như hỏng. Chỉ thực hiện được vài việc thông thường, viết lách vẽ vời còn tạm, nhưng không thể cầm kiếm giương cung nữa.” Y giơ tay trái ra, co duỗi ngón tay trước mặt cô, “Thực ra trước đây ta thuận tay trái.”
Một người thuận tay trái, sau khi tay thuận trục trặc đã tức tốc rèn luyện để thuận tay phải, những gian khổ khó khăn trong quá trình đó, hẳn người thường khó mà hình dung nổi.
Nhớ tới thân thủ nhanh nhẹn của y lúc lôi mình từ ngăn tủ ra, Hoàng Tử Hà không khỏi bội phục. Ít nhất, cô cũng thấy mình rất khó có ý chí làm lại từ đầu đến mức tập tay không thuận thành tay thuận như thế.
“Ta cứ ngỡ giải tán đám người vẫn theo hầu bên cạnh thì chuyện này cũng trôi vào dĩ vãng, bởi vậy đã cất lá bùa vào một chỗ bí mật. Vì ta vẫn hy vọng dùng nó để bắt tên nội gián bên mình. Song mấy ngày trước, nghe nói bệ hạ định tuyển phi cho mình, ta nhớ đến lá bùa bèn lấy ra xem, kết quả phát hiện trên đó lại xuất hiện một khuyên tròn, lần này là quanh chữ ‘góa’.” Y cầm lá bùa lên, gí ngón tay vào chữ “góa” bị khoanh đỏ, cười giễu cợt, “Đàn ông mất vợ gọi là góa vợ, xem ra việc thành thân của ta cũng sẽ gặp phải biến cố không thể tưởng tượng được rồi.”
Hoàng Tử Hà cầm lấy lá bùa từ tay y, quan sát thật kỹ. Sắc đỏ này tươi mới hơn khuyên đỏ quanh chữ “côi”, cả lá bùa đỏ lòe như máu, càng toát lên vẻ quỷ quái kinh người.
“Thật không thể tưởng tượng nổi, chẳng khác nào thần quỷ trêu người, vận mệnh định sẵn. Cứ cách ba bốn năm, lá bùa này lại loang màu máu mới.” Lý Thư Bạch chậm rãi nói, “Ta đã thay tùy tùng hầu cận mấy lần, hơn nữa khi cất nó đi, ta còn cẩn thận hơn cả lúc xử lý quân vụ trọng yếu, nào ngờ lá bùa đáng lẽ không thể sơ sẩy mảy may, cuối cùng vẫn hiện ra điểm chẳng lành.”
Hoàng Tử Hà đặt lá bùa xuống, “Xem ra lá bùa này phức tạp hơn chúng ta tưởng nhiều.”
“Ừm.” Lý Thư Bạch ậm ừ, ngập ngừng một lát mới tiếp, “Tóm lại lần này nhất định sẽ có người gây khó khăn cho hôn sự của ta. Hơn nữa, vương phi được chọn cho ta, tức con gái nhà họ Vương ở Lang Gia, cũng có lai lịch không đơn giản. Nếu cuộc hôn nhân của ta bị kẻ khác lợi dụng hoặc có kẻ muốn thừa cơ làm mưa làm gió, chẳng hạn…”
Ánh mắt y dừng lại ở cô, hồi lâu mới nói, “Ta vừa nhớ ra, Vương Uẩn cháu đích tôn chi trưởng họ Vương Lang Gia từng là vị hôn phu của ngươi. Ngươi thà hạ độc chết cả nhà chứ không chịu gả cho y, rõ ràng là sự sỉ nhục lớn nhất đời y từ xưa đến nay. Mối nhục như vậy, y nuốt trôi chứ ta nuốt không trôi được.”
“Tôi không giết người nhà.” Hoàng Tử Hà cắn chặt môi, nói rành rọt từng tiếng, “Nếu vương gia muốn tôi giúp đỡ thì đừng nhắc lại việc này trước mặt tôi nữa.”
Lý Thư Bạch liếc cô, “Ta chỉ thuật lại cái nhìn của người khác, chứ đâu phải của ta.”
Cô khẽ cắn môi, hỏi nhỏ, “Vương gia bắt đầu tin tôi không giết hại người nhà từ bao giờ?”
Y nhìn cô, cười nửa miệng, đứng dậy băng qua cây cầu nhỏ quanh co bắc ngang dòng nước, tựa hồ không muốn nói thêm với cô nữa.
Hai người men theo con đường nhỏ tranh tối tranh sáng tiến sâu vào phía trong lầu gác sáng rực đèn đuốc. Cô đi đằng sau, nghe thấy y chậm rãi nói, “Ta xem tay ngươi, nhận ra ngươi chưa hề giết người.”
Cô thoáng sững người, nhưng ngay lập tức nhận ra chỗ sơ hở trong lời y, “Lần trước xem tay cho tôi, rõ ràng vương gia nói nhìn chỉ tay đủ thấy tôi đã hạ độc giết cả nhà, bởi vậy mới đoán ra thân phận của tôi còn gì!”
“Gạt ngươi thôi.”
“Vậy bấy giờ làm sao vương gia nhận ra thân phận của tôi?”
“Điều này ngươi không cần quan tâm.” Chỉ một câu, y đã chặn đứng chủ đề lại. “Ngươi cứ giúp ta vạch trần bí mật đằng sau lá bùa, thế là hoàn thành nhiệm vụ rồi.”
“Sao vương gia không xem ngay chỉ tay cho đám người xung quanh, chẳng phải sẽ tra rõ tất cả ư?” Cô vẫn bướng bỉnh hỏi.
“Không có hứng.” Y chẳng buồn ngoảnh đầu, “Ta thích xem kẻ khác giả làm tiểu hoạn quan hơn là xem chỉ tay cho đầy tớ.”
Thế là tiểu hoạn quan thê thảm của Quỳ vương phủ, Hoàng Tử Hà – à không, là Dương Sùng Cổ - phải theo vương gia vào cung, đến gác Bồng Lai ở cung Đại Minh, tham dự quá trình tuyển chọn Quỳ vương phi.
Trời tháng ba còn chưa có nắng, đào mận nở khắp vườn ngự uyển cũng không sao xua tan được cái lạnh bao trùm cả hoàng cung.
“Lạ thật, rõ ràng cung Đại Minh xây ở chỗ cao, hướng về phía mặt trời, sao còn lạnh hơn cả trong thành kia chứ?”
Nghe thấy Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, Lý Thư Bạch lườm cô rồi giải thích, “Vì đây là nội cung, nơi cao quý nhất dưới gầm trời, cũng là nơi nhiều âm mưu nhất trong triều chứ sao.”
Hoàng Tử Hà nhìn xuống gợn sóng bên dưới, nín lặng. Có những lời người này nói được, người kia lại không.
Lúc này họ đang đứng trên đài cao ở gác Bồng Lai, nhìn xuống hồ Thái Dịch. Hoa cỏ hai bên bờ hồ dập dờn lay động theo cơn gió phần phật, chẳng khác nào biển hoa mênh mông, những đợt sóng đủ màu đỏ trắng vây lấy hồ Thái Dịch xanh biếc.
“Thiên kim các nhà mười phần đã đông đủ tám chín, chi bằng vương gia vào điện xem họ đang nói chuyện gì.” Hoàng Tử Hà đề nghị.
Lý Thư Bạch nhếch mép, quay sang nhìn cô, “Vội gì chứ?”
Hoàng Tử Hà đành nén nỗi tò mò muốn ngắm nhìn các mỹ nữ kinh thành, kiên nhẫn đợi đến lúc y ra lệnh. Nào ngờ lại nghe ý hỏi, “Tín vật vẫn còn đấy chứ?”
“Vâng.” Cô mở hộp gấm đang ôm trong lòng ra nhìn. Người trong cung đều đồn đoán, chẳng biết tín vật Quỳ vương gia tặng cho vương phi tương lai sẽ là vàng ngọc quý giá hay bảo bối hiếm có nào, ai mà ngờ được vật cô ôm trong lòng đây lại là một đóa mẫu đơn khởi lưu ly đương nở rộ.
Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn bông hoa đỏ thắm diễm lệ, nói, “Sáng sớm nay, theo lời vương gia dặn dò, tôi đã hái đúng lúc nó vừa bừng nở. Nào ngờ lão Lưu làm vườn không biết nội tình, giậm chân mắng tôi sa sả, kể lể rằng phải đào đường ngầm, dùng than củi đun liu riu suốt hơn hai tháng trời mới thúc nở được một bông này, hái đi rồi thì năm nay giống mẫu đơn khởi lưu ly hiếm có khó tìm coi như không còn ra hoa mà ngắm nữa.”
Khóe miệng Lý Thư Bạch rốt cuộc cũng nở hẳn thành một nụ cười, “Coi như lão có công.”
“Dùng hoa mẫu đơn làm tín vật, vương gia quả là phong nhã.” Hoàng Tử Hà đậy nắp hộp lại, bưng trong tay. Thấy nét vui vẻ hiếm có trên mặt Lý Thư Bạch, cô không khỏi nghĩ thầm, hoa đẹp không dễ nở mà chớp mắt đã héo tàn, người thông minh như Quỳ vương đời nào không nghĩ đến điểm này? Hẳn là bởi những tín vật khác đều có thể giữ gìn lâu dài, về sau nếu muốn nuốt lời, thì đòi lại tín vật đâm ra khó coi.
Cô ôm chiếc hộp đựng mẫu đơn trong lòng, nghĩ tới lá bùa mấy hôm trước trông thấy, bất giác sinh lòng thương cảm cô gái sắp được tuyển làm vương phi.
Chẳng bao lâu sau, nữ quan hầu cận của hoàng hậu tới báo, mọi người đã đến đông đủ, xin vương gia tự nhiên.
Lý Thư Bạch liền ra hiệu cho Hoàng Tử Hà theo mình vào nội điện.
Theo thông lệ bản triều, các ứng viên cho vị trí vương phi đều có thân phận cao quý, là con gái của đại thần trong triều hoặc xuất thân danh gia vọng tộc, bởi thế đương nhiên không để người ta quan sát săm soi từng cô rồi tuyển chọn. Quá trình tuyển phi, tuy mọi người đều ngầm hiểu cả nhưng không ai nói ra miệng, chỉ cho bày tiệc mời các nàng ở đại sảnh, vương gia lùi ra sau, âm thầm quan sát qua bình phong, ưng ai thì bảo một tiếng, tiểu thư đó sẽ được vời vào, nhận tín vật do vương gia đích thân trao tặng, hỏi rõ tên tuổi và thân phận, ngoài ra không nói thêm gì khác, mọi sự cứ như vậy mà quyết định.
Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch bước vào trong. Chỉ thấy giữa điện buông một bức mành dày, cánh cửa ngăn đại sảnh với nội điện đóng chặt, mặt cửa trổ hoa văn cát tường rồi dán một lớp sa mỏng như cánh ve màu ngân hồng lên. Tuy cách một cánh cửa, y vẫn có thể thấy rõ mồn một mọi người ở phía ngoài, còn người ta chỉ thấy được thấp thoáng bóng y mà thôi.
Cảm giác được vương gia đang quan sát nên các thiên kim ứng xử đều có phần gượng gạo mất tự nhiên, duy một thiếu nữ ngồi bên phải hoàng hậu vẫn ung dung tự tại, không hề lộ vẻ câu nệ.
Ánh mắt Hoàng Tử Hà hướng về phía Vương hoàng hậu. Hoàng hậu vận chiếc áo đỏ rực trang trí hoa văn mây ráng, dung mạo cực kỳ xinh đẹp, đôi mắt phượng tinh nhanh mà trong veo, hơi xếch, mỗi lúc đưa mắt nhìn lại như có ánh sáng nội tại tỏa ra, quả là nhan sắc rực rỡ. Người là hoàng hậu thứ hai của nhà họ Vương ở Lang Gia, sau khi tỷ tỷ trong họ qua đời được bệ hạ triệu vào cung lập làm hoàng hậu. Tuổi chừng hơn ba mươi, nhưng trông chỉ như ngoài hai mươi.
Các thiếu nữ trong điện ai nấy đều trang điểm lộng lẫy, gấm lụa lượt là, quây quần quanh bàn tiệc như những đóa hoa, song không một ai át nổi hào quang của hoàng hậu. Hoàng Tử Hà thầm tán thưởng, bụng bảo dạ, ba năm trước khi vào cung bái kiến hoàng hậu, cô còn là một tiểu cô nương chưa nhận thức được thế nào là nghiêng nước nghiêng thành, hiện giờ đã lớn hơn, cuối cùng cũng hiểu, thì ra sức quyến rũ của mỹ nhân có thể đạt đến bậc này.
Thiếu nữ bên cạnh Vương hoàng hậu hẳn là Vương Nhược, thiên kim nhà họ Vương ở Lang Gia. Hai người là tỷ muội trong họ mà trông khác hẳn nhau. Người sao tên vậy, Vương hoàng hậu nhũ danh Thược, khoác áo gấm đỏ, giống hệt đóa thược dược cao quý. Vương Nhược vận đồ hồng cánh sen như đào mận ngát hương, kiều diễm yểu điệu, tuy nhan sắc và khí chất đều không thể bì với hoàng hậu, song lại trẻ trung yêu kiều, khả ái hồn nhiên mà lãng mạn mê người.
Các thiếu nữ khác tuy không tệ, song so ra không thể bằng được hai tỷ muội họ. Giữa đám người, Hoàng Tử Hà chú ý đến một cô nương vận y phục lấm tấm hồng, gò má hơi cao, cặp mắt hạnh tuyệt đẹp, có điều cằm cứ hếch lên, vừa tỏ rõ khí chất xuất chúng vừa toát ra vẻ ngạo nghễ bẩm sinh. Hoàng Tử Hà nghĩ thầm, đây chắc là Kỳ Lạc quận chúa trăm phương nghìn kế muốn được gả cho Quỳ vương mà dân kinh thành vẫn đồn đại đây. Người cai quản việc trong cung hiện giờ là Triệu thái phi, nghe nói Kỳ Lạc quận chúa từng hối lộ cung nữ để mình được tới chép kinh giúp Triệu thái phi, hòng nài nỉ bà gả mình cho Quỳ vương gia, tiếc rằng ý định không thành.
Hoàng Tử Hà đang nghĩ vẩn vơ, chợt thấy Lý Thư Bạch vẫy tay ra hiệu cho một nữ quan lớn tuổi lại gần, trỏ Vương Nhược, “Là cô ấy.”
Hoàng Tử Hà không khỏi kinh ngạc, thế này chẳng phải quá nhanh ư, tuyển vương phi là việc lớn cả đời, sao y chỉ liếc mắt đã quyết định ngay vậy? Nhưng cô chỉ có thể nói, “Vương gia không cân nhắc thêm sao?”
Lý Thư Bạch bình thản đáp, “Chẳng qua chọn lấy một người giữa đám đông xa lạ để chung sống suốt đời thôi, cần gì cân nhắc?”
“Nhưng người con gái có thể được vương gia lựa chọn nhất định phải có điểm đặc biệt chứ.”
Y quay mặt sang nhìn cô, khóe môi hơi nhếch lên, tựa như đang cười, song ánh mắt không mảy may vui vẻ, chỉ lạnh nhạt nói, “Không sai, trong tất cả những kẻ dự tuyển, cô ta đẹp nhất.”
Hoàng Tử Hà sững người trước lý do không hề che đậy này, hồi lâu mới tiếp, “Có lẽ… vương gia nên thận trọng hơn?”
“Ngươi sai rồi, đây chính là lựa chọn thận trọng nhất đấy. Dù sao những thứ như gia thế và phẩm cách đức hạnh đều có người chọn hộ ta rồi, vậy thì ta chỉ cần chọn lấy người vừa mắt nhất là được, ngươi thấy sao?”
Đến nước này cô đành nói, “Chúc mừng vương gia tìm được duyên lành.”
Y chìa tay ra trước mặt cô, không nói nửa lời.
Trong thoáng chốc, Hoàng Tử Hà còn không hiểu y muốn gì, quay lại trông thấy Vương Nhược đã được các nữ quan dẫn đi vào trong, mới sực tỉnh.
Từ đại sảnh vọng vào những tiếng xôn xao, thì ra Kỳ Lạc quận chúa thấy Vương Nhược đứng dậy theo cung nữ vào nội điện, hiểu được sự lựa chọn của Quỳ vương, tức thì tay run bắn lên, làm đổ cả bát canh nóng vào người thiên kim của Lưu thái phó ngồi cạnh.
Kỳ Lạc quận chúa vội cầm khăn tay của mình lau cho Lưu cô nương, miệng rối rít, “Ôi chao, ta sơ ý…” Chưa dứt câu, khóe mắt đã đỏ lên không sao nói tiếp nổi, biết nước mắt sắp trào ra, cô liền cắn chặt môi quay đi, giật lấy chậu ngọc trong tay cung nữ đứng sau, vờ súc miệng, nuốt hết nước mắt vào trong.
Hoàng Tử Hà cũng chẳng rảnh mà quan sát cô ta nữa, vội vã mở hộp gấm trên tay, lấy cành mẫu đơn khởi lưu ly dâng lên Lý Thư Bạch.
Vương Nhược cúi mặt, hai má ửng hồng bước đến.
Nhìn gần mới thấy nàng chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xiêm y thêu đầy hoa hải đường, tấm lụa khoác vai vàng nhạt rợp hoa văn hình mây, đầu cài sáu hàng trâm vàng, bước chân ung dung yểu điệu, chuỗi ngọc trên người lấp lánh. Nhưng bấy nhiêu phục sức diễm lệ hoa mỹ lại càng làm nổi bật vẻ non nớt khờ khạo không hiểu việc đời của nàng.
Vương Nhược từng bước tiến lại, thẹn thùng cúi đầu, không dám nhìn ai.
Lý Thư Bạch đợi nàng tới trước mặt mới chìa đóa mẫu đơn ra, giọng điệu cuối cùng cũng nhuốm đôi phần êm ái, “Vương Nhược?”
Thiếu nữ chợt run bắn mình như bị sét đánh trúng, Hoàng Tử Hà thấy nàng nắm chặt tay lại rồi ngẩng đầu lên nhìn Lý Thư Bạch đầy vẻ kích động và sửng sốt. Đôi mắt mờ đi vì một làn hơi nước, dáng vẻ ngơ ngẩn, thân hình run run, tay túm chặt lấy tay áo, song không thốt nổi lời nào.
Hoàng Tử Hà liếc Lý Thư Bạch. Gác Bồng Lai xây trên đài cao, y đứng bên song cửa sổ nội điện, nắng bên ngoài rọi vào lồng bóng y sáng rỡ, chẳng khác nào thần thánh trên trời do lưu ly châu ngọc đắp nên. Đóa mẫu đơn nở bung, đỏ thắm trên tay, song không sao át nổi hào quang của y, trái lại càng làm tôn lên phong thái tao nhã và vẻ tuấn tú hào hoa.
Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, dù không khiến người ta vừa gặp đã yêu, nhưng trông y cũng làm gì đến nỗi dọa ai sợ phát khiếp đâu.
Lý Thư Bạch đương nhiên cũng nhận thấy phản ứng kỳ dị của Vương Nhược, y hơi cau mày.
Bấy giờ Vương Nhược mới ý thức được trạng thái khác thường của mình, vội giơ hai tay lên bịt chặt miệng, hoảng loạn lắp bắp, “Quỳ vương gia… đúng… đúng là vương gia thật.”
Lý Thư Bạch nhướng mày nín lặng.
“Thiếp… Thiếp không ngờ mình lại may mắn đến thế, nên, nên hôm nay mới thất lễ như vậy, mong vương gia bỏ quá cho…” Nàng ấp úng nói, thái độ cử chỉ đều cuống cả lên, ngẩng đầu thấy Lý Thư Bạch không phản ứng, tức thì nước mắt rân rấn, xem chừng sắp chảy dài đến nơi.
Lý Thư Bạch không lên tiếng, song vẻ mặt rõ ràng đã dịu hẳn đi, y trao đóa khởi lưu ly trong tay cho nàng, “Không sao, ta nghĩ hằng ngày nàng ở yên trong nhà, chắc không quen với tình huống này, là ta đường đột làm nàng giật mình.”
Vương Nhược nuốt nước mắt gật đầu mỉm cười, sửa lại vạt áo vái y một vái thật dài, đoạn đưa tay đón lấy cành khởi lưu ly ôm vào lòng, mặt đỏ ửng lên như đóa hải đường vừa hé.
“Ngươi thấy Vương Nhược thế nào?”
Ngồi trên xe ngựa quay về, Lý Thư Bạch hỏi.
Hoàng Tử Hà do dự một thoáng mới đáp, “Tôi chỉ là một tiểu hoạn quan trong vương phủ, không dám bình luận vương phi tương lai.”
Lý Thư Bạch phớt lờ, cầm chiếc bình lưu ly nhỏ lên, chăm chú nhìn con cá đỏ lượn lờ bên trong, chẳng buồn gặng hỏi thêm.
Hoàng Tử Hà đành trả lời, “Có vẻ có vấn đề.”
“Có vẻ ư?” Y gõ nhẹ ngón tay lên thành bình, giọng thản nhiên, “Khi chưa gặp ta, dáng vẻ ung dung thoải mái của cô ta rõ ràng xuất phát từ tận đáy lòng, đủ thấy cô ta vốn không hề để tâm có được ta chọn làm vương phi hay không.”
“Nhưng khi được nữ quan mời vào, trông thấy mặt vương gia, Vương Nhược lại thay đổi hoàn toàn, thái độ kinh ngạc và mừng rỡ kia có phần thái quá, không thật.”
“Ừm.” Lý Thư Bạch gật đầu, ánh mắt cuối cùng cũng rời con cá nhỏ, chuyển sang cô, “Còn nữa, khi rời khỏi gác Bồng Lai, hai bên có trao đổi canh thiếp(), ta liền phát hiện ra một điểm đáng lưu tâm.”
() Tấm thiệp ghi bát tự của một người, gồm giờ, ngày, tháng, năm sinh.
Nói đoạn y rút từ ngăn kéo tủ ra một mảnh giấy hồng đặt lên bàn, đẩy tới trước mặt cô.
Hoàng Tử Hà đón lấy, nhìn hàng chữ trên mặt giấy.
Tiểu nữ họ Vương ở Lang Gia thuộc chi thứ tư ngành thứ tên Vương Nhược, sinh vào giờ Mão hai khắc ngày tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười. Phụ thân Vương Trung, mẫu thân họ Khương, huynh trưởng Vương Gia, Vương Hứa, tiểu đệ Vương Phú.
Chỉ vỏn vẹn bấy nhiêu chữ. Hoàng Tử Hà đọc rồi thầm nhẩm tính, đoạn trình lại mảnh giấy cho y, “Canh thiếp này là giả.”
Y khẽ gật đầu, “Ngươi cũng nhận ra?”
“Vâng. Tháng Mười nhuận năm Đại Trung thứ mười chỉ có hai mươi chín ngày, không có ba mươi.”
Lý Thư Bạch nhếch mép, “Không sai.”
“Điểm này có thể tính ra được, đủ thấy kẻ giả mạo còn vụng.” Hoàng Tử Hà nói, đoạn xem lại tấm thiếp, “Chữ ‘nhuận’ hơi nhỏ, theo lệ viết canh thiếp, giữa tháng và năm phải cách ra, nhưng ở đây lại không có, rõ ràng về sau mới thêm chữ ‘nhuận’ vào, điểm này tôi cũng không rõ tại sao.”
“Vì tháng Mười là ngày giỗ mẹ ta, không tốt lành.” Y thản nhiên bổ sung.
Cô gật đầu. “Bởi thế, để tránh điểm đó, đành tạm thời sửa đi, hòng lọt qua vòng tuyển lựa.”
"Về tình về lý đều có thể chấp nhận được, song nếu xét theo trình tự thì có rất nhiều nghi vấn.” Y đặt ngón tay lên tấm thiếp, vẻ lạnh lùng, “Canh thiếp trước tiên phải đưa đến Thái Sử Lệnh tính toán so xét, nếu thấy ngày sinh là tháng Mười, nhất định sẽ tấu rằng bị trùng với ngày giỗ của mẫu phi ta, không thể dự tuyển, do vậy dù có kẻ giúp cô ta làm giả hẳn cũng không thể sửa quấy sửa quá, dẫn tới cái sai rành rành như thế. Nếu khi trình lên đã là tháng Mười nhuận, thì Thái Sử Lệnh trong quá trình cân nhắc ngày giờ sinh của các cô gái dự tuyển xem lành hay dữ, sẽ phát hiện ngay không có ngày đó, tấm thiếp này càng không thể xuất hiện trước mặt ta.”
“Bởi thế, có lẽ Vương Nhược thoạt đầu không hề nằm trong đám người dự tuyển, cũng không hề qua xét duyệt, song cuối cùng lại xuất hiện trước mặt vương gia.” Hoàng Tử Hà phán đoán, “Có lẽ vì cô ấy là tiểu muội trong họ của hoàng hậu, nên được ưu ái cho qua tất cả thủ tục phiền phức, thuận tiện đi thẳng vào vòng trong.”
“Cũng có thể. Có điều ta không lo về Vương Nhược, cô ta chỉ là một con cờ thôi. Điều ta để tâm là kẻ nào đã đưa Vương Nhược đến cho ta, sau lưng cô ta còn ẩn giấu điều gì.” Lý Thư Bạch trầm ngâm hồi lâu mới thong thả nói, “Có dây mơ rễ má gì đây, kỳ tuyển phi lần này hẳn là liên quan chặt chẽ đến lá bùa ta nhặt được năm xưa.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, hồi tưởng lại vẻ kinh hoàng của Vương Nhược khi gặp Lý Thư Bạch cùng nụ cười rưng rưng nước mắt trên gương mặt thẹn thùng. Cũng là nữ nhi, cô cảm thấy đó rõ ràng không phải tình cảm có thể thấy ở một quân cờ. Nhưng cụ thể là gì thì hiện giờ cô chưa xác định được.
Thấy cô trầm ngâm nghĩ ngợi, Lý Thư Bạch liền nói, “Việc ta lập phi khiến cục diện ngươi phải đối mặt trở nên phức tạp hơn nhiều rồi.”
“Nội tình các phức tạp sẽ càng để lộ nhiều sơ hở, giúp chúng ta nắm được càng nhiều manh mối, bởi thế phức tạp không phải chuyện xấu.” Hoàng Tử Hà đáp.
Lý Thư Bạch chăm chú nhìn Hoàng Tử Hà, thấy gương mặt cô trầm lặng mà bình tĩnh, không mảy may ngần ngại, đó là thái độ tự tin toát lên vì hiểu rõ năng lực bản thân, khiến người khác không thể nghi ngờ. Y cảm thấy một nơi nào đó trong lòng mình hơi xao động, bất giác không dám nhìn thẳng vào cô, đành quay sang vén rèm xe lên, nhìn ra phía sau như để che giấu.
Đợt tuyển phi đã kết thúc, các thiên kim tiểu thư ai về nhà nấy, hàng đoàn xe ngựa rời khỏi cung Đại Minh chạy thẳng về thành Trường An.
Cỏ hoang năm ngoái vẫn nhan nhản bên đường, cỏ non năm nay mới cao hai ba tấc, cả ngọn núi phủ một màu vàng úa, chỉ lơ thơ vài vệt xanh lục. Mỗi khi gió thổi, cứ một lớp úa vàng lại một lớp xanh non dập dờn biến ảo.
Phía sau xe họ chính là cỗ xe của nhà họ Vương, một lão bộc điều khiển hai con ngựa khỏe màu lông loang lổ, chạy khoan thai không nhanh không chậm.
Lý Thư Bạch buông rèm xuống, “Xe nhà họ Vương ở ngay phía sau đó.”
Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi đứng dậy mở cửa xe, “Đến giao lộ phía trước, tôi xin xuống trước.”
“Vội gì chứ, ta đâu hạn định thời gian cho ngươi.”
“Đương nhiên phải vội, tôi chỉ mong sớm về Thục được ngày nào hay ngày nấy!” Hoàng Tử Hà đáp. Đến giao lộ, nhân lúc xe ngựa chạy chậm lại để rẽ, cô nhảy xuống đường.
Qua tấm rèm, Lý Thư Bạch thấy cô lảo đảo một cái đã đứng vững lại ngay, bèn cúi đầu nhìn xuống con cá nhỏ trong tay mình.
Xe ngựa của Quỳ vương phủ chạy về phía phường Vĩnh Gia, còn Hoàng Tử Hà thì quay mình đi về phía phường An Hưng.
Quả nhiên, xe ngựa nhà họ Vương từ từ dừng lại cạnh cô, một phụ nữ trung niên vén rèm hỏi, “Chẳng phải tiểu công công hầu cận của Quỳ vương gia ư? Định đi đâu đây?”
Cô ngẩng lên cười với bà ta, “Cảm tạ bà quan tâm, tôi phải đến chợ Tây mua ít đồ.”
Người phụ nữ ngoảnh vào trong xe hỏi vài câu, đoạn cười bảo, “Chúng ta đến phường Quang Đức, ngay bên cạnh chợ Tây. Nếu tiểu công công không chê thì để chúng ta đưa một đoạn, chẳng hay ý công công thế nào?”
Hoàng Tử Hà vội thoái thác, “Không được, sao tôi dám ngồi cùng xe với quý nhân cơ chứ…”
“Ai da, về sau là người một nhà rồi, công công là hầu cận của vương gia, chúng ta còn nhiều cơ hội gặp nhau mà.” Nói đoạn, người phụ nữ cười híp cả mắt, vẻ thân thiện, chẳng đợi cô phân trần đã mở toang cửa ra mời cô.
Hoàng Tử Hà lên xe, quả nhiên thấy Vương Nhược đang ngồi bên trong, liền tham kiến vương phi rồi lại cảm ơn người phụ nữ kia. Bà ta tuổi ngoài bốn mươi song vẫn duyên dáng uyển chuyển, vài nếp nhăn nơi khóe mắt chỉ càng làm tăng thêm vẻ mặn mà, đủ thấy thời xuân sắc nhất định là một mỹ nhân.
Hoàng Tử Hà ngồi xuống chiếc ghế gần cửa xe, cúi đầu liếc Vương Nhược qua khóe mắt. Dáng ngồi của nàng vô cùng tao nhã, hai tay đan nhau đặt trên đùi trái, bàn tay mềm mại nhỏ nhắn hơi lộ ra dưới lớp lụa cánh sen, ngón tay nõn nà, móng tay hồng hồng giũa thành hình vòng cung hoàn mỹ.
Nhìn đôi bàn tay ấy, Hoàng Tử Hà nhớ lại hồi trước ở Thục, tuy là tiểu thư nhà sứ quân, song ngày ngày cô chỉ cùng Hoàng Ngạn và Vũ Tuyên ra ngoài cưỡi ngựa đi dạo, chơi mã cầu, thúc cúc còn giỏi hơn cả nam nhi, nào có bao giờ chăm chút đôi tay mình đến thế?
Đương lúc ngẩn ngơ, chợt nghe người phụ nữ kia hỏi, “Tiểu công công lúc nào cũng ở gần vương gia ư?”
Cô vội lắc đầu đáp, “Mới có mấy ngày thôi, trước đây là các thái giám khác phục dịch, chẳng may dạo này bọn họ đều sinh bệnh nên tạm thời điều tôi tới sai bảo dăm bữa.”
“Đó cũng là do tiểu công công làm việc cẩn thận nên mới được vương gia tín nhiệm.” Người phụ nữ cười, đoạn lại thăm dò, “Vậy chắc tiểu công công cũng nắm được giờ giấc sinh hoạt hằng ngày của vương gia?”
“Hằng ngày… tôi không rõ lắm.” Cô thành thật đáp, “Tôi vụng về, cũng không phải hầu hạ gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng theo gia ra ngoài thôi.”
“Vậy là cũng gần gũi lắm, nhất định phải nắm rõ rồi.” Bà ta cười tươi, “Tiểu công công, tiết lộ cho chúng ta biết với, Quỳ vương gia thích màu gì, thích ăn món gì, thị nữ kề cận tính tình ra sao?”
Hoàng Tử Hà chợt nhận ra mình đã rơi vào một tình cảnh xưa nay chưa từng có, rất khó ứng phó, “Quỳ vương gia… không thích ai lẽo đẽo theo bên cạnh, thường chỉ thích ở một mình, về phần thị nữ gì đó thì…”
“Nhũ mẫu!” Vương Nhược nhịn không nổi, đành buột miệng nhắc.
Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới nhận ra nàng đã sắp vùi hẳn đầu vào trong áo, má đỏ bừng như người say, kiều diễm quyến rũ khôn tả.
“Ai da, cô nương nhà ta thật là, rõ ràng đã có danh phận vương phi rồi, tìm hiểu trước về vương gia cũng là đương nhiên thôi mà, phải không?” Người phụ nữ vội ôm lấy vai Vương Nhược, cười nói.
Hoàng Tử Hà nhờ thế mới được thoát thân, vội an ủi, “Cô nương đừng lo! Quỳ vương rất dễ gần, huống hồ cô nương là thiên kim nhà họ Vương ở Lang Gia, dung mạo lại như hoa như ngọc thế này, gia đã chọn cô nương từ bấy nhiêu người, nhất định sẽ trân quý hơn báu vật, bạc đầu không chia lìa.”
Vương Nhược ngước lên nhìn cô, nói khẽ, “Đa tạ tiểu công công, mong rằng sẽ được như… lời chúc của công công.” Đoạn nàng nở một nụ cười gượng gạo, gương mặt lộ rõ vẻ sợ sệt, “Ta… Ta vừa gặp mặt vương gia đã chẳng biết phải làm gì nữa, đến bước chân cũng cứng đờ. Công công thấy đấy, gia trông bộ dạng đó nhất định sẽ cho rằng ta ngốc nghếch, càng như vậy ta càng căng thẳng, sợ gia không vừa ý, song lại không biết rốt cuộc mình nên làm gì, mồ hôi đổ ra ướt đẫm cả lưng…”
Hoàng Tử Hà thấy nàng càng nói càng hồi hộp, vội trấn an, “Đừng lo, vương gia không để bụng đâu, nhất định gia sẽ hiểu cho tiểu thư mà.”
Nhũ mẫu lập tức phụ họa, “Đúng thế, nâng khăn sửa túi cho Quỳ vương là giấc mộng của biết bao thiếu nữ kinh thành. Cô nương nhà chúng ta từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Quỳ vương, tâm trạng thấp thỏm hồi hộp này, hẳn tiểu công công cũng hiểu.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, “Vâng, ai biết quan sát đều nhận ra cả mà.”
Vương Nhược hít vào một hơi thật sâu rồi khẽ nói, “Đa tạ công công.”
Trừ câu đó ra, nàng không nói thêm một tiếng nào nữa.
Xe ngựa đến gần phường Quang Đức. Trước khi xuống Hoàng Tử Hà lại cảm tạ hai người kia thêm lần nữa.
Cách đó không xa là chợ Tây, cảm thấy về vương phủ ngay thì không ổn, cô bèn đi vào một tiệm bán canh trong góc chợ.
Không gian bên trong quán rất hẹp, ngồi cùng bàn với cô là một cặp mẹ con, bé gái chừng bảy tám tuổi, ngồi trên ghế chân còn chưa chạm đất. Người mẹ dùng đũa xắn sợi mì dài thành từng đoạn nhỏ, bón cho con ăn.
Hoàng Tử Hà trông mà ngẩn người. Thấy cô cứ nhìn chằm chặp, người mẹ ngượng nghịu cười nói, “Cháu còn bé, ăn sợi dài không tiện.”
“Ồ vâng, phải phải.” Hoàng Tử Hà đáp, khóe mắt chợt cay cay. Nhớ lại thuở mới lên mười, mẹ cũng xắn mì cho cô như thế, khiến cha ngồi đối diện phải lắc đầu, “Lớn chừng ấy rồi, nuông quá sinh hư, từng này tuổi còn phải mẹ bón cho.” Đại ca ngồi bên trái cô, vừa xì xụp ăn mì vừa giễu, “Lêu lêu, lớn chừng ấy còn phải bón, sau này nhớ tìm lang quân đảm đang để hắn thay mẹ hầu hạ cho nhé!”
Bấy giờ cô đã vùng vằng quăng đũa xuống chạy thẳng về phòng, giận dỗi không chịu ăn cơm. Nhưng chỉ lát sau, mẹ lại bưng cơm đến ngọt ngào dỗ cô ăn. Vừa ăn được mấy miếng, ngẩng lên thì thấy cha đứng xa xa ngoài cửa sổ nhìn về phía mình. Bắt gặp ánh mắt cô, ông bèn giả vờ chỉ đi ngang qua, thong dong thả bộ trên con đường nhỏ rải sỏi ở vườn sau mất hút.
Bao chuyện vụt vặt tầm thường ngày ấy, giờ hồi tưởng lại như hiển hiện trước mắt, thậm chí những hòn sỏi dưới chân cha xếp thành hình dạng gì, bóng cây ngoài song hắt lên tay mẹ thế nào, đều hiện lên rành rành, trông rõ mồn một.
Bất giác chạnh lòng hồi tưởng lại khiến những ưu sầu và phẫn hận trong cô bị khuấy động, đan dệt vào nhau. Cuối cùng Hoàng Tử Hà phải cắn chặt môi, run rẩy nín thở, mới ngăn được nỗi bi phẫn và nước mắt đồng loạt trào lên. Cô nuốt lại tất cả, chôn vùi thật sâu trong mạch máu.
Cha, mẹ, đại ca…
Cô rưng rưng ăn từng chút mì một, nuốt xuống bụng cùng nước mắt.
Tất cả oan khuất và huyết lệ bây giờ, sẽ có một ngày cô trở về Thục, đích thân đòi lại.