Năm năm sau, Đỗ Trường Phong lấy lí do chữa bệnh để sang Nhật du học, sau khi tốt nghiệp Lâm Sỹ Diên lại đón anh trở về, tuyên bố với mọi người rằng bệnh của anh đã được chữa khỏi, không phải ở trong Nhị Viện nữa. Điều đó đồng nghĩa Đỗ Trường Phong được “tự do”. Nhưng rất kì lạ là, anh chưa bao giờ cảm thấy mình thực sự được tự do, anh có thể đi bất cứ nơi nào trên thế giới nhưng cho dù đi đến nơi đâu lòng anh trước sau vẫn không tài nào thoát khỏi được cái bóng của Nhị Viện.
Dạo chơi bay nhảy suốt một thời gian bên ngoài, dần dần anh chẳng còn hứng thú gì nữa, sau cái ồn ào náo nhiệt anh lại chọn về với sự bình yên. Anh vẫn chuyển về Nhị Viện, sống cuộc sống nửa ẩn cư. Đương nhiên, anh không trực tiếp sống trong Nhị Viện mà mua lại ngôi nhà trong Nhị Viện trước kia anh ở, xây lại thành một sơn trang, cách ly với Nhị Viện bằng cái hồ nhân tạo ấy.
Từ khía cạnh này có thể thấy, tinh thần anh vẫn loanh quanh bên Nhị Viện. Anh cũng không biết tại sao mình lại không nỡ chuyển đi khỏi nơi đó, theo lý mà nói thì đáng lẽ anh sẽ phải cao chạy xa bay mới đúng. Có lẽ vì trước sau tinh thần anh vẫn chưa được giải thoát thực sự nên cho dù có chạy đến đâu cũng vẫn giống như đang bị cầm tù, mà Nhị Viện thì chứa đựng quá nhiều tâm huyết của anh, cũng lưu giữ rất nhiều hồi ức về tuổi thanh xuân xưa của anh.
Nhị Viện nghiễm nhiên đã là một cái “tổ” của Đỗ Trường Phong.
Trải qua mười năm xây đi sửa lại, Ngọa hổ sơn trang giờ đã trở thành một khuôn viên gồm cả sân và nhà rộng rãi, độc lập, khác biệt với viện xá kiểu Tây khác trong Nhị Viện. Đỗ Trường Phong thích phong cách kiến trúc Trung Quốc, hai bên nhà, mỗi bên anh xây một dãy lầu nhỏ kiểu Trung Hoa gạch xanh ngói xanh, một bên đặt là Sơn Hải Cư, một bên thì đặt là Hải Đường Xá, mỗi bên đều có hành lang và cầu với những rương cột trạm trổ công phu bắc nối liền hai dãy lầu với nhau, quay thành một khuôn viên rộng lớn. Phía sau khuôn viên đó là rừng trúc rậm rạp với diện tích rất rộng, nối liền với rừng phong bên ngoài Nhị Viện, cảnh tượng hùng vĩ đẹp đẽ. Sao lại trồng trúc? Bởi vì Đỗ Trường Phong thích nghe tiếng lá trúc xào xạc bay mỗi khi gió thổi tới, âm thanh ấy thật đặc biệt, nó khác với âm thanh của những loài cây khác phát ra, thoạt đầu mới chỉ là tiếng xào xạc nhè nhẹ, rồi sau đó theo làn gió lướt qua, gió thổi đến đâu cả một vùng lá xào xạc đến đấy, thế rồi cả rừng trúc chìm vào một biển âm thanh xào xạc, lúc trầm lúc bổng, rất có giai điệu, vì thế mà nó mang lại cho anh rất nhiều cảm hứng sáng tác. Một đạo diễn người gốc Hoa nào đó của Hollywood đã từng quay một bộ phim võ hiệp đạt giải Oscar, trong đó có cảnh quay một trận quyết đấu trong rừng trúc kinh điển, một người bạn nước ngoài của Đỗ Trường Phong nhìn thấy cảnh đó trong phim đã kinh ngạc thốt lên, đây chẳng phải khu vườn sau nhà Sam hay sao?
Lần đầu tiên đến đây, Vi Minh Luân đã ngưỡng mộ vô cùng, có nói đây là chốn bồng lai tiên cảnh cũng chẳng ngoa, còn nói cái ông đạo diễn Lý gì gì đó phải trả tiền bản quyền cho Đỗ Trường Phong, rõ ràng là “đạo” y nguyên bản mẫu rừng trúc trên núi sau nhà anh. Đương nhiên, đây chỉ là những lời nói đùa mà thôi. Khi đó hai người vừa đi du học ở Nhật trở về, Đỗ Trường Phong đưa anh đến Nhị Viện chơi, đi đến đâu miệng anh bô bô đến đấy, ngay cả cái từ “Baka Aho” (tiếng Nhật nghĩa là thằng khốn, thằng điên) cũng buột mồm phun ra, ý là Đỗ Trường Phong dựa vào cái gì mà được sống ở một nơi tuyệt vời như thế này chứ!
“Nếu là ở xã hội cũ thì có thể nuôi thêm rất nhiều vợ bé nữa.” Đây là điều đầu tiên Vi Minh Luân nghĩ đến.
Lúc đó, Đỗ Trường Phong gật đầu, vẻ rất thản nhiên: “Ý kiến không tồi đấy chứ?” Rồi lại phá lên cười ha hả. Sau khi được Vi Minh Luân góp ý, Đỗ Trường Phong đặt cho khuôn viên của mình một cái tên rất chi võ hiệp “Ngọa hổ sơn trang”, ý nghĩa rất rõ ràng, trong sơn trang này có một con “hổ”, tốt nhất là đừng có động vào nó, không thì một khi nó mà nổi cơn thịnh nộ thì không đơn giản chỉ là ăn thịt người thôi. Lần nào giới thiệu với mọi người về cái sơn trang này Vi Minh Luân cũng đều nói như vậy, sau lại còn thêm một câu đầy ẩn ý, “Là một con hổ đực đấy!”
Ai đến thăm nghe chuyện đó cũng phải phá lên cười.
Thế là kiểu gì cũng có người trêu Đỗ Trường Phong: “Sam, bao giờ thì cái sơn trang này của cậu mới nuôi thêm một con hổ cái nữa thế hả?”
Đỗ Trường Phong trả lời: “Hổ cái thì phải nuôi bên ngoài chứ, không đem về được, một núi thì làm sao có hai hổ được?”
Câu đấy thì đúng là đùa cho vui thật, nhưng chính xác là Đỗ Trường Phong không bao giờ đem phụ nữ vào sơn trang, muốn phong lưu thì ra ngoài mà phong lưu, anh cũng không thích bạn bè đem bạn gái đến nơi này, anh nói sơn trang này là nơi dành cho đàn ông, phụ nữ mà đến thì chỉ sợ không có đường sống mà về nữa. Sau anh còn bổ sung thêm một câu: “Nhưng nếu có kẻ chủ động dâng người đến miệng cọp thì tại hạ đây quyết không chối từ.”
Từ đó “Ngọa hổ sơn trang” nổi danh khắp nơi.
Mấy năm gần đây, Đỗ Trường Phong chẳng chịu ra ngoài mấy, mỗi lần hội họp gì với bạn bè anh đều mời họ đến chỗ mình, gọi bạn gọi bè đến tụ tập uống rượu, đến giờ nghỉ của bệnh viện muốn tiễn khách cũng không khó. Mà những người đến sơn trang thì đa phần đều là những người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ, trông Đỗ Trường Phong có vẻ giao du rộng rãi với nhiều người nhưng thực ra lại rất kén chọn, không phải ai cũng làm bạn được với anh. Lại thêm phần tính tình anh cổ quái, chẳng giống ai, có lúc thậm chí còn ngạo mạn vô lễ, người bình thường chắc không ai chịu nổi. Nếu không hợp nhau thì Đỗ Trường Phong sẽ chẳng bao giờ mời người ta đến sơn trang, nếu là do bạn anh dẫn đến, lần đầu không hợp thì đừng nghĩ đến chuyện tới đây lần thứ hai. Vậy nên những người hay lưu lại nơi đây cũng chỉ loanh quanh có vài người, Vi Minh Luân thì gần như một nửa thời gian của anh là ở đây, hễ Đỗ Trường Phong ở trong sơn trang là sẽ không bao giờ cho anh cơ hội sống cô đơn một mình, những năm qua hai người cứ sống bên nhau suốt. Đỗ Trường Phong rất thích bạn bè đến “quấy nhiễu”, vì điều đó sẽ khiến anh quên mất nơi đây là nơi có liên quan đến những kẻ điên, anh sẽ quên mất mình cũng là một “thằng điên”, anh sợ phải yên tĩnh một mình, hễ tĩnh lại là anh lại nghĩ ngợi lung tung.
Tất cả về quá khứ, về tương lai, anh đều không muốn nghĩ ngợi gì hết cả. Chỉ một chút, một chút thôi cũng không muốn.
Về chuyện hủy bỏ buổi biểu diễn, Vi Minh Luân rất tức giận, vì có gọi điện tới thì anh chủ động tắt máy. Hết cách, Vi Minh Luân đành núp bóng nhờ Thư Mạn đến, lại điện đến sơn trang trước cho ông Lương, “Nhờ chú nói với cậu ấy rằng, có một cô gái tướng mạo xinh như hoa muốn đến thăm cậu ấy, hỏi cậu ấy có gặp hay không?”
Ông Lương tuy đã nghỉ hưu ở Nhị Viện nhưng Đỗ Trường Phong rất quý ông, lại mời ông về sơn trang làm quản gia, trong sơn trang, ngoài ông Lương ra thì chỉ có bà La là những người làm những việc vặt trong nhà, tính tình phong thái rất thanh tịnh. Ông Lương đã thân quen với Vi Minh Luân, nghe nói có phụ nữ đến sơn trang thăm Đỗ Trường Phong liền cười phá lên trong điện thoại: “Chắc chắn là không gặp rồi, cháu cũng không phải là không biết Kỳ Kỳ vốn không thích đàn bà con gái đến sơn trang rồi, đúng không?”
Vi Minh Luân như đã dự tính trước, liền đáp: “Nhưng đây không phải là một phụ nữ bình thường, mà là người tình trong mộng của cậu ta.”
“Có là phụ nữ gì thì nó cũng không gặp đâu, trong lòng nó chỉ có mỗi con ngỗng mái nuôi từ mười mấy năm trước thôi.”
“Chú ơi là chú, là thiên nga đấy chú ạ, cái gì mà lại là ngỗng mái…” Vi Minh Luân đến phải dở khóc dở cười: “Nhưng chú cứ nói đúng như thế này là được, người đến sơn trang chính là con thiên nga trong lòng cậu ta, tên là Thư Mạn, chú cứ nói thế là được.”
Ông Lương truyền đạt lại y lời Vi Minh Luân lại cho Đỗ Trường Phong, lúc đó anh đang vẽ tranh trong thư phòng, vừa mới nghe thấy cái tên Thư Mạn liền lập tức gác bút xuống, gửi tin nhắn cho Vi Minh Luân: “Anh đảm bảo là cô ấy còn đường sống mà về sao?”
Vi Minh Luân vừa cười ha hả vừa nhắn tin trả lời: “Tôi sẽ dặn chú Lương phải cho cậu ăn no trước đã, rồi mới đem cô ấy đến.”
“Thế thì cứ đến đi.” Đỗ Trường Phong cụt lủn nhắn lại.
Thế là Vi Minh Luân đưa Thư Mạn đến Ngọa hổ sơn trang, đương nhiên, Thư Mạn chẳng biết gì về những tin nhắn riêng tư giữa anh và Đỗ Trường Phong cả, “Cuối cùng thì cô ấy cũng đã đến…” Đỗ Trường Phong thở dài, gần như không ngủ được. Anh mong được gặp cô, lại sợ gặp cô. Đối mặt với cô, anh luôn cảm giác mình thật bất lực.
Thư Mạn đến vào lúc chập tối, bữa tối khá đơn giản, ăn xong Đỗ Trường Phong nói cô đến thư phòng bên Sơn Hải Cư nói chuyện, Ngọa hổ sơn trang vào mùa đông có vẻ rất yên tĩnh vắng vẻ, có thể nghe rõ tiếng xào xạc lên bổng xuống trầm trong rừng trúc sau nhà. Chập tối, khi cô vừa đến đây thì có mưa nhỏ, tiếng mưa, tiếng gió hòa với tiếng xào xạc trong rừng trúc buổi chập tối vắng lặng nghe thật thi vị. Dự báo thời tiết nói tối nay có thuyết rơi, chẳng biết có phải thật hay không.
Mặc dù bên ngoài gió lạnh cắt da cắt thịt nhưng trong phòng bật máy sưởi nên lại rất ấm như đang giữa mùa xuân, xung quanh bốn bức tường có ba bức kê giá sách, gỗ lê vàng màu sậm trông rất có phong cách và thư thái. Thư Mạn nhận ra loại gỗ đó, rất hiếm và đắt đỏ, giá sách của bố cô cũng được làm bằng chính loại gỗ lê vàng này. Khắp phòng toàn mùi mực giấy. Trên song cửa sổ có điêu khắc hoa văn lại dán bức tranh giấy cắt hình hoa mai, giữa phòng bày một bộ sô pha bằng gỗ đàn hương, dáng ngồi mềm mại thoải mái, trên bàn uống trà còn đặt một cốc trà xanh đang bốc hơi nóng, hương trà hòa quyện vào cùng với mùi mực tàu khiến Thư Mạn đang mệt vì đường xa bỗng nhiên thấy dễ chịu hơn hẳn.
Thế rồi, hai tiếng đồng hồ trôi qua, Đỗ Trường Phong cũng đã chẳng có ý muốn “nói chuyện”, chỉ lo đứng trước cửa sổ đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, không biết là anh đang suy nghĩ điều gì.
“Trà nguội cả rồi này.” Thư Mạn phá vỡ bầu không khí yên lặng, nhắc nhở anh, rằng cô ngồi khô cả họng lâu lắm rồi.
“Nguội rồi thì tự đi mà rót thêm vào, trong ấm có nước sôi đấy.” Đỗ Trường Phong nói với cái vẻ chẳng thèm bận tâm. Anh mặc chiếc áo ngủ dài vải nhung màu xanh lam, ngồi xuống đối diện với Thư Mạn, bộ dạng lười nhác nhưng cũng rất ngang tàng. Thư Mạn rất ít khi nhìn thấy ai mặc áo ngủ mà trông cũng phong độ tự nhiên như vậy.
“Tôi nói rõ với cô trước, cô đến chơi cũng được, nhưng nếu muốn nhắc đến buổi biểu diễn thì cô nên đi khỏi đây thì hơn, đừng nên ở lại làm gì dù chỉ một phút…” Thư Mạn không nói gì, anh đã rào trước phủ đầu rồi, đó là tác phong xưa nay của anh. Lần trước trong chung cư Hải Đường Hiểu Nguyệt anh cũng vậy, cũng ra chiêu này với cô, khiến người ta trở tay không kịp. Thư Mạn đang trợn tròn mắt nghĩ xem nên phản kích thế nào thì anh lại bàn, tay cầm con dao cạo râu tự động rà rà cạo râu, mắt chẳng thèm nhìn cô một cái, “Chuyện gì mà tôi đã quyết định rồi thì sẽ không bao giờ thay đổi đâu, cô đi đi.”
Vốn dĩ cách nhìn của Thư Mạn về anh đã có chút thay đổi tốt, nhưng không ngờ anh lại không biết tốt xấu đến như vậy, cô chỉ hận một nỗi không thể cầm cốc trà lên hất thẳng vào mặt anh.
Lúc này, anh đã cạo râu xong, cố ý để chân lên bàn uống trà, chiếc dép lê mặt gấm dài ngoe nguẩy như trêu ngươi Thư Mạn, thật huênh hoang vô đối. Thư Mạn biết là anh cố ý làm thế để khiêu khích sự nhẫn nại của cô nhưng cô cũng không đủ nhẫn nại để phí thời gian với anh, cô nhìn thẳng vào anh, cất tiếng nói nhỏ như tiếng muỗi vo ve: “Vi Minh Luân có nói với anh không?”
“Nói gì?”
“Có lẽ, tôi chẳng sống được bao lâu nữa.”
“…”
“Có khi ngay cả mùa xuân năm sau như thế nào tôi cũng chẳng còn được thấy nữa.” Thư Mạn thất thần nhìn giá sách trên tường phía sau lưng anh, hơi bặm môi, cố gắng giữ sao cho tiếng nói mình thoát ra được nhẹ nhàng bình tĩnh, “Tôi biết, người như tôi thì chả có tư cách gì đòi có được sự đồng cảm từ ai cả, nhưng trong lòng lại không thể nói là không có gì tiếc nuối. Ban đầu, Vi Minh Luân khuyên tôi lên sân khấu biểu diễn tôi đã từ chối, nhưng sau khi tôi biết được ngày chết của mình không xa nữa trong ánh mắt của bác sĩ, tôi lại điên cuồng muốn được biểu diễn. Cuộc đời này chẳng còn cơ hội nào như thế nữa, tôi muốn có một màn kết hoàn hảo cho cuộc đời mình, tiễn đưa bản thân mình trong âm nhạc…”
“…”
“Tôi không thể cầu xin ai khác, chỉ có thể cầu xin anh, hãy cho tôi cơ hội này, để tôi chết trên sân khấu cũng được, cho dù tôi không có tư cách được chọn cách thức chết của mình, nhưng tôi vẫn hi vọng anh có thể cho tôi…”
“Câm miệng lại!”
Cuối cùng thì anh đã ngắt lời Thư Mạn, đôi lông mày cau có, môi mím chặt, ánh mắt như hai lưỡi dao sắc lạnh đến lóa mắt, cứ như thế nó vừa được rút ra từ trong thân thể anh, sau đó đâm vào cô vậy, như thể muốn cô đi đến chỗ chết, “Tôi sẽ không bao giờ cho phép cô chết trước mặt tôi, để tôi phải tưởng nhớ cô cả đời được! Tôi sẽ không bao giờ cho cô có được cơ hội ấy!” Anh bỗng nhiên gào lên, những sợ đinh râu trên cái cằm vừa cạo xong bỗng nổi hết cả lên, như thể sẽ đâm toạc lớp da mà nhô lên bất cứ lúc nào.
“Nhưng anh không phải là Thượng đế, anh không thể thao túng mạng sống của tôi được!” Thư Mạn cũng gào lên.
“Tôi chính là Thượng đế, là Thượng đế của một mình cô!” Anh cũng gào lên, đôi lông mày rậm cau lại, nếu không phải là người hiểu anh thì chắc sẽ chết khiếp vì cái bộ dạng này của anh. Nhưng Thư Mạn biết cái tính xấu này của anh, cũng không thể găng với anh lúc này được, chỉ có thể nói với cái giọng đau thương buồn bã: “Được, nếu anh là Thượng đế của tôi, vậy anh hãy nói cho tôi biết, đã đến nước này rồi thì tôi phải làm thế nào? Biết rõ ngày tháng của mình chẳng còn dài nữa, nhưng lại không muốn chết một cách yên lặng như thế này. Tôi không phải là Trương Ái Linh, bà ấy cả đời huy hoàng, cả đời làm nên truyền kỳ nên mới có thể chết một cách yên tĩnh trong phòng ngủ của mình. Còn tôi, cuộc đời mà trước kia tôi đã từng trải qua ấy, cũng đã đủ hồ đồ lắm rồi, sao đến khi chết, ngay cả tâm nguyện cuối cũng cũng không thể thực hiện chứ?”
“Cô đừng có giở cái bộ mặt đáng thương ấy ra với tôi, muốn tôi đồng cảm với cô chắc? Không có đâu!” Anh lập tức xuyên thấu tâm tư cô, khuôn mặt sắc nhọn như dao, đường nét cứng rắn, không có một chút gì có vẻ nhượng bộ, “Tôi còn đang muốn hỏi cô đây, tôi đã đi đến bước đường này rồi, tôi nên làm thế nào? Tội lỗi mình gây ra không thể sửa chữa được, mầm tại họa gieo xuống mà không thể nào nhổ lên được, đối mặt với kẻ đã ngấm ngầm theo dõi mình suốt hơn mười năm trời, cô nghĩ rằng anh ta sẽ buông tha cho tôi sao? Đúng, tôi chính là tội phạm giết người, nhưng tôi cũng là một nhạc sĩ, tôi không thể tập trung chơi đàn trước con mắt dò xét không có gì là thiện cảm của anh ta…”
“Những điều đó chẳng quan trọng, quan trọng là anh nhìn nhận bản thân mình như thế nào, không đúng sao? Cũng giống như bản thân anh vừa nói đấy, anh là một nhạc sĩ, đúng vậy, nhưng phải làm như thế nào mới chứng minh bản thân mình là một nhạc sĩ chứ? Chẳng lẽ chỉ là ra một vài đĩa nhạc, cả đời trốn thui trốn lủi trong một góc không dám lộ diện? Anh trốn ở đây thì có thể chứng minh được gì chứ? Điều đó chỉ khiến người ta nhìn thấy sự yếu đuối và hèn nhát của anh thôi…”
Mặt anh sầm xuống, khuôn mặt gằn lên những góc cạnh, môi mím chặt giận dữ: “Cô cho rằng tôi hèn nhát?”
Thực ra trong lòng Thư Mạn sợ chết khiếp đi, nhưng vẫn cố nói ngang: “Chẳng lẽ… không đúng vậy sao?”
Câu nói ấy của cô thật chẳng khác nào dùng tay chọc vào tổ ong vò vẽ, anh dậm chân, cốc trà trên bàn trong giây phút bay tít ra đằng xa, vỡ vụn, “Cô muốn chết lắm có phải không? Bây giờ cô muốn chết có phải không?” Anh nhảy dựng lên, tóm tay Thư Mạn lôi ra ngoài cửa sổ, “Cô nhìn đi, cô ra mà nhìn đi, nhìn xem những năm qua tôi đã phải sống như thế nào! Sống không bằng chết, nhưng tôi vẫn sống đấy, cô có tư cách gì mà nói tôi hèn nhát, yếu đuối? Cuộc sống địa ngục mịt mù tăm tối bao năm qua tôi đã phải trải qua ấy, cô biết gì mà lại dám lớn tiếng nhìn nhận về con người tôi như vậy sao?”
Anh đẩy cửa sổ ra, túm cổ áo Thư Mạn dí ra ngoài bệ , tay chỉ những người điên bên kia hồ rồi gào lên: “Cô đã nhìn thấy chưa, tôi đã từng bị nhốt trong phòng giống như những người điên kia đấy, nhốt năm năm liền đây! Sống không được, chết cũng không xong, rốt cuộc là vì cái gì kia chứ? Chính là để đợi anh ta đến, tôi biết nhất định anh ta sẽ đến, tôi ở đây đợi anh ta, cô nói xem điều đó cần dũng khí lớn đến thế nào, hả? Nếu tôi không đủ kiên cường thì đã trốn đi thật xa thật xa, hoặc biến thành một thằng điên thực sự từ lâu rồi!... Vậy mà cô lại còn nói tôi yếu đuối, tôi hèn nhát sao?”
Anh thở mạnh một cái, buông tay ra khỏi Thư Mạn, cúi bò cả người lên bệ cửa sổ, giọng nói bỗng khàn đục trầm hẳn xuống: “Nhưng cô không hiểu, từ đầu đến cuối cô vẫn không hiểu, tôi bắt mình phải kiên cường đối mặt với tất cả những điều này, cũng chỉ là để có một ngày… một ngày em có thể nhớ đến… hoặc có thể thật ra trong mắt em tôi chẳng là một thằng khốn nạn nào cả… nhưng em lại chỉ nhớ đến Lâm Nhiên. Em coi tôi là thằng khốn, em mắng tôi là thằng khốn bao nhiêu năm nay, nhưng lại quên mất một lần quan trọng nhất ấy. Tôi khổ sở chịu đựng suốt mười mấy năm qua cho đến ngày hôm nay, nhưng em không những không cho tôi một lời giải thích, mà lại còn xem tôi như một kẻ hèn nhát yếu đuối. Đúng là tôi đã từng chạy trốn trước mặt em, nhưng điều đó không có nghĩa tôi là một kẻ hèn nhát… Em không nhớ thì thôi, nhưng ít nhất cũng nên cho tôi một lời giải thích chứ, ít nhất là không được chết trước mặt tôi.”
Nói đoạn Đỗ Trường Phong lại nắm tay Thư Mạn, nắm rất chặt, một giọt nước mắt lớn trào ra từ khóe mắt rơi xuống mu bàn tay Thư Mạn. Anh ngước mắt lên nhìn cô, khóe miệng cũng nhếch lên, dường như muốn cười, nhưng lại như thể bị động đến vết thương cũ, đau đớn đến độ khắp mình run rẩy. Dù anh đau đớn là thế, nhưng vẫn siết chặt tay Thư Mạn, như thể sẽ không bao giờ buông ra được, anh nhỏ nhẹ gọi tên cô: “Thư Mạn, thế nào thì em cũng phải cho tôi một lời giải thích…”
Một buổi chiều mười ba năm về trước.
Đỗ Trường Phong không thể không khâm phục Lâm Sỹ Diên, chẳng biết ông làm thế nào mà kiếm được hai con thiên nga về cho anh thật. Toàn thân lông trắng muốt không tì vết, thuần khiết như thể nó là đồ vật của trời vậy.
Hai con thiên nga lập tức được thả nuôi trong hồ nhân tạo. Quả đúng là một cảnh đẹp hiếm thấy, trên mặt hồ xanh ngọc trông vắt, hai con thiên nga vươn dài cái cổ trắng muốt nho nhã bơi đi bơi lại trên hồ, bóng của chúng phản chiếu dưới mặt hồ lại được đám cỏ ven hồ làm nền càng làm cho cảnh họ đẹp như tranh vẽ. Đỗ Trường Phong ngắm đến ngẩn cả người. Ông Lương nhân cơ hội đó nói với anh, Viện trưởng Lâm đã phải nhờ người đi tận Cam Túc chọn từ hàng ngàn hàng vạn con mới chọn được cặp thiên nga này, giống tốt, khả năng thích nghi cao, lại là một đôi trống mái, nói không chừng năm sau lại có thể có thêm một con thiên nga con nữa.
“Đôi trống mái?” Đỗ Trường Phong nhướn mày ra vẻ ngạc nhiên rồi sau cũng gật đầu lia lịa, “Tốt lắm, tốt lắm.” Ngưng lại chốc lát, rồi lại hào hứng nói, “Sau này gọi cái hồ này là hồ Thiên nga đi, đừng gọi là hồ nhân tạo, khó nghe chết đi được. Còn về hai con thiên nga này thì cũng phải có tên mới được, ông Lương, nói xem nên đặt tên cho chúng là gì?”
“Cái này, tôi làm sao biết được…” Ông Lương vò đầu khó xử, Đỗ Trường Phong đứng lặng người nhìn hai con thiên nga, bỗng hỏi: “Con nào là con trống?”
“Chính là con ấy…” Ông Lương chỉ con có cái đầu hơi to hơn một chút, nói, “Chính là cái con mà đầu hơi nhô nhô một chút ấy.”
Một cơn gió thổi đến.
Trong mắt Đỗ Trường Phong lóe lên một tia sáng ươn ướt.
“Gọi nó là Diệp Quán Thanh đi.” Anh nghẹn ngào nói, “Gọi nó là Diệp Quán Thanh…”
Ông Lương há hốc miệng, thẫn thờ hồi lâu không biết làm sao.
Đỗ Trường Phong lại quay lưng đi khỏi, chầm chậm bước lên lầu.
Bốn năm rồi, khi đó anh đã ở trong cái bệnh viện tâm thần này được bốn năm, mà cái người đã khuất rồi ấy, cái người mà nghĩ lại chắc giờ cỏ dại trên mộ đã mọc cao lắm rồi, mộ nằm trong nghĩa trang ngay bên cạnh Nhị Viện, Đỗ Trường Phong chưa đến thăm dù chỉ một lần. Lâm Nhiên nói, từ sau khi tòa án tuyên án, Diệp Quán Ngữ, anh trai của Diệp Quán Thanh đã chuyển đến ở Đồng Thành, không lâu sau mẹ anh ấy cũng qua đời, nhà họ Diệp lụi tàn từ đó.
“Mọi chuyện sẽ không qua đi như thế thôi đâu.” Hơn một lần Đỗ Trường Phong nói câu đó với Lâm Nhiên.
Làm sao mà có thể qua đi như thế được? Bốn năm qua, có ngày nào mà con người đó biến mất trong lòng anh đâu? Quảng thời gian bốn năm vẫn không thể nào khiến anh học được cách đối mặt, anh chưa bao giờ dám đến thăm ngôi mộ đó, mỗi lần đi đến lưng chừng núi anh đều dừng lại, không dám tiếp tục bước, dù chỉ một bước. Tiết thanh minh năm nào cũng đều là Lâm Nhiên thay mặt nhà họ Lâm đi tảo mộ.
Nhưng trốn tránh tuyệt đối không phải vì anh muốn thế, bởi anh luôn nhắc nhở bản thân mình, nhất định phải đối mặt. Gọi con thiên nga đó là “Diệp Quán Thanh” có lẽ là bước chân đầu tiên mà anh muốn tiến.
“Kỳ Kỳ, bố cháu về rồi đấy, lần này về định cư hẳn, cháu không về thăm bố sao?” Ông Lương ở tầng dưới gọi với lên.
“Ngày mai nhà cháu tổ chức tiệc tối, họ hàng nhà cháu đều sẽ đến cả, cháu cũng về đi chứ…”
Đỗ Trường Phong vờ như không nghe thấy, anh đang nghĩ nên đặt cho con thiên nga mái kia tên gì, nghĩ cả ngày rồi mà vẫn chưa ra được cái tên nào hợp lí.
Chiều hôm sau, anh ra hồ ngắm thiên nga sau khi đã tra cứu tài liệu, “Diệp Quán Thanh” thuộc loài thiên nga họ Jankowski, , mỏ vàng đen, thân hình đẹp, lúc muốn bay lên cổ nó vươn dài ra phía trước, chầm chậm vỗ đôi cánh, nó chạy một đoạn trên mặt nước hoặc trên mặt đất rồi mới bay vút lên không trung. Con thiên nga mái thì rõ ràng yên tĩnh hơn “Diệp Quán Thanh” nhiều, chẳng mấy khi bay, lúc bơi hay đứng một chỗ, nó thích để một chân ra đằng sau, hoặc cắm đầu xuống chỗ nước nông tìm ăn thực vật thủy sinh, cái bộ dạng tham ăn của nó khiên Đỗ Trường Phong không nhịn được cười.
“Diệp Quán Thanh” bay mệt rồi thì cuối cùng cũng dừng lại, nó bơi qua bơi lại trước mặt anh rồi vươn cao cái cổ lên, chẳng thèm liếc anh lấy một cái rồi lại từ từ bơi đến bên cạnh con thiên nga mái, lúc thì chạm mỏ nhau, lúc thì cụng đầu nhau, thân mật vô cùng. Đỗ Trường Phong thở dài: “Diệp Quán Thanh”, sao anh không lại đây? Bơi gần lại đây một chút, để tôi được ôm anh, hay xoa xoa cái cổ của anh cũng được… Tôi biết, anh còn hận tôi, nhưng anh cũng nhìn thấy rồi đấy, cảnh ngộ của tôi cũng chẳng tốt đẹp gì hơn anh, bị nhốt ở đây với một lũ người điên, chẳng biết sẽ bị nhốt đến bao giờ nữa…”
“Anh nhìn anh mà xem, bây giờ anh vui vẻ biết bao, làm thiên nga cũng tuyệt vời đấy chứ, có thể bay, thật tốt biết bao… Tôi cũng muốn bay, bay đi thật xa khỏi chốn này, cho dù có bị súng thợ săn bắn chết cũng còn hơn bị nhốt ở đây, sống không bằng chết thế này. Không phải là tôi chưa từng nghĩ đến việc đi tự thú, nhưng như thế sẽ liên lụy đến rất nhiều người, rất rất nhiều người, bao gồm cả bố và anh trai tôi… Tôi không phải là người ích kỉ, xưa nay đều không phải, trước kia họ đã vì tôi mà sống, bây giờ đến lượt tôi phải vì họ mà sống, tôi nợ họ, cũng chỉ có thể dùng cách này để trả nợ thôi.”
“Tôi lại càng nợ họ Diệp các anh, rất nhiều lần rồi tôi muốn trốn đi thật xa, thật xa, nhưng giữa đường lại quay trở lại, vì tôi còn phải đợi anh trai anh đến, nếu tôi chạy thật thì anh ấy sẽ không tìm được tôi… Tôi không muốn anh trai anh coi mình là một thằng hèn nhát… Tôi không sợ, nhất định tôi sẽ ở đậy đợi, cho dù sau này anh ấy có đòi món nợ này bằng cách nào đi chăng nữa, tôi nhất định sẽ không trốn tránh, khi một con người ngay cả cái chết cũng không còn sợ nữa thì lẽ nào lại sợ sống?”
“Có điều, anh ở bên đó sống có ổn không? Tôi biết gia đình anh chẳng giàu sang gì, không ai xây lầu tháp cho anh, khi cô đơn anh biết làm thế nào? Vậy nên mỗi năm tôi đều nhờ anh trai đốt thật nhiều tiền vàng cho anh, anh cũng cầm số tiền đó mà xây một tòa lầu tháp đi, những lúc cô đơn đứng trên lầu tháp nhìn ra xa rất thú vị, lại còn có thể ngắm sao, có thể nghe tiếng gió hát…”
“Diệp Quán Thanh” từ từ bơi gần về phía anh.
Chẳng lẽ nó lại hiểu lời anh?
“Ku ru… ku ru…” Nó rướn cái cổ về phía Đỗ Trường Phong kêu mấy tiếng, sau đó lại dang rộng đôi cánh bay lên, lượn vòng quanh hồ mấy vòng, rồi lại nhẹ nhàng đáp xuống mặt hồ, tiếp tục bám cạnh con thiên nga mái.
Hai hàng nước mắt Đỗ Trường Phong trào ra như suối.
Đỗ Trường Phong cứ tưởng mình sẽ không bao giờ rơi nước mắt nữa, nhưng đối mặt trước con thiên nga như thế này, anh vừa vui mừng lại vừa đau buồn đến nỗi không tài nào kiềm chế được cảm xúc của mình. Anh run rẩy dang đôi tay ra hướng về phía mặt hồ: “Diệp Quán Thanh, anh lại đây, hãy để cho tôi được ôm anh….”
Giờ đã là cuối thu rồi, gió se lạnh, anh chỉ mặc một mỗi manh áo sơ mi, đôi tay rét cóng lại. Nhưng anh vẫn cứ dang tay ra như thế, tóc anh phất phơ trong gió, nước mắt mặc ý chảy trên má, anh mặc kệ.
Dù vậy “Diệp Quán Thanh” vẫn chẳng thèm để ý đến anh, thế nhưng nàng thiên nga mái vẫn chưa đặt tên kia lại đang do dự, nó chầm chậm bơi lại phía anh, bơi đến tận hẳn bờ hồ.
“Ku ru…” Thật là, nó ngẩng cổ lên chào Đỗ Trường Phong. Đỗ Trường Phong hớn hở rạng rỡ hẳn lên, giơ tay vuốt lông vũ của nó, “Cô bạn tốt, mày nhận ra tao hay sao vậy, đúng là có nghĩa khí hơn ‘Diệp Quán Thanh’ nhiều, tao đã nói mà, Đỗ Trường Phong tao đây xưa nay rất có duyên với phái nữ, mày cũng thích tao có phải không?”
“Ku ru… u ru…” Con vật lại kêu mấy tiếng.
Đỗ Trường Phong cười phá lên, “Thật là giỏi quá đi, mỹ nhân ơi, tôi cũng thích em, tôi đã gặp phải tiếng sét ái tình rồi, nhưng mà, tôi nên đặt tên cho em thế nào cho hay đây nhỉ?” Anh vuốt cái đầu nhỏ và cái mỏ cứng của nó, có chẳng tỏ chút gì sợ hãi, thậm chí còn cúi đầu có vẻ thẹn thùng khiến nước mắt Đỗ Trường Phong vừa được lau khô trước đó lại trào ra vì vui sướng, “Được rồi, nhất định tao sẽ đối đãi thật tốt với mày, đợi tao nghĩ ra cái tên thật hay rồi sẽ lập tức nói cho mày biết. Nhưng bây giờ mày phải cho tao biết, tối nay tao có nên về thăm bố tao không? Nếu đi thì mày hãy ngẩng đầu, còn nếu không thì mày cứ tiếp tục cúi đầu thế này, được không?”
Như là một kỳ tích vậy, “cô nương” trầm ngâm trong giây lát rồi thong thả rướn cái cổ xinh đẹp của nó lên.
Miệng của Đỗ Trường Phong lúc đó đúng hệt hình chữ “O”: “Trời đất ơi…”
Nhà lớn của nhà họ Lâm ở số 9 phố Tử Đằng.
Trước khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa được thành lập, con phố này đã từng là địa tô của Pháp, khi đó sinh sống ở đây đều là những người có địa vị, những tòa nhà kiểu Tây thấp thoáng trong những khu sân vườn, những con đường lát đá xanh hai bên là ngô đồng, cho mãi đến tận ngày nay, đây vẫn là nơi hội tụ những con người có danh có tiếng. Trước đó, khu sân vương nhà họ Lâm bây giờ đã từng là nơi sinh sống của đại sứ Pháp, qui mô đương nhiên là to hơn một chút so với những khu sân vườn khác. Đầu tiên, ngôi nhà này là do cụ nội của Lâm Sỹ Diên mua, đến thời cách mạng văn hóa thì bị tịch thu, nhưng vì những cống hiến to lớn của Lâm Sỹ Diên đối với sự nghiệp từ thiện ở địa phương nên vào khoảng giữa những năm tám mươi, chính quyền trả lại nhà cho ông, coi như là một trường hợp đặc biệt.
Đêm đã khuya, con đường lát đá xanh trên phố ướt đẫm sương đêm, dưới ánh trăng trong như được phủ một lớp thủy ngân lấp lánh. Đỗ Trường Phong lòng đầy tâm sự, cứ lưỡng lụ mãi trước cổng nhà mình, vẫn còn chưa quyết có vào hay không. Nhìn xuyên qua cánh cổng hoa sắt, có thể thấy rất nhiều xe hơi hạng sang đỗ trong vườn, căn nhà bốn tầng kiểu Tây thắp đèn oa sáng choang, cách cả một cái sân rộng mà vẫn còn nghe được tiếng cười lớn ha hả của ai làm kinh động đến con chim nằm tổ trên cành cây, nó kêu “chiếp” một tiếng rồi bay vút lên trời hòa mình vào bóng trăng. Đỗ Trường Phong bất giác ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy mấy cây ngô đồng cao vượt mái tường, cành lá nhè nhẹ đung đưa trong gió, chiếu bóng một lưỡi trăng thu.
Bốn năm rồi, mọi thứ ở đây vẫn như cũ chẳng có gì thay đối.
Khi Đỗ Trường Phong đứng dựa tường và hút đến điếu thuốc thứ mười, anh quyết định hay là cứ vào trong xem thế nào, bốn năm rồi chưa về nhà lần nào, nói trong lòng không nhớ nhung gì thì đúng là nói dối. Nhưng anh không vào bằng của chính mà là nhảy qua tường rào vào, khi tiếp đất gây ra tiếng động hơi to một chút nên lập tức bị phát hiện. Dưới giàn nho trong vườn, trên chiếc xích đu có cô bé đang ngồi chơi, nghe thấy tiếng động, cô bé liền cảnh giác mò mẫm bước đến. Nhanh như cắt, anh lập tức núp vào sau gốc cây hương Chương cạnh tường rào.
Ánh sáng trong vườn hoa không được đầy đủ cho lắm, có quá nhiều cây cối che hết cả ánh trăng.
Cô nhóc nhìn ngó bốn phía xung quanh tìm kiếm mục tiêu, Đứng sau gốc cây, Đỗ Trường Phong nhìn cô rõ mồn một, chắc chỉ tầm mười lăm, mười sáu tuổi, buộc tóc đuôi ngựa, áo trắng váy đen, dưới ánh trăng trông cô xinh đẹp tuyệt trần, thanh thoát tựa hồ như một thiên thần rớt phàm, nhất là nước da của cô, được tắm dưới ánh trăng lại càng thêm nõn nà, tựa như thổi một viên đá vào cũng vỡ ngay ra được. Khi cô ngoảnh mặt khắp phía tìm kiếm, Đỗ Trường Phong nhìn thấy đôi mắt cô long lanh như hớp hồn vía người ta, Xưa nay anh chưa từng thấy đôi mắt nào đẹp khiến nhanh choáng ngợp đến thế… Còn cả chiếc váy mềm mại của cô nữa, phất phơ tung bay trong gió, tựa như con bướm đen bay trong màn đêm, mọi thứ bỗng nhiên cứ như trong mơ vậy.
Lòng anh như có sao băng xẹt qua, trong chớp mắt cõi lòng u ám của anh bỗng được chiếu rọi sáng trưng, tim anh loạn nhịp, như thể tiếng gọi của kiếp trước, nhẹ nhàng đến mang theo hạnh phúc và hi vọng mà anh đã mong ước từ lâu, khiến anh cứng đờ người ra, nhất thời quên mất bản thân mình đang ở chốn nào. Anh cứ đứng đó, khoảng cách chỉ có vài bước chân thôi, chỉ cách gang tấc dưới chân thôi nhưng vô hình lại vạch ra con sông rộng ngàn thước... anh không làm sao nhích chân bước qua nó được, không tài nào đường hoàng cao giọng nói “Tôi ở đây”. Nhưng, nếu thời gian có thể ngừng trôi ngay trong phút giây ấy, nếu tuổi tác bỗng chốc già đi, nếu có thể trong một cái chớp mắt bỗng nhiên biến thành đầu bạc, thì cho dù có phải mất cả đời để vượt qua khoảng cách giữa anh và cô, anh cũng không một lời oán thán.
Bởi vì, nhất định anh sẽ nhận ra cô.
Khuôn mặt quen thuộc như đã từng gặp ở đâu đó ấy, đôi mắt sáng khiến người ta không dám nhìn thẳng vào ấy, tất cả mọi thứ, cứ như thể anh đã gặp trong mơ, ngắm nhìn chăm chú trong mơ vô số lần rồi. Cô là ai?
Rốt cuộc thì anh không kiềm chế được khi cô bước gần đến gốc cây hương Chương, anh giơ tay bịt miệng cô. Cô sợ hãi run lẫy bẫy, anh ra hiệu cho cô không được lên tiếng, sau đó, cô quay mặt lại, đôi mắt đen láy nhìn anh chằm chằm, ngoài sự kinh ngạc ra đôi mắt ấy vẫn bình lặng như mặt nước hồ thu. “Cô bé này quả là gan dạ lắm đây.” Anh hỏi cô là nhóc người rừng nào vậy, không ngờ cô lại nói anh mới là nhóc người rừng, khiến anh hứng thú, anh muốn trêu đùa cô, một chút, nhưng cô lại mắng anh, “Đồ khốn, đồ lưu manh…” Khi anh chuẩn bị nổi giận cơn giận thì cô chạy biến mất, cô ngẩng mặt lên thì va phải một người, anh vừa nhìn là nhận ra đó là Lâm Nhiên, anh vội nấp vào sau gốc cây, trèo qua tường, cuống cuồng vắt chân lên cổ mà chạy...
Anh không hề biết chuyện gì xảy ra sau khi cô bé đó va phải Lâm Nhiên.
Cuộc đời có rất nhiều chuyện như vậy, sớm một bước và muộn một bước, khoảng cách không còn là gang tấc nữa mà là cả một chân trời. Tối hôm đó về đến Nhị Viện, anh phấn khích đến nỗi suốt đêm không ngủ, cả đêm ra hồ nói chuyện với “Diệp Quán Thanh” và nàng thiên nga mái kia. À đúng rồi, anh đặt tên cho con thiên nga mái kia là “cô bé”, bởi vì anh không hề biết tên của cô gái kia là gì, chỉ có thể gọi cô là “cô bé”. Vừa nghĩ ra cái tên này là anh chạy đến nói với con thiên nga mái ngay tức thì. “Cô bé, tôi không phải là thằng khốn đâu nhé, lại càng không phải là lưu manh, mặc dù có đôi lúc tôi cũng hơi khốn nạn thật, nhưng em không thể chửi tôi thế được, bởi vì... vì tôi sẽ đảm bảo rằng, trước mặt em nhất định tôi sẽ là một quân tử hơn cả những người quân tử. Em là con gái nhà ai thế, tim tôi chưa bao giờ loạn nhịp thế này cả, đôi mắt em sáng khiến tim tôi loạn nhịp, đến giờ vẫn còn chưa hết rộn rã, em nghe này...”
Anh vừa nói vừa chìa tay ôm thiên nga mái đang ngủ trong đám bèo rong ven hồ vào lòng, cứ thế, anh ngồi bên hồ nước, vươn người ra, nhẹ nhàng vuốt ve cái cổ dài của “cô bé”, “Tôi buồn lắm, 'cô bé' à, sao tôi lại cứ bị trói buộc ở cái nơi này, tôi không có tự do, không thể đưa em đi chơi khắp nơi, tôi biết nhiều nơi hay lắm, nhưng lại không thể đưa em đi, thậm chí tên em là gì tôi cũng không hề biết...”
Không biết là có phải nàng thiên nga mái đó buồn ngủ quá hay không, cứ nằm yên không động đậy, mặc kệ anh vuốt ve thân mật, thi thoảng kêu mấy tiếng rất nhỏ, như tiếng líu ríu thẹn thùng của thiếu nữ khiến Đỗ Trường Phong lại càng vui, quên hết tất cả. Dưới ánh trăng, con thiên nga mái khép hờ đôi mắt, đắm mình trong ánh trăng, đôi mắt đen nhánh ấy tựa như viên đá quý chìm dưới tận nơi sâu nhất đáy hồ, ánh lên tia sáng lấp lánh. Đỗ Trường Phong ngỡ ngàng phát hiện ra, đôi mắt ấy và đôi đôi mắt của cô bé dưới cây hương Chương quả là giống nhau đến kì lạ…
Thế là những ngày sau này, Đỗ Trường Phong luôn có việc để làm, suốt ngày chơi chung với hai con thiên nga, cho chúng ăn, chụp ảnh cho chúng, nói chuyện với chúng, và họ nghiễm nhiên đã trở thanh những người bạn thân thiết của nhau.
Nhưng xét về tình cảm, “Diệp Quán Thanh” dường như có vẻ lí trí hơn, mặc dù nó không hề từ chối những cử chỉ thân mật của anh nhưng lúc nào cũng giữ một khoảng cách, lúc gần lúc xa, nói chuyện với nó, nó cũng luôn tỏ vẻ không thèm ngó ngàng đến, chỉ lo nghịch nước với dang cánh bay lượn. Nhưng “cô bé” thì lại khác, chỉ cần Đỗ Trường Phong gọi một tiếng thì cho dù nó đang ở đâu, chơi vui thế nào thì nó cũng vẫn bay đến bên anh ngay lập tức, đôi cánh vỗ phành phạch tỏ vẻ vui mừng khôn xiết. Đỗ Trường Phong thích nhất được nói chuyện với nó, những chuyện trước kia chưa bao giờ anh nói, những bí mật chôn giấu trong lòng, anh đều nói hết với nó. Anh thích việc vừa vuốt ve cái cổ của nó vừa nói , chuyện như thế thôi cũng đủ cho anh thấy mãn nguyện vô cùng.
Anh thấy mình như đang “yêu”, chỉ một chốc không thấy “cô bé” là anh đã thấy nhớ cuống nhớ cuồng. Buổi tối đi ngủ anh luôn mở cửa sổ, vì sớm hôm sau thức giấc, việc đầu tiên anh cần làm là nhìn thấy bóng “Diệp Quán Thanh” và “cô bé” bơi trên mặt hồ thì anh mới yên tâm, hay dù có đang tắm trong phòng tắm anh cũng chẳng buồn nhìn gương nữa mà toàn nhìn ra mặt hồ phía ngoài của sổ. Ngay cả lầu tháp anh cũng không leo lên nữa, thay vào đó, lại nằm trên bãi cỏ ven hồ tắm nắng, đọc sách, chơi đàn, nói chuyện với “cô bé”, và đó là khoảng thời gian anh vui vẻ nhất trong ngày.
Ông Lương thấy thế cũng vui mừng hớn hở, thằng bé cuối cùng cũng yên ổn một chỗ, không chạy đi khắp nơi nữa, cũng không còn từ chối sự quan tâm của Lâm Sỹ Diên. Thi thoảng Lâm Sỹ Diên đến thăm anh, hai người còn có thể nói với nhau được vài câu. Lâm Sỹ Diên không tài nào hiểu nổi, tại sao hai con thiên nga lại có thể làm tan chảy cả núi băng ngăn cách giữa hai cha con ông, trong khi bao nhiêu công sức ông đã bỏ ra trước kia con trai ông đêu không hề đếm xỉa đến.
Hôm đó, Lâm Sỹ Diên lại đến Nhị Viện thăm con trai. Trời mùa thu trong và cao, ánh nắng rực rỡ, trong rừng nở đầy hoa cúc dại, đi vào trong rừng quang cảnh lại càng đẹp hơn, tâm trạng ông cũng vui vẻ hẳn lên. Hỏi tình hình của con trai, ông Lương nói: “Cậu ấy chỉ thích hai con thiên nga đó, một lúc không nhìn thấy chúng là không chịu được, mỗi ngày cậu ấy phải tự tay cho chúng ăn thì mới chịu đi ăn cơm, chỉ thiếu mỗi nước là ôm chúng lên giường ngủ cùng thôi.”
Lâm Sỹ Diên chỉ cười: “Thằng nhóc này, từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng suy xét kĩ càng về nó, không biết trong lòng nó nghĩ những gì mà những chuyện nó làm từ xưa đến nay chẳng giống ai bao giờ…”
“Nhưng Viện trưởng, chẳng lẽ ngài định để cậu ấy sống ở đây cả đời thật sao?” Cuối cùng thì ông Lương cũng nói thật ra nỗi băn khoăn lớn trong lòng mình.
Khuôn mặt Lâm Sỹ Diên bỗng chốc như bị phủ lên một lớp mây mù, đứng thẫn thờ hồi lâu, nhìn ra đằng xa, thấy cảnh đứa con trai yêu quý đang chơi đùa vui vẻ với hai con thiên nga, khóe mắt ông bỗng ướt nhòe đi. Một đứa trẻ khỏe mạnh như thế, thông minh tuyệt đỉnh là thế, vốn dĩ nó phải có một tiền đó rất sáng lạn, nhưng rồi lại phải chịu cảnh cả ngày sống cùng một lũ người điên thế này, không biết cả đời, hay còn bao lâu nữa…
Ông thở dài: “Cứ để xem thế nào đã, tôi cũng không muốn cứ thế này mãi.”
Nói xong ông đi thẳng đến đằng sau lưng con trai, khoảng cách chỉ có mấy bước chân, thấy anh đang nói chuyện với con thiên nga, ông ra hiệu cho ông Lương đừng gây tiếng động. Đỗ Trường Phong không hề phát giác được rằng có người đang đứng ngay sau lưng mình, vừa cho “cô bé” ăn vừa thì thầm:
“Cô bé à, em phải ăn nhiều vào mới được, dạo này em gầy lắm đấy, tôi ôm trên tay mà thấy nhẹ đi bao nhiêu. “Diệp Quán Thanh” cậu ta ăn nhiều hơn em, em nhìn cậu ta béo khỏe biết bao, tôi chỉ sợ hôm nào ông Lương sẽ bắt cậu ta đem vào bếp mà hầm mất, cái lão đấy không ít lần nói với tôi thịt thiên nga là món ngon nhất trần đời đấy… Nhưng em yên tâm, tôi tuyệt đối không cho phép ai động đến một cọng lông của các em, ngoài tôi ra, à cả anh trai tôi nữa, không ai được phép động tới hai em. Anh trai tôi… cái anh chàng này, đã lâu lắm rồi chẳng thấy đến thăm tôi gì cả, không phải là anh ấy yếu ai rồi chứ nhỉ? Nghe anh ấy kể, dạo này anh ấy thích một cô, anh ấy đang dạy đàn cho người ta đấy, có phải thích một người là muốn làm gì đó cho người ấy không, ví dụ như tôi cũng thích em, tôi muốn chơi đàn cho em nghe, còn muốn viết nhạc cho em nữa. Dạo này tôi viết nhiều bản nhạc, hay lắm…”
Bỗng nhiên anh dừng lại, vì thấy bóng người phản chiếu xuống mặt hồ… Ngoái đầu lại, thấy bố đang đứng sau lưng anh mỉm cười, bên cạnh là ông Lương mập, cũng đang nhìn anh tủm tỉm.
Anh chợt nổi đóa lên: “Sao lại nghe trộm người khác nói chuyện thế chứ?”
“Con không phải là người khác, con là con trai của bố!” Lâm Sỹ Diên tươi cười bước đến, ngồi xổm xuống, nhìn con thiên nga mà anh gọi là “cô bé”, “Ông Lương nói, con đang”yêu” con thiên nga này đấy hả?”
“Không liên quan gì đến ông!” Đỗ Trường Phong ngoảnh mặt đi không thèm nhìn bố, nhưng giọng nói cũng không phải là cứng nhắc.
Lâm Sỹ Diên luôn biết cách giữ khoảng cách với con trai một cách chừng mực, ông chuyển sang chủ đề về Lâm Nhiên, “Vốn dĩ anh trai con cũng muốn đến thăm con, nhưng dạo này nó nhận dạy một đứa học sinh, sắp phải đưa đi Nhật dự thi, bận quá không rời ra được…”
Đỗ Trường Phong cúi đầu, chỉ chăm chú vuốt ve cổ “cô bé”, nhưng Lâm Sỹ Diên biết anh vẫn đang nghe, nói tiếp: “Lâm Hy cũng đang chuẩn bị lấy bằng thạc sĩ, bài vở cũng bận rộn, nếu con thấy buồn thì ra ngoài cùng bố đi lại đâu đó đi. Sắp tới bố cũng định sang Hàn Quốc đàm phán một mối làm ăn…”
“Con không đi!” Đỗ Trường Phong ngay lập tức từ chối một cách dứt khoát.
“Bố chỉ sợ con buồn bực thôi.”
“Con không buồn bực gì cả, có ‘Diệp Quán Thanh’ và ‘cô bé’ ở cùng rồi, con không đi đâu hết!”
“…”
Cuộc nói chuyện giữa hai bố con lại rơi vào bế tắc.
Nhưng Lâm Sỹ Diên cũng không cố ép thêm gì, ông biết có thể nói chuyện với con ở khoảng cách gần thế này cũng đã không dễ dàng gì, ông không thể quá vội vàng được, nhất định phải cẩn thận, nếu không tất cả những nổ lực trước kia đều đổ xuống sông xuống bể hết. Nhưng đúng vào lúc ông quay lưng định bước đi, Đỗ Trường Phong khi nãy vẫn luôn cắm cúi cho thiên nga ăn giờ lại lên tiếng hỏi một câu, “Lâm Nhiên dạy học sinh nào vậy, xưa nay có bao giờ anh ấy nhận dạy ai đâu?”
“À, là con gái của bác Thư, em gái của Thư Khang…” Lâm Sỹ Diên rất vui mừng vì con trai chủ động hỏi mình.
Đỗ Trường Phong không nói gì, nhưng trong lòng lại dâng trào nỗi tò mò mãnh liệt, người con gái mà Lâm Nhiên thích trông như thế nào, anh cũng chưa bao giờ nghĩ tới người con gái đó mình đã từng gặp hay chưa. Lâm Sỹ Diên vừa đi, ngay chiều hôm đó anh liền nhắm có hội lén trốn ra khỏi Nhị Viện, chạy thẳng đến căn nhà nhỏ của nhà họ Lâm trên phố Đào Lý. Mới đứng trong vườn hoa dưới nhà mà đã nghe thấy tiếng đàn tang tính tang vọng xuống từ tầng ba, hiển nhiên không phải Lâm Nhiên đàn, tiếng đàn của Lâm Nhiên anh biết rõ. Anh nhón chân nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, cô giúp việc ra ngoài mua đồ ăn, trong nhà rất vắng lặng, điều đó lại càng thuận lợi cho anh lén lút leo lên tầng ba. Tiếng đàn mỗi lúc một gần hơn, cánh cửa phòng đàn khép hờ, Lâm Nhiên không ở đó, nhìn sang phòng sách bên cạnh, hóa ra anh đang nằm nghỉ ngơi trên chiếc ghế dài ngoài ban công.
Đỗ Trường Phong ló đầu ra, lập tức nhìn thấy ngay cô gái đang chơi đàn bên cửa sổ, nghiêng người, tóc dài xõa xuống vai, ánh nắng xuyên qua cửa sổ rải khắp người cô. Cô đang cúi đầu, nhìn nghiêng, đường nét khuôn mặt ấy mới đẹp làm sao… Nhưng, sao lại là cô? Sao có thể là cô ấy được? Trong nháy mắt, trời đất như quay cuồng điên đảo, anh gần như không tài nào đứng thẳng người lên được. Anh loạng choạng lùi ra sau mấy bước, trong tim như có thứ gì đó lướt xoẹt qua nhẹ nhàng, mới đầu thì không hề thấy đau, nhưng sau đó mới đột nhiên hiểu ra, hóa ra đúng là cô ấy thật.
Anh chạy trốn khỏi sân nhanh như một cơn gió.
Tối hôm đó, anh lại một lần nữa leo lên lầu tháp, trời đang có mưa nhỏ, rừng phong dưới kia chỉ toàn một màu đen vô tận, đối lập với thành phố đằng xa với những ánh đèn huy hoàng, dần dần mờ đi trước mắt như vô số những vệt sao băng, mỗi một ngôi sao băng đều vạch ra một đường vòng cung lờ mờ trong mắt, mỗi lúc một mơ hồ, cuối cùng chẳng còn nhìn rõ cái gì cả, chỉ còn lại làn hơi sương mỏng manh mờ mịt.
Tại sao lại cứ phải là cô ấy…
Từ tòa tháp đi xuống, anh đi đến bên hồ, “cô bé” uốn cong cái cổ, vùi đầu vào trong cánh, dựa vào “Diệp Quán Thanh” ngủ say, anh ngồi xổm xuống, lòng vẫn xót xa: “Cô bé, sao em không nói cho tôi biết sớm, hóa ra em đã có chủ rồi, lại chính là anh trai tôi, tôi buồn biết bao, em chẳng hiểu được đâu… Vì em là người mà anh trai tôi thích, nên tôi không thể có ý nghĩ ấy được, những ngày qua tôi không loăng quăng khắp nơi, cũng chính là để bố nới lỏng phòng bị, như vậy thì tôi mới có thể tiếp cận được em, ít nhất thì cũng biết được em là con gái nhà ai, ở đâu, để tôi còn dễ bề thường xuyên đến thăm em, nhưng…”
“Tôi thực sự thấy mình bất hạnh biết bao, từ nhỏ bố mẹ đã mất sớm, ngay cả họ trông như thế nào tôi cũng không còn nhớ nổi, người bố bây giờ của tôi đã nhận nuôi tôi, lẽ ra có thể được sống tự do tự tại, nhưng lại vì một chút nông nổi bồng bột tuổi trẻ mà rơi vào nơi nhốt những kẻ điên này. Rất nhiều lúc, tôi muốn bản thân bị điên thật đi cho rồi, không phải nhớ về quá khứ, không cần nghĩ đến tương lai, như vậy sẽ bớt đi rất nhiều đau khổ, tôi đau khổ lắm, ‘cô bé’ à, em biết không? Mấy năm qua, hễ tôi nhắm mắt lại là tôi lại mơ thấy Diệp Quán Thanh, khắp người anh ấy toàn là máu, anh ấy khóc, cầu xin tôi tha thứ… Bây giờ thì ngược lại rồi, là tôi phải cầu xin anh ấy tha cho tôi, đừng đến tìm tôi trong những cơn mơ nữa, hãy để tôi bớt nỗi dày vò, cho đến khi tôi gặp được em…”
“Cái giây phút ấy khi tôi nhìn thấy em, tôi tin chắc rằng trước kia tôi đã từng gặp em ở đâu đó rồi, là kiếp này, hay kiếp trước, tôi không xác định được. Nhưng giờ đây, tất cả hi vọng đều đã vụt tắt rồi, em là người của anh trai tôi! Tôi sống bằng tuổi này rồi, nhưng lại chưa yêu một ai, em nói xem tôi có đáng thương không? Nhưng tôi lại không được có một lời oán thán nào cả, bởi vì anh trai tôi thích em, vậy nên, em nhất định phải hết lòng yêu anh ấy, không được phản bội hay rời bỏ anh ấy, hoặc anh ấy vì em mà bị tổn thương, thì tôi sẽ không tha cho em đâu, cho dù trong lòng tôi thích em, tôi cũng sẽ không tha cho em đâu, em nhất định phải nhớ lấy!”
“Em càng phải nhớ, hạnh phúc của anh trai tôi chính là hạnh phúc của tôi, em nhất định phải làm cho anh ấy hạnh phúc, bất luận lí do là gì, nếu em hủy hoại hạnh phúc của anh ấy, thì trước khi bước xuống địa ngục tôi nhất định phải lôi em xuống địa ngục trước.”
“Từ nay về sau, em sống tất cả đều vì anh trai tôi, cũng giống như tôi đang sống, tất cả cũng chỉ là vì anh ấy, tôi đã nhận lời với anh ấy rằng, tôi sẽ vì anh ấy mà sống, vậy nên em cũng phải làm như thế, sống là vì anh ấy…”
“Kiếp này tôi chẳng còn có cơ hội nào nữa, nếu còn có kiếp sau, tôi hi vọng người đầu tiên mà em yêu sẽ là tôi, để tôi cũng được cảm nhận cái cảm giác được yêu thương bởi chính người con gái tôi thích. Đáng tiếc là chưa bao giờ tôi cảm nhận cái cảm giác ấy…”
“Cô bé ơi, tôi buồn lắm…”
Đã vào cuối thu, hai cây xoan trong vườn chỉ còn lại vài chiếc lá mỏng manh đang run rẩy chống chọi lại với những cơn gió lạnh. Thư Mạn ngắm những chiếc lá vàng treo lơ lửng trên nhánh cây rung mình trong gió, trong lòng đầy thương cảm, bất giác thấy bản thân mình cũng giống những chiếc lá ấy. Còn chưa tới cuối thu nhưng lá vàng đã rụng gần hết, chỉ trơ lại những cành cây khô kiệt. Khi trời tối, nếu gặp cơn mưa gió, chúng như bất chợt sống lại, bỗng nhiên biến thành bàn tay của quỷ không ngừng đập phá cửa kính.
Nhiều lúc cô mở cửa số ra, mặc cho mưa gió ồ ạt lao vào phòng, thổi loạn mái tóc cô. Cô với tay về phía cành cây, giống như quá khứ cô trao tay mình cho Lâm Nhiên, chờ đợi tình yêu và hơi ấm anh mang tới. Nhưng mỗi lần mở cửa sổ, khi còn chưa kịp giơ tay cô đã bị những cành cây vô tình quét vào mặt, đau nhói như cái bạt ù tai mà Thư Tần tặng cho cô.
Thư Mạn vẫn luôn một mình. Cô chưa từng chuyển đi nơi khác kể từ khi chuyển tới khu nhà cũ kỹ tồi tăm này trong mấy năm qua. Hàng ngày, ngoài việc xuống nhà đón tiễn những đứa trẻ được bố mẹ đưa tới học, cô hầu như không ra khỏi cửa. Dạy bọn trẻ học đàn là việc làm duy nhất hiện nay của cô, cũng là nguồn thu nhập duy nhất. Cô không nhận quá nhiều học sinh, chỉ khoảng bốn, năm đứa, hơn nữa còn nghiêm khắc hạn chế thời gian tập đàn của chúng. Mỗi người học không quá hai tiếng mỗi ngày, cuối tuần nếu hợp lý sẽ kéo dài thêm một tiếng. Tiểu Đường nói cô ngốc, có cách kiếm tiền mà không biết đường, những lúc đó cô chỉ im lặng.
Cô thừa nhận hiện giờ cô rất nghèo. Cô đã mất tất cả mọi thứ, nhưng ngược lại cùng không dám có quá nhiều. Cho dù là tình thân, tình bạn, hay là tình yêu, có nhiều hơn một chút cũng không thể.
“Tiểu Mạn, em không thể như vậy mãi được. Hay là tự tìm cho mình một đường mưu sinh đi.” Lâm Hy thường hay nói với cô như vậy. Lâm Hy hiện giờ là trụ cột của nhà họ Lâm. Mới ba mươi tuổi đã là Viện phó bệnh viện Nhân Ái, cũng là Tổng giám đốc tập đoàn Chấn Á của nhà họ Lâm. Kể cũng lạ, một gia đình có truyền thống theo nghề y lại xuất hiện một nghệ sĩ chơi đàn lừng danh, nếu không phải vụ bê bôi chấn động cả thành phố năm năm trước thì đến bây giờ, Lâm Nhiên chắc chắn vẫn là niềm tự hào lớn của nhà họ Lâm.
Đáng buồn là khi trở thành nhân vật được quan tâm từ một chuyện nào đó, thì cho dù họ đã bị rơi vào cảnh thân bại danh liệt, vẫn không thể nào tránh được việc trở thành đề tài bàn tán, dèm pha của người đời lúc trà dư tửu hậu. Cho dù đã năm năm trôi qua, nhưng khi vừa nhắc tới chuyện cũ, người dân Ly Thành vẫn có thể say sưa bàn luận. Từ sau khi rời Ly Thành trốn tới Đồng Thành, cuộc sống của Thư Mạn mới có thể dần bình lặng.
Trong cuộc sống của mỗi người đều khó tránh khỏi sự cô đơn, nhưng có lúc lại rất an toàn, bởi không cần lo lắng đến chuyện những người bên cạnh sẽ mang đến nỗi đau cho bạn. Con người là loài động vật có khả năng tấn công nguy hiểm nhất, cho dù là người thân, người thân nhất, cũng không tránh khỏi có khi làm tổn thương bạn. Mà sự tổn thương ấy thường khiến bạn khó tìm đường giải thoát.
Đêm tối, những cơn gió rít gào lao tới đem theo trận mưa cuồng bạo. Gió đập thình thình vào cánh cửa phòng ngủ đang mở, trong vườn chốc chốc lại vang lên tiếng kính rơi xuống đất. Trong đêm khuya vắng, âm thanh ấy lại càng trở nên lộng óc. Thư Mạn ra khỏi chăn, vội vàng đóng cửa sổ. Chiếc rèm cửa bị thổi bạt lên cao tít, mọi thứ gần đó đều ướt sũng. Bên ngoài cửa sổ cũng chỉ toàn thấy nước. Cô giơ tay lên trước, xung quanh cô đều là nước lạnh lẽo. Chợt ngay sau đó. Cô cứ ngây người đứng đó, mặc cho mưa đổ ào như hàng ngàn chiếc rơi tới típ quất vào mặt, vào người cô...
Lâm Nhiên, Lâm Nhiên...
Lòng cô thầm gọi tên anh. Tiếng gọi như xé nát tim gan, nước mắt hòa với nước mưa thấm đẫm gương mặt cô tự lúc nào. Cô tưởng như chỉ cần trong tâm trí thét gào tên anh, anh sẽ quay về bên cô. Sợ anh không nghe thấy, cô lại trèo lên bệ cửa, với người ra bên ngoài, gọi tên anh điên dại: “Lâm Nhiên! Lâm Nhiên! Anh hãy về đi! Lâm Nhiên, anh về đi...”
“Ai đấy, nửa đêm nửa hôm hú như ma kêu thế, có cho người khác ngủ không thì bảo!”
Tiếng quát vọng ra từ tầng trên. Cô vội vàng bậm miệng lại, tụt người ngồi xuống bên cạnh cửa sổ. Chiếc váy ngủ lập tức ướt đẫm. Nhưng cô không cảm thấy lạnh, lại dựa vào tường mặc cho mưa bên ngoài không ngừng tạt vào phòng. Để mưa trút nước tưới ướt trái tim cô, cô như chìm trong lòng biển buốt lạnh u tối không biết đêm ngày. Hàng trăm năm, hàng nghìn năm, cô cũng khổng thể nào thoát khỏi.
Không biết bao lâu sau, cô mới dần thiếp đi. Trong cơn mơ màng, cô nghe thấy tiếng gõ cửa. Cô chạy ra mở cửa. Mở két một tiếng, khuôn mặt Lâm Nhiên lộ ra từng chút từng chút một. Cô thoáng giật mình, cố mở to hai mắt, nước mắt lại ùa ra tràn mi. Đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm cô được nhìn thấy anh sát gần như thế. Qua dòng lệ làm nhòa mắt, cô thấy anh gầy đi nhiều, khóe mắt đã có nếp nhăn, không còn vẻ sáng ngời như năm nào. Nhưng mắt anh cũng đỏ hoe, tay run rẩy giơ tay về phía cô, những ngón tay anh lạnh băng chạm vào má cô, miệng anh khẽ thầm thì: “Tiểu Mạn...”
“Lâm Nhiên...”
Sáng sớm khi tỉnh lại, Thư Mạn đứng trước cửa sổ phòng ngủ chải đầu. Cây xoan trong vườn đã chẳng còn mấy lá. Cô lại bắt đầu khát khao mùa xuân tới. Cô thích mùa xuân, thích đứng trước chiếc rèm cửa bị gió xuân thổi bay lên cao ngắm phong cảnh bên ngoài. Ngày qua đêm đến, bốn mùa thay đổi, chứng nhân cho cuộc sống vẫn đang tiếp tục. Nhưng vào một buổi sáng mùa thu đó, cô đã nhận ra cô không thể tiếp tục như vậy. Cô mở to mắt nhìn dòng chữ “dỡ nhà” to ngất trên tường bao quanh vườn mà sự đứng tim. Thế là cũng không dám tiếp tục mơ mộng mùa xuân tới, Khi cô xuống hỏi thăm hàng xóm mới biết khu nhà cô đang ở sắp bị phá dở.
Khu nhà này vốn là của sở viễn thông. Bốn năm trước khi cô dọn tới đây đã có tin phá bỏ, nhưng mãi không có động tĩnh gì. Người dân sống ở đây vốn đã quen tai với những lời đồn ấy, mãi tới hôm nay tỉnh dậy, khi mọi người phát hiện chữ “dỡ nhà” được quét lên tường bên ngoài vườn mới biết đó không phải tin đồn nữa. Họ nhanh chóng tập trung lại cùng bàn bạc tìm cách nhưng không kịp, ngay trong ngày hôm đó, có tới mấy chiếc xe đào đất chạy tới trước cửa khu nhà. Sự việc xảy ra chóng vánh khiến mọi người đều trở tay không kịp.
Họ nhanh chóng nắm được tình hình, đại khái toàn bộ khu nhà này đã được bán cho một thương gia bất động sản, sắp tới sẽ xây lại thành một khu chung cư cao cấp mới, người dân ở đây nếu bằng lòng di dời có thế dọn vào sống trở lại sau khi nhà mới được xây, dĩ nhiên phải mua được mới có thể ở. Lúc đầu mọi người còn hớn hở như bắt được vàng, nhưng sau khi biết giá nhà mới bình quân phải từ tám ngàn tệ một mét vuông trở lên, trong khi phí hỗ trợ di dời họ được nhận từ nhà đầu bình quân mỗi hộ chưa tới một trăm ngàn tệ, vốn không đủ để trả kì đầu, thì ai cũng bắt đầu lo lắng. Đây rõ ràng là ép người quá đáng. Họ dĩ nhiên không chấp nhận, trong số họ có người đã sống mấy chục năm ở đây, có người đã về hưu, có người đã già yếu bệnh tật... nhà bị phá rồi thì sẽ ở đâu?
Lập tức có người dẫn đầu dân cư ở đây khua chiêng gỗ trống, kêu gọi mọi người đoàn kết lại cùng đấu tranh với tên gian thương giảo hoạt tới cùng, dù chết cũng không dọn nhà, có giỏi thì họ lấy máy đào đất nghiền qua hết những người già, người trẻ ở đây. Chuyện liên quan đến lợi ích sống còn của mọi người, họ nhanh chóng đoàn kết lại, già trẻ lớn bé, các đấng mày râu, các chị phụ nữ... đứng vây kín khu vườn ngăn không cho người ngoài tiến vào, thề chết cũng phải phản đối đến cùng.
Thư Mạn không tham dự vào chuyên này, vì căn nhà không phải của cô. Năm đó khi không còn chốn nương thân, người bạn học Lộ Tiểu Đường đã đưa tay ra giúp đỡ, cho cô mượn căn nhà này để ở. Nói chính xác hơn thì đây là nhà của bố mẹ Tiểu Đường. Hai ông bà hồi xưa được con trai lớn đón qua Mỹ ở cùng nên căn nhà này vẫn để không. Tiểu Đường lại không quan tâm đến tiền thuê nhà, chỉ cho Tiểu Mạn ở nhờ với điều kiện là dạy con gái cô chơi piano. Có điều con gái Tiểu - Đường lại không thích học đàn, dạy hai năm cũng sống chết không chịu học. Tiểu Đường cũng đành bó tay, nhưng nhà vẫn để cho Thư Mạn ở. Cô cũng không nhắc đến chuyên tiền nong, chỉ nói nhờ Thư Mạn trông nom hộ.
Bây giờ căn nhà sắp bị dỡ bỏ, Thư Mạn còn lo sốt vó hơn bất cứ người nào. Ngay cả chỗ ở bình thường nhất cô cũng không có. Cho dù có thể thuê nhà bên ngoài, nhưng chỉ nhìn vào kinh tế hiện giờ của cô thì chắc chắn sẽ không thể thuê được một căn nhà rộng rãi. Không có nhà rộng, cô làm sao mà nhận học sinh, làm sao có thể dạy đàn? Không nhận được học sinh thì lấy đâu ra thu nhập? Bần cùng bất đắc dĩ, cô đành gọi cho Tiểu Đường bàn bạc. Tiểu Đường nhất thời cũng không biết làm thế nào, chỉ cố gắng an ủi cô trong điện thoại. Cô nói “Thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng”, còn nói: “Chắc cậu chưa ăn cơm đúng không? Hay đến chỗ tớ, tớ đã nấu chắn ngân nhĩ ngon lắm.”
“Tớ còn tâm trí nào mà nuốt trôi.”
“Cậu hay bị bệnh vì cơ thể yếu quá, đến đây đi. Hôm nay trong nhà cũng có khách, chồng tớ cũng ở nhà, thế nào cũng đông vui lắm. Cậu đừng suốt ngày nhốt mình trong nhà, phải ra ngoài đi lại chứ, cứ mãi như thế không có bệnh cũng thành có. Đã ngần này tuổi rồi, cậu cũng phải nghĩ cho tương lai chứ.”
Thư Mạn sợ nhất là cô ấy lảm nhảm mấy chuyện này: “Tớ không đi, tớ đâu có quen khách nhà cậu.”
“Không sao, là bạn làm ăn của chồng tớ thôi. Tớ định giới thiệu cho em họ tớ, vừa hay, cậu qua làm quân sư cho tớ đi.
“Em họ cậu? Cát Văn á?”
“Ừ, con bé đó từ sáng đến tối chỉ biết ăn chơi, lớn tướng rồi còn chưa chịu tìm đối tượng. Cậu mợ tớ sốt ruột lắm rồi, lúc nào cũng bảo tớ giới thiệu cho nó mà mãi chưa tìm được ai hợp ý.
Lần này thì khác, bạn của chồng tớ gần đây mới về nước, tớ thấy cũng có điều kiện được nên định mối mai.”
Thư Mạn bĩu môi: “Cậu đúng là rỗi chuyện. Cát Văn xinh đẹp như thế, công việc lại tốt, cậu còn sợ ế chắc?”
Cát Văn đúng là rất xinh đẹp. Cô làm việc ở đài truyền hình, thông minh, nhanh nhạy, làm việc gì cũng năng nổ. Có lẽ vì công việc ờ đài truyền hình quá bận nên mãi không thấy nhắc tới chuyện bạn trai. Nhưng người theo đuổi Cát Văn chắc không ít. Một cô gái có điều kiện tốt như thế dĩ nhiên yêu cầu thường rất cao. Nhà cửa, xe cộ đều đã đầy đủ, cô hoàn toàn không cần phải dựa dẫm vào đàn ông, vì vậy những anh chàng rỗng tuếch chắc chắn không thể lọt vào mắt xanh của cô.
Thư Mạn còn đang lưỡng lự không biết nên đi hay không, lỡ người ta không ưng em mà lại thích chị thì sao? Ha ha ha...
Trong những người bạn học cô còn hay liên lạc, có lẽ Tiểu Đường là người lấy được chồng sướng nhất. Chồng cô là tổng giám đốc một công ty ngoại thương, bản thân cô không cần đi làm, chỉ ở nhà quán xuyến gia đình. Nhà của Tiểu Đường nằm trong khu phố rất thanh bình, trên con đường ở góc sâu thành phố. Hai bên đường là hai dãy ngô đồng cao lớn sừng sững, mùa này lá vàng vẫn chưa rụng hết mà ẩn mình vào những tán cây. Những ngôi nhà ở đây đều được xây dựng từ lâu, có thể nhìn thấy môt số nóc nhà được thiết kế kỳ công thấp thoáng sau những cây ngô đồng và tường bao quanh, sẽ có người bất giác liên tưởng tới hình ảnh những “căn nhà thâm u” như trong tiểu thuyết. Thư Mạn rất thích ngô đồng. Ở Đồng Thành nơi nào cũng có thể nhìn thấy đủ loại ngô đồng, vậy nên nơi đây mới có tên là “Đồng Thành”.
Cổng vào khu nhà được bảo vệ rất nghiêm ngặt, phải đăng ký mới có thể vào. Đăng ký xong cô bước ra cửa lớn mới phát hiện dây giày bị tuột, liền khom người xuống buộc lại. Đúng lúc này có một chiếc xe màu xám bạc cánh cửa vân hoa màu đen từ ngoài lái tới, chưa đầy một phút đã bực bội bấm còi inh ỏi. Tiếng còi trong buổi tối thanh tĩnh trở nên rất nhức tai, cô quay đầu lại, khó chịu trừng mắt nhìn. Bình sinh cô xem thường nhất là loại người có tiền mà phách lối.
“Này, nhanh chút được không?” Người lái xe mặc bộ vest màu đen thò đầu ra ngoài cứa sổ hét.
Nhân viên bảo vệ cũng sốt ruột thúc giục: “Cô ơi, cô nhanh chút đi, đừng chặn ở trước cửa, người ta còn phải vào chứ.” Tên lái xe được đà lấn tới, rít lên như một gã côn đồ: “Chó ngoan không cản đường, mày có nghe thấy không hả?”
Trên bàn bảo vệ có một chiếc gậy kích điện, có lẽ dùng để đi tuần đêm. Thư Mạn lao nhanh tới, cầm chiếc gậy kích điện chạy thẳng về phía chiếc xe, đập mạnh xuống cửa kính. Trước giờ cô rất ít khi mở miệng nói lời thô tục, nhưng lúc này cũng phải chửi lớn: “Mày nhìn cho kỹ ai là chó? Mày mới là chó! Đồ khốn! Tháng súc vật!”
Bảo vệ ngay lập tức lao tới. Tên lái xe cũng nhảy xuồng xe.
Thư Mạn đập chiếc gậy kích điện vào bảo vệ, rồi nhân lúc tên lái xe vừa bước chân xuống xe liền đá một cú chính giữa háng hắn. Tên súc vật ngay lập tức quỵ xuống đất gào loạn lên, chỉ còn thiếu nước lăn lộn. Đằng sau cũng có người thét lên, cô quay đầu nhìn lại mới biết chiếc gậy kích điện khi nãy đập đúng mắt của nhân viên bảo vệ. Cô nhìn thấy máu thấm rỉ qua kẽ tay đang bịt chặt mắt của anh. Bất chợt cô không dám cử động thêm, sợ hãi, mắt anh ta sẽ không bị mù chứ?
Ngay lập tức lại có thêm hai bảo vệ bên này lao tới.
Thư Mạn không phản kháng, mặc cho họ bẻ ngược tay cô về sau, một tên trong đó tát cô hai cái đôm đốp đến nổ đom đóm. Thế là hết, tai trái vốn thính lực không tốt của cô lúc này đã hoàn toàn ù đặc, trong miệng mằn mặn, hai má rát bỏng.
Tên bảo vệ đó như vẫn chưa giải tỏa, lại tiếp tục giơ tay lên.
“Dừng lại...”
Cửa xe bỗng nhiên mở ra, một đôi giày sáng loáng chạm xuống đất. Thường trong những bộ phim, chủ nhân của đôi giày này là những người có khí độ khác người. Quả nhiên không sai, một người đàn ông mặc bộ vest màu xanh đậm lịch lãm bước xuống xe, đeo một chiếc kính không gọng, khoảng chừng ba lăm, ba sáu tuổi, sắc mặt lạnh lùng, vừa đóng khuy áo vừa quát tên bảo vệ đánh người: “Còn thể thống gì không, mấy thằng đàn ông đi ức hiếp một cô gái, các người ỷ thế ai đây?” Đi sát người đó là một chàng trai trẻ cũng mặc bộ vest giống như vậy, có lẽ là trợ lý của người kia.
Tên bảo vệ do dự, từ từ hạ tay xuống. Chắc rằng anh cũng đã gặp nhiều người nên biết người xuất hiện trước mắt này không phải kẻ tầm thường.
“Thưa ông, ông cũng vừa thấy đấy, là cô ta ra tay trước.” Tên bảo vệ bẻ tay Thư Mạn cũng buông tay xuống, ngang ngược nói.
“Là các người đáng bị đánh!” Người đàn ông lạnh lùng ấy có dáng vẻ khiến người khác phải khiếp sợ, nhưng khi nhìn Thư Mạn, sắc mặt lại lập tức trở nên hiền hòa, cũng tự nhiên hạ giọng xuống: “Cô sao rồi? Có đau không?”
Nói rồi anh lại rút khăn tay ra lau máu ở miệng cho cô.
Thư Mạn gạt tay anh ta ra, trợn trừng nhìn: “Anh là ai? Đừng có chạm vào tôi!”
Anh ta gượng gạo bỏ tay xuống, nhìn chằm chằm vào cô, ánh mắt vụt sáng như vừa phát hiện ra điều gì đó. vẻ mặt hứng khởi, anh trêu chọc cô: “Ra tay nhanh thật đấy! Cô trước đây tập võ à? Vệ sĩ của tôi cũng không có phản ứng nhanh được như cô.”
Lúc này tên lái xe của anh ta đã đứng thẳng người dậy, nhưng vẫn ôm háng, hiển nhiên cú đá vừa rồi của Thư Mạn không hề nhẹ. Người đàn ông đó lại sa sầm mặt với anh ta: “Đã nói với anh bao nhiêu lần rồi, đừng có lớn lối như vậy. Thế nào, lần này biết thế nào là lễ độ chưa? Tự mình chuốc khổ! Ngày mai đến công ty thanh toán nốt tiền lương tháng này của anh, tôi không muốn nhìn thấy anh nữa!”
“Ông chủ, tôi không sai...”
“Còn già mồm! Nếu anh bị người khác chửi là chó, anh có cắn người ta không?”
Thư Mạn lập tức đính chính: “Anh kia, tôi không cắn người.”
Như nhận ra điều gì, anh”à” một tiếng, dịu giọng nói: “Không phải tôi nói cô đâu, tôi nói là anh ta, còn cả họ...” Anh chỉ vào mấy nhân viên bảo vệ, “Toàn những kẻ miệng chó không mọc nổi ngà voi, suốt ngày thích cắn người.” Nói rồi anh ta lại nói với chàng trai trẻ đi bên cạnh mình, “Đưa họ đi bệnh viện, bồi thường không thiếu một xu.”
“Vâng, thưa tổng giám đốc Diệp.” Chàng trai trẻ nói với tên bảo vệ bị chảy máu mắt, “Đi thôi, tôi đưa các anh tới bệnh viện.”
Người đàn ông họ Diệp đó quay lại nhìn Thư Mạn, như cười như không nói: “Cô à, lần sau đá người cẩn thận chút nhé. Chỗ đấy còn lớn hơn mạng sống của người đàn ông, để nối dõi tông đường đấy. Đá hỏng của người ta cô có đền được không.”
Thư Mạn mặt đỏ như gấc.
“Mặt cô bị sưng rồi, phải xử lý ngay. Nhà cô ở đâu, để tôi đưa về.” Anh ta bước tới gần cô, ánh mắt sáng quắc nhìn cô dò xét. Đó vốn dĩ là một khuôn mặt vô cùng nghiêm nghị, nhưng có nụ cười trên môi bỗng nhiên trở nên hiền dịu đi nhiều, “Tôi là Diệp Quán Ngữ, xin hỏi tên cô là gì?”
Thư Mạn đang định đáp lời thì di động đổ chuông. Tiểu Đường gọi điện hỏi cô sao vẫn chưa đến. Thư Mạn thầm nghĩ bộ dạng này thì gặp người khác thế nào, đành nói trong người không khỏe, hẹn hôm khác lại tới. Dứt chuyện với Tiểu Đường, cô cũng chẳng thèm nhìn người đàn ông vừa tự báo tên trước mặt cô, quay người đi thẳng.
“Này cô ơi, tôi thấy cô bị thương không nhẹ đâu, để tôi đưa cô về!” Anh ta ở đằng sau gọi với. Thư Mạn quay người lại, lạnh lùng nhìn: “Thứ nhất, tôi không phải là cô gì cả. Thứ hai, tôi không cần anh phải đưa về. Thứ ba, tôi không muốn gặp lại anh. Thứ tư, sau này trông chừng cẩn thận mấy con chó của anh, đừng đế đi cắn người lung tung!”
Dứt lời cô hướng thẳng rồi bước thật nhanh.
Vừa đi được mấy bước, người đàn ông đằng sau cũng đáp cô: “Cô ơi, cô nghe cho rõ nhé. Thứ nhất, tôi không coi cô là quý cô nào đó. Thứ hai, tôi rất có thành ý đưa cô về, nhưng cô từ chối nên tôi cũng hết cách. Thứ ba, tôi chắc chắn còn muốn gặp lại cô, hơn nữa nhất định sẽ gặp lại cô. Thứ tư, lúc cô tức giận trông rất hấp dẫn, đêm nay chắc tôi sẽ mất ngủ mất, nhưng tôi muốn chúc cô ngủ ngon, ok?”
“Chết tiệt!” Cô thầm mắng.
Về tới nhà, vừa bước vào cửa chuông điện thoại lại reo, Lâm Hy gọi điện tới, giọng nói vẫn ôn hòa như trước: “Tiểu Mạn, thời gian này đừng đi lung tung, đề phòng những người bên cạnh em...”
Ngày hôm sau, Tiểu Đường bất ngờ gọi điện cho Thư Mạn, hỏi cô có hứng thú đến trường dạy đàn không,/ nói là đãi ngộ cao, nếu trường hợp đặc biệt nhà trường còn sắp xếp chỗ ăn ở, như vậy cô sẽ có chỗ trú chân, chí ít không phải lo về chỗ ăn ở. Thư Mạn dĩ nhiên bị xiêu lòng, chỉ là đến trường dạy đàn không thể bằng mình tự nhận học sinh. Tự do của cô sẽ bị hạn chế nhiều, hơn nữa xa lánh xã hội bao năm, cô đã không còn biết cách chung sống thế nào với mọi người. Tiểu Đường thấy cô có vẻ chần chừ liền ra sức động viên: “Là đồng nghiệp của chồng tớ giới thiệu đấy. Trường học đó gần đây dang tuyển giáo viên, đãi ngộ chắc chắn là tết, không có vấn đề gì. Chỉ là hơi xa một chút, ở tận Ly Thành, nhưng mà nhà cậu khổng phải ở Ly Thành sao? Ở gần nhà một chút cũng chẳng có gì không tốt cả.”
Thư Mạn ngay lập tức cảnh giác: “Ở Ly Thành?”
“Đúng vậy, trường đó rất nổi tiếng, cả ở Ly Thành cũng như cả nước...”
“Trường piano quốc tế Lâm Nhiên?” Thư Mạn bất ngờ thốt lên.
Tiểu Đường kinh ngạc: “Cậu, sao cậu biết...”
Làm sao cô có thể không biết? Ba năm trước nhà họ Lâm vì muốn tưởng nhớ Lâm Nhiên cũng như truyền lại tài nghệ của anh đã mở riêng một quỹ giáo dục lấy tên Lâm Nhiên, đồng thời xây dựng một trường dạy đàn quốc tế lấy tên anh. Dĩ nhiên phía đầu tư chính là nhà họ Lâm. Khi mới mở, trường đã tạo được sự quan tâm rộng rãi trong xã hội, cũng bởi do danh tiếng của Lâm Nhiên quá lớn. Cho dù là trường tư thục, học phí đắt đỏ nhưng học sinh các nơi vẫn theo học vì ngưỡng mộ tài nghệ xưa kia của Lâm Nhiên. Hiềm một nỗi bục cửa tuyển sinh của trường rất cao, việc tuyển sinh rất tỉ mỉ, không phải nhân tài xuất chúng thì khó có thể vào. Giáo viên được dạy ở đây đều là những tên tuổi lớn trong giới âm nhạc, người bình thường muốn xin vào rất khó.
Tư cách của Thư Mạn thì không cần phải nói nhiều, nhưng trường học đó là của nhà họ Lâm, nhà họ Lâm trước giờ coi cô như thù, sao có thể chấp nhận việc cô vào đó dạy?
“Xin lỗi nhé, Tiểu Đường, có lẽ tớ không dạy được đâu.” Cô thành thật nói.
“Tại sao?”
“Chuyện này, một lời khó nói hết, nhưng thật sự là tớ không thể.”
“Chỉ vì trường đó của nhà họ Lâm à?” Tiểu Đường dĩ nhiên biết chuyện cũ của Thư Mạn và Lâm Nhiên, nhưng suy nghĩ của cô lại khác, “Bỏ đi Thư Mạn, chuyện đã qua lâu như vậy rồi, sao cậu còn phải làm khó mình? Cậu xem hiện giờ cậu đang sống thế nào?” Im lặng chốc lát, Tiểu Đường lại thẽ thọt, “Nói thật cho cậu vậy, là người ở trường đó chủ dộng đến tìm tớ mời cậu đi dạy đấy...”
“Người phía trường học?” Thư Mạn thoáng ngạc nhiên.
“Ừ, đúng thế.” Tiểu Đường cuối cùng cũng đành nói ra sự thật, “Thật ra trường đó trên danh nghĩa là của nhà họ Lâm mở, nhưng người quản lý thật sự lại không phải là nhà họ Lâm, họ chỉ là cái danh thôi. Trường này do hiệu phó Vi Minh Luân phụ trách, hiệu trưởng rất ít khi ra mặt. Lần này chính là ông hiệu phó đó nhờ người đến tìm tớ, không biết từ đâu mà ông ta nghe nói tớ có quan hệ tốt với cậu... Tối qua ông Vi còn trực tiếp điện thoại gặp riêng tớ, nói ngưỡng mộ danh tiếng của cậu từ lâu, rất hy vọng cậu có thể tới chỗ họ dạy học, còn nói không cần phải lo lắng chuyện khác, có lẽ ông ấy cũng biết chuyện của cậu với Lâm Nhiên.”
Thư Mạn nhất thời không biết nói gì. Cô hoàn toàn không quen biết Vi Minh Luân.
“Đi đi, đi đi mà Thư Mạn, với tài năng của cậu chỉ dạy vài đứa thì đúng là lãng phí. Nếu có thể đào tạo được nhiều tuổi trẻ âm nhạc hơn, tớ tin Lâm Nhiên nơi chín suối cũng cảm thấy vui lòng.”
Câu nói này đã có chút tác động tới cô.
Vì cô cũng biết, Lâm Nhiên chắc chắn sẽ tán thành với việc cô làm như vậy.
“Nhưng mà...” Thư Mạn vẫn rất lo lắng, “Người nhà họ Lâm sẽ thế nào?”
“Vừa nãy tớ nói rồi mà, nhà họ Lâm thực chất không tham dự vào hoạt động trong trường. Trường cũng không phải chỉ do mình họ quyết định, nghe nói trường xây dựng theo cơ chế cổ phần, nhà họ Lâm chỉ chiếm một phần nhỏ thôi. Ông chủ thật sự, nhà đầu tư thật sự của nó chính là hiệu trưởng. Hiệu trưởng không biết có phải là người Tây hay không, tên là gì ý nhỉ, à đúng rồi, tên là Sam gì đó...”
“Sam?”
“Đúng vậy, ông Vi đã nói như vậy. Cậu xem, ngay cả hiệu trưởng cũng không phải họ Lâm, cậu còn gì lo lắng nữa? Ông Vi hy vọng cậu sớm trả lời, bên họ bây giờ đang rất thiếu người.”
“Cái người tên Sam gì đó có quan hệ gì với họ Lâm?”
“Ôi giời ơi, chuyện này làm sao tớ biết được. Chỉ biết tên tiếng Trung hình như mang họ Đỗ...”
“Họ Đỗ?”
“Đúng, chính là họ Đỗ. Nếu không phải người Tây thì chắc là Hoa kiều đấy.”
Cả buổi chiều, Thư Mạn mải mê suy nghĩ về việc có nên về Ly Thành dạy hay không. Từ ban công nhà nhìn ánh nắng đang dần ngả về tây, cô nghĩ phải chăng đây là lúc mình nến thay đổi cách sống? Đã chịu dày vò suốt năm năm, ngày đêm trằn trọc, cô có nên tiếp tục như vậy? Đến đó thì cô không thể nghĩ tiếp, đầu lại choáng váng như muốn ngất đi. Đúng lúc đó, Lâm Hy gọi điện thoại tới, nói anh đến Đồng Thành bàn chuyện làm ăn hỏi cô có thời gian gặp mặt không. Thư Mạn đang muốn thăm dò ý kiến của Lâm Hy, nếu anh phản đốì thì chuyện này coi như bỏ qua, còn nếu anh đồng ý, sự lo lắng của cô sẽ giảm đi nhiều vì chủ nhân tương lai của tập đoàn Chấn Á không ai khác chính là Lâm Hy.
Hẹn địa điểm xong Thư Mạn lặng lẽ thu dọn rồi xuống cửa. Trước sân có rất nhiều người tụ tập, có mấy chiếc xe dừng ở đó, cô tiến lại gần, muốn biết có phải gây gổ đánh nhau hay không. Mấy hôm trước đã xảy ra xung đột giữa đội công trình và cư dân ở đây. Người dân tay không tấc sắt đã bị đánh đầy thương tích, người nặng nhất bị đánh hộc máu tại chỗ, sau đó được đưa đến bệnh viện. Nhưng phía nhà đầu tư làm lơ việc này, cũng không chịu trả viện phí thuốc thang, như chẳng có gì liên quan đến họ. Chuyện này càng khiến dân ở đây giận dữ, giằng co càng lúc càng quyết liệt. Chuyện nhanh chóng đến tai báo chí, các ban ngành cấp trên cũng đến hỏi chuyện, đội cũng đứng đó sẵn sàng nhận lệnh nhằm ngăn chặn khả năng phát triển theo chiều hướng xấu.
Thư Mạn chen vào đám đông nhìn thử, may mà không phải đánh người. Chỉ thấy trong đám người huyên náo có mấy người đàn ông mặc vest trông rất sang trọng chắp tay đứng đó nhìn quanh. Ngay lập tức Thư Mạn nhận ra anh ta, người đàn ông đó cũng nhận ngay ra cô. Đó chẳng phải người hôm trước chạm mặt trước cửa khu nhà Tiểu Đường sống sao?
“Cô ơi, chúng ta lại gặp nhau rồi!” Anh ta mặc một bộ vest màu xám nhạt, đứng cả trong đám người có thân phận kia, nhưng phong thái vẫn nổi bật hơn người, đầu ngẩng cao như không có ai trong mắt mình. Nhìn thấy cô, anh ta lững thững xuyên qua đám đông, bước tới bên cạnh cô, mỉm cười. Cô ngạc nhiên nhìn anh: “Anh... Sao lại ở đây?”
“À, tôi vừa mới mua lại khu đất này, muốn xây khu đô thị mới...”
“Cái gì? Anh chính là chủ đầu tư đó?”
“Đúng vậy. Có chuyện gì sao?”
Không biết ngượng còn hỏi. Thư Mạn liếc xéo Diệp Quán Ngữ rồi xoay người bước ra ngoài. Anh ta lại gọi với theo cô: “Cô ơi, tôi còn chưa biết tên cô.”
Diệp Quán Ngữ dõi mắt nhìn bóng Thư Mạn bước đi xa dần.
Một người đàn ông trung niên mái tóc đã hoa râm, chân đi giày Tây lúc này bước lên trước, cúi đầu cung kính hỏi: “Giám đốc, bước tiếp theo chúng ta làm gì?”
Ông ấy là trợ lý cao cấp của Diệp Quán Ngữ, tên Lữ Diệu Huy. Ông đã cùng đồng cam cộng khổ với Diệp Quán Ngữ mười mấy năm nay, lo liệu tất cả chuyện công tư của Quán Ngữ. Vì đã trải qua nhiều lại được Diệp Quán Ngữ coi trọng nên ông được nhân viên trong công ty tôn kính gọi là “Tổng quản Lữ”.
Ở trước mặt mọi người, tổng quản Lữ gọi Diệp Quán Ngữ là giám đốc, nhưng khi chỉ có hai người ông thường gọi thẳng tên “Quán Ngữ”. Đây cũng là đặc quyền chỉ ông mới có, còn Diệp Quán Ngữ cũng gọi ông là “ông Lữ” hay “chú Lữ”, giao tình của hai người không chỉ bình thường là quan hệ cấp trên cấp dưới.
Tống quản Lữ đã theo Diệp Quán Ngữ nhiều năm, đôi bên đã hiểu nhau nên làm việc rất ăn ý. Nhưng chuyện gì ông cũng hỏi ý kiến của Diệp Quán Ngữ trước, được chỉ đạo rồi mới thực hiện. Nghe hỏi về hướng đi tiếp theo, Diệp Quán Ngữ khoanh hai tay lại, đầu khẽ ngẩng lên, đôi mắt sau cặp kính thâm sâu khó đoán. Anh trầm ngâm một lát, rồi chậm rãi nói: “Làm ăn, cưa gái, cả hai đều không bỏ qua.”
“Hiểu rõ.” Tổng quản Lữ được rèn luyện rất bài bản, tuyệt đối không bao giờ nói thừa một chữ. Diệp Quán Ngữ lại cẩn trọng hỏi một câu: “Tình hình bên Chân Á thế nào rồi?”
“Đang gấp rút thu mua cổ phẩn lẻ thì đơn giản. Nhưng khó nhất là cổ phần trong tay thành viên nhà họ Lâm, ví như Lâm Duy, tuy rằng chưa từng tham gia vào việc kinh doanh với cả nhà nhưng để ông ta buông mười hai phần trăm cổ phần của mình là rất khó khăn.”
“Lâm Duy, Lâm Duy...” Diệp Quán Ngữ lẩm nhẩm cái tên Lữ Diệu Huy vừa nói, khẽ nheo mắt lại, giọng nói trở nên đanh thép, “Làm sao tôi lại quên con người này nhỉ? Năm xưa là lão biện hộ cho tên đó vô tội, vậy thì giờ xuống tay đi, tôi phải lóc sạch từng miếng từng miếng thịt của lão ta, cuối cùng đến cả xương cũng không để sót.”
“Vâng.” Tổng quản Lữ gật đầu.
Diệp Quán Ngữ khoát tay ngăn ông lại, tiếp tục dặn: “Còn nữa, phía viện số hai cũng phải tăng thêm người cho tôi, cẩn thận chú ý nhất cử nhất động bên đó, có tình hình gì lập tức báo cho tôi.”
“Vâng.”
“Mười mấy năm rồi, ngày mà ta đã đợi mười mấy năm rồi cũng tới, cuối cùng đã đến lúc quét một mẻ lưới lớn rồi đây.” Diệp Quán Ngữ đút hai tay vào túi quần, ngước đầu nhìn bầu ười u ám đang bị phủ kín mây đen, thở dài thườn thượt: “Quán Thanh, điều anh có thể làm đều làm rồi, em ở trên trời có linh hãy giúp anh một tay.”
Tổng quản Lữ nói: “Tổng giám đốc yên tâm, chỉ cần tóm được số cổ phần của Lâm Duy, chúng ta sẽ đường đường chính chính bước vào Ban quản trị Lâm thị.”
Diệp Quán Ngữ cười lạnh: “Điều này không phải vấn đề với tôi!” Nói rồi anh xoay người, liếc nhìn khu nhà chuẩn bị phá bỏ. Trên ban công của một nhà tầng ba có trồng mấy cây trà. Vào mùa này hoa trà vẫn chưa nở rộ, những chiếc lá xanh biêng biếc lại chứa đựng sức sống lạ lùng, vượt qua cá mùa dông buốt giá. Anh nhận ra đó là giống Trà my trắng, những bông hoa thuần khiết nở rộ trong xuân mới làm nao lòng người ngắm. Anh tự nói với mình: “Điều ta cảm thấy khó khăn nhất, là làm thế nào để cô ấy yêu ta. Cô ấy cũng là người bao năm nay ta vẫn mong nhớ.
“Anh rất nhớ em, Mạn Mạn.” Lâm Hy tươi cười, vừa nói vừa gắp hai viên đường cho vào ly cà phê của Thư Mạn, “Gần đây nhiều việc quá, mãi không có thời gian tới thăm em. Sức khỏe em thế nào rồi? Có cần đến chỗ anh để kiểm tra toàn diện không?”
“Không cần đâu, không sao mà.” Thư Mạn nhẹ nhàng lấy chiếc thìa khuấy vào tách cà phê, rồi đưa thìa vào miệng nếm xem đủ ngọt chưa, sau đó cầm tách lên nhấm nhấp, khen ngon không ngớt lời,”ừ, ngon thật, còn rất thuần chất...”
Lâm Hy lắc đầu cười: “Bao năm thế rồi, em vẫn không bỏ được thói quen đấy, uống cà phê lúc nào cũng nhấp thìa trước, chẳng thay đổi chút nào, vẫn như đứa trẻ vậy.”
Thư Mạn cũng cười: “Có những thói quen không thể nào đổi được. Mẹ em thường nói em không được nuôi dạy tốt, con bé nhà quê vẫn chỉ là nhà quê thôi, hết cách rồi.” Dứt lời cô lập tức khựng người lại, bởi từ “mẹ” vừa buột miệng nói ra khiến cô khá lúng túng. Bố mẹ và cô đã đoạn tuyệt quan hệ năm năm nay, cô gần như đã quên mất là mình còn có người nhà.
“Thư Mạn..”
“Anh sao rồi, cảm giác sau khi kết hôn thế nào?”
Lâm Hy sững người, thẫn thờ trong thoáng chốc: “Thì chỉ vậy thôi.”
Câu trả lời hời hợt, không thừa một chữ nào.
Lâm Hy đã kết hôn hai năm trước. Thư Mạn đã hơi bất ngờ vì trước đó bạn gái của anh là Hà Như có điều kiện rất tốt, Lâm Hy rất yêu cô ấy, còn thường đưa cô đến Đồng Thành chơi. Bỗng một ngày anh điện thoại báo cho Thư Mạn tin anh sắp kết hôn, Thư Mạn còn đoán chắc cô dâu là Hà Như, nhưng Lâm Hy lại nói không phải. Mãi đến ngày hôn lễ, Thư Mạn mới biết cô dâu Văn Uyển Thanh, nghe nói quen nhau bên Mỹ, từ lúc quen biết đến lúc kết hôn chỉ vẻn vẹn ba tháng trời. Lúc đó, Thư Mạn còn hỏi anh Hà Như đâu, anh chỉ cười, trả lời đúng một câu: “Yêu và cưới là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.” Lại nói: “Bất cứ người con gái nào yêu anh đều bất hạnh, còn bất hạnh hơn khi yêu anh trai anh.” Thư Mạn băn khoăn: “Tại sao?” Anh chỉ đáp: “Vì trước giờ anh chưa từng có được tình yêu mà anh muốn, chưa từng trải qua, cũng không có hy vọng.”
“Uyển Thanh thì sao, cũng không yêu?” Thư Mạn ngạc nhiên.
Lâm Hy ậm ừ: “Cô ấy là người gần nhất với tình yêu của anh, cho nên anh mới cưới cô ấy.”
Từ chuyện ấy, Thư Mạn cảm thấy Lâm Hy và anh trai anh là hai người hoàn toàn khác, không chỉ lý trí hơn anh trai mình, mà quyết đinh còn có phần lạnh lùng hơn. Thật ra nhìn anh rất nho nhã, phong độ, tính cách cũng rất hiền hòa, cho dù là giọng nói khi trò chuyện hay là nụ cười lúc nào cũng trầm ấm, đối xử với người khác rất chu đáo, lịch sự, từ nhỏ anh đã được giáo dục cẩn thận, nền giáo dục của xã hội thượng lưu được thể hiện một cách trọn vẹn trong con người anh.
Điều quan trọng là hiện giờ Lâm Hy là trụ cột của nhà họ Lâm. Tất cả hy vọng của nhà họ Lâm đều gửi gắm ở anh, Lâm Sỹ Diên mấy năm nay hết lòng bồi dưỡng Lâm Hy, trao hết trách nhiệm cao cả cho anh. Không có gì thay đổi, người nối nghiệp cho Lâm Sỹ Diên trong tương lai ngoài Lâm Hy ra chẳng còn ai khác. Lâm Sỹ Diên tuy còn có anh trai cả Lâm Duy, nhưng Lâm Duy lại không tham gia kinh doanh, chỉ chiếm một ít cổ phần, hơn nữa Lâm Duy chỉ có độc nhất một con gái Phi Phi, mà quy định của nhà họ Lâm, gia nghiệp chỉ truyền cho con trai, không truyền cho con gái. Lâm Duy không có người nối dõi chính là nguyên nhân ông không thể can dự vào sự nghiệp kinh doanh trong nhà.
“Mạn Mạn, thời gian này em phải cẩn thận, đừng tùy tiện nói chuyên với người bên ngoài.” Lâm Hy đột nhiên lại nhắc tới chuyện này, sắc mặt đầy nghiêm trọng.
“Sao hả anh?” Thư Mạn cười xòa, “Lẽ nào em còn sợ người khác giết người cướp của sao? Nghèo rớt mồng tơi như em bây giờ, trộm đến nhà em chẳng có gì đáng lấy, ngoài chiếc đàn ra.”
Chiếc đàn Steinway đó là của Lâm Nhiên để lại cho cô. Đó là một chiếc đàn cổ được Lâm Sỹ Diên mua từ những năm tám mươi của hãng bán đấu giá Sotheby ở New York tặng cho quý tử Lâm Nhiên của mình. Đối với Thư Mạn mà nói, ý nghĩa của chiếc đàn không nằm ở giá trị thật của nó, cô coi nó như bảo bối bởi nó là kỷ vật duy nhất Lâm Nhiên để lại cho cô, cô vẫn luôn coi trọng nó hơn chính mạng sống của mình.
Lâm Hy cúi đầu khuấy cà phê, giọng nói vẫn rất thận trọng: “Cẩn thận một chút vẫn hơn. Bây giờ xã hội loạn nhiêu, nếu có người nào không rõ lai lịch tiếp cận em, em đừng tùy tiện tin tưởng...” Nói đoạn anh ngẩng đầu hỏi về tình hình chỗ ở hiện tại của cô, “Nghe nói chỗ em ở sắp bị dỡ bỏ rồi, có dự định gì chưa?”
“Đúng là sắp dỡ rồi.” Thư Mạn nhìn Lâm Hy, lưỡng lự một hồi, cuối cùng cô vẫn hỏi, “Lâm Hy, trường piano Lâm Nhiên gần đây có mời em đi dạy, anh thấy chuyện này...”
“À, anh biết, là anh giới thiệu em cho họ”
“Là anh sao?” Thư Mạn rất ngạc nhiên.
“Ừ, hiệu phó Vi Minh Luân là bạn thân cúa anh. Gần đây họ đang tuyển người, anh nghĩ ngay tới em. Mạn Mạn, đây là một cơ hội tốt, em dừng bỏ lỡ. Em không cần lo người khác sẽ nói gì, vì anh có cổ phần trong trường, không ai dám bàn tán gì đâu. Hơn nữa, đó là trường của Lâm Nhiên, không ai có đủ tư cách vào đó dạy hơn em.” Lâm Hy thở dài, ngừng một lát mới nói tiếp, “Về Ly Thành đi, em cũng nên trở về rồi. Bố mẹ em đều đã lớn tuổi, họ đều đang mong em về.”
“Vậy sao?” Thư Mạn kéo dài giọng hỏi ngược lại, giọng điệu có chút châm biếm, “Việc sống chết của em đã không còn liên quan đến họ rồi, còn quay về làm gì? Trong mắt họ em là kẻ có tội...” Nói như vậy, nhưng nước mắt cô bất giác vẫn ứa ra, cô cố kìm nén để mình không khóc nhưng không được, “Anh không cần khuyên em nữa. Em một mình bấy nhiêu năm nay vẫn sống được. Cho dù chết, em cũng phải chết cho trong sạch, sẽ không liên lụy bất kỳ ai. Nhà đó sớm đă không có em nữa rồi.”
Lâm Hy thở ra nặng nề, mỗi lần nhắc tới chuyện này là một lần bế tắc, anh cũng không tiếp tục chủ đề này thêm: “Vốn ra chúng ta có thể ăn với nhau một bữa, nhưng anh lại phải đi đến nhà bác anh có chút chuyện, hôm khác chúng ta gặp lại được không?” Anh giơ tay xem đồng hồ, “Để anh bảo lái xe đưa em về..”
“Không cần đâu anh, anh bận việc cứ đi đi, em cũng đang định đi mua quyển sách.” Thư Mạn nói rồi đứng dậy, cầm ví chuẩn bị rời khỏi ghế, Lâm Hy nói: “Anh tiễn em.”
Thư Mạn xua tay liên hồi: “Không cần phiền thế đâu, anh còn khách sáo với em sao? Mau đi làm việc đi, dù gì em cùng đang nhàn hạ, vừa hay có thể đi dạo nhiều hơn.”
Lâm Hy thấy cô nói vậy cũng không nài ép thêm.
Khu Tây Uyển mà Lâm Duy đang sống trước đây là nơi ở cũ của nhà họ Lâm. Họ có rất nhiều tổ nghiệp ở Ly Thành và Đồng Thành, Tây Uyển cũng chỉ là phần nhỏ trong số đó. Một gian tứ hợp viện cổ, trải qua năm tháng giãi dầu mưa nắng cũng đã bị xuống cấp ít nhiều, cây cối xung quanh um tùm, tách gian nhà khỏi thành phố náo nhiệt bên ngoài, thành ra ở đây vô cùng yên tĩnh. Với thực lực kinh tế của Lâm Duy thì có căn nhà sang trọng nào mà ông không thể ở? Chưa nói tới cổ phần ông có trong nhà họ Lâm, chỉ dựa vào thân phận luật sư lẫy lừng Giang Nam của ông cũng không thể xem thường. Vì vậy bà Phùng Tương Bình vợ ông ca thán không ngớt lời, nói ông là kẻ ngốc, có tiền mà không biết hưởng thụ, trong khi em trai Lâm Sỹ Diên ở Ly Thành thì ở nhà đẹp nhất nhì thành phố, dựa vào cái gì mà ông thân là con trưởng lại ở nơi heo hút xa xôi này. Lâm Duy thì không nghĩ vậy, ông trước nay vốn thích bình lặng, ngoài công việc ra rất ít khi ra khỏi cửa. Hiện giờ, ngay việc đến chỗ làm ông cũng ít đi, trừ khi có vụ án quan trọng, nếu không ông thường không dễ ra mặt.
Khi Lâm Hy vào cổng, Lâm Duy đang tỉa tót cây cối trong vườn. Xung quanh nhà tứ hợp viện vốn không lớn này trồng nhiều loại hoa, nhưng dễ nhìn ra Lâm Duy thích hoa nhài. Trong các loại cây hoa ông trồng phần nhiều đều là loài hoa này, hiện tại chưa phải là thời điểm hoa nở rộ, nhưng Lâm Duy vẫn rất chăm chút tỉ mỉ. Ông đeo kính lão, cầm cây kéo cắt tỉa tỉ mẩn từng lá, từng lá một. Sự nhẫn nại, cẩn thận của ông so với lúc hô mưa gọi gió trên tòa thật như của hai người hoàn toàn xa lạ.
“Bác ơi, bác đang bận ạ?” Lâm Hy bước vào cửa, thân thiết chào Lâm Duy.
Lâm Duy chỉ”ừ” một tiếng gọn lỏn, cũng không ngẩng nhìn, vẫn chú ý vào việc của mình, cũng không kêu Lâm Hy vào nhà ngồi, giống như anh vô hình vậy. Khi trước không phải như vậy, trong ba người cháu của mình người mà Lâm Duy yêu quý nhất chính là Lâm Hy. Ông thường gọi anh đến nhà ăn cơm rồi đích thân chỉ bảo học hành, chỉ hận nỗi anh không phải con trai ruột của ông. Cũng không biết từ lúc nào, hai bác cháu dần trở nên xa lạ, bên trong dĩ nhiên đã xảy ra rất nhiều chuyện, đến bây giờ, hai người chẳng khác nào người dưng nước lã. Chỉ có vợ ông Phùng Tương Bình nghe thấy tiếng liền từ trong nhà đi ra, cũng nhiệt tình chào hỏi Lại Lâm Hy: “À, Lâm Hy đến à, bao lâu không gặp cháu rồi, mau vào đây, đứng bên ngoài lạnh lắm.”
“Dạ thôi bác, cháu ở ngoài nói chuyện với bác luôn ạ.” Lâm Hy lịch sự cảm ơn.
“Vậy cháu đợi lát nhé, bác pha trà cháu uống.” Phùng Tương Bình nói rồi bước nhanh vào nhà.
Lâm Hy thấy bác gái bước vào liền bước tới bên cạnh Lâm Duy, hạ giọng nói: “Bác ơi, bác đã suy nghĩ kỹ chưa? Chuyện này gấp lắm rồi, người trong nhà đều đang rất sốt ruột.”
“Các người sốt ruột liên quan gì đến tôi! Đáng đời!” Lâm Duy không đếm xỉa đến Lâm Hy, ông cắt xoẹt một nhánh cây sau đó khom người lui về sau vài bước, ung dung ngắm lại thành quả của mình.
“Bác ơi, bác cũng là thành viên của gia đình mình...”
“Thế à? Một thành viên cơ à?” Lâm Duy lạnh lùng “hừ” một tiếng, rồi ông đứng thẳng người, ánh mắt chĩa vào Lâm Hy sắc như dao, “Bắt đầu từ ông nội đã không coi bác là một thành viên trong cái nhà này rồi. Hiện giờ, ngay cả chút cổ phần của bác mà họ cùng muốn cướp nữa à? Đây mà cũng gọi là coi bác là người trong nhà à?”
Lâm Hy vội vàng giải thích: “Không phải như vậy bác ơi, thực sự là có nguyên nhân của nó. Lỡ như cổ phần của bác bị lọt vào tay người ngoài, sự nghiệp nhà ta nguy cơ bị phá hủy toàn bộ... Cả nửa năm nay đã có người công khai thu mua cổ phiếu lẻ của chúng ta, còn đưa ra giá rất cao, rõ là đang muốn nhằm vào ta...”
“Vậy thì cũng chẳng liên quan đến bác, ai bảo bố cháu dạy ra một thằng con khốn kiếp như vậy, hại người ta tan cửa nát nhà, người mất tật mang, người ta đến báo thù cũng là chuyện sớm muộn!”
“Bác không thể nói như vậy được.” Lâm Hy nén giận cố để giọng nói của mình bình thường, “Bố cháu quản giáo không nghiêm nên Sam mới gây ra họa lớn như vậy. Nhưng năm xưa cũng chính bác đã biện hộ cho anh ấy vô tội...”
“Khốn kiếp! Mày lại dám nói chuyện với bác mày thế à? Mày đang trách bác phải không?” Lâm Duy vứt xoẹt cây kéo xuống, nổi trận lôi đình, “Nếu hồi đó bác không làm như vậy, người bị nhốt lại chính là mày! Mày lại còn không biết tốt xấu, cái thứ không có lương tâm, uổng cho bác đã từng coi trọng mày...”
“Bác ơi!”
“Mày cút ngay! về nói với ông già mày, tao chết cũng không bỏ cổ phần của mình, không phải vì tao lưu luyến gì mấy thứ vật ngoài thân đây, mà là vì tao không nuốt được cục tức này! Tao đã vì bố mày mà chịu nhẫn nhục hơn ba chục năm nay, nó không phải không biết. Thứ có thể nhường lại tao đã nhường hết rồi, giờ còn muốn tao thế nào?” Lâm Duy đùng đùng nổi giận khiến trán nổi đầy gân xanh, Phùng Tương Bình lúc đó vội từ trong nhà chạy ra, lo lắng kéo ông vào nhà: “Ông ơi, ông lại tức giận cái gì? Có chuyện gì không thể từ từ nói được hay sao? Ông xem huyết áp của ông...”
“Bà tránh ra! Để tôi nói rõ với nó!” Lâm Duy đẩy vợ ra một bên, hùng hổ bước tới trước mặt Lâm Hy, nhìn thẳng vào anh, đoạn nhấn mạnh từng chữ: “Lâm Hy, từ nhỏ bác đối với cháu thế nào, cháu thật sự không nhớ chút nào sao? Nếu như cháu biết nửa đời này bác phải chịu đựng những gì, cháu còn có thể hiên ngang đứng trước mặt bác nói chuyện như vậy không? Rất nhiều chuyện của người lớn, lớp trẻ các cháu chưa chắc đã hiểu. Đừng có lúc nào cũng đặt lợi ích của gia đình lên trước, trên đời này còn có rất nhiều thứ quan trọng hơn, đến lúc đó cháu hối hận cũng đã muộn! Tuổi bác cũng cao rồi, chẳng sống được vài năm nữa, hãy để bác yên ổn mà thực hiện tâm nguyện của mình, sống cuộc sống của mình... Coi như bác cầu xin cháu, có được không?”
Lâm Duy cố tình nhấn mạnh hai chữ “cầu xin”, ánh mắt ông đầy vẻ thống khổ khiến Lâm Hy lung túng, anh cắn răng, giọng run rẩy: “Bác ơi, bác đối với cháu thế nào sao cháu lại không biết. Từ nhỏ cháu đã bị bố lạnh nhạt chính bác đã cho cháu quan tâm, tình yêu thương của một người cha. Bây giờ cháu đã lớn, trách nhiệm trên vai nặng nề thế nào, có lẽ bác cũng biết, cháu cũng không thể làm khác được...”
“Cháu gánh bao nhiêu trách nhiệm như vậy làm gì? Cháu tưởng rằng bố cháu sẽ giao tất cả cho cháu à? Lâm Hy, đừng quá ngây thơ...”
“Ông ấy có thể không cho cháu, nhưng những gì thuộc về cháu chắc chắn cháu sẽ lấy lại!”
“Cháu cảm thấy cái gì là thuộc về cháu? Cháu thật sự biết được sao? Bác thấy cháu chẳng hề biết gì cả! Đang học kiến trúc yên ổn thì không học, lại chuyển học y. Cháu tưởng vậy thì cháu có thể có những thứ cháu muốn à? Lâm Hy, đời người có quá nhiều thứ ham muốn rồi, cháu phải hiểu rõ cái gì mới là dáng quý nhất chứ? Gia tài bạc tỷ ấy sao? Sống không mang tới được, chết không mang đi được, sau này cháu sẽ phải hối hận đây!”
“Bác, vậy điều bác mong muốn nhất lẽ nào là khiến cái nhà này tan nát, mất hết danh dự hay sao?” Lâm Hy không hề sợ hãi nhìn thẳng vào Lâm Duy, anh định nói thêm gì nhưng rồi lại thôi.
Lâm Duy lấp lửng: “Vừa bác nói rồi, bác đã nhẫn nhịn hơn ba mươi năm nay rồi. Giờ đến lúc bác cần hưởng cuộc sống của mình, chuyện của người lớn cháu không hiểu đâu...”
“Cháu không cần thiết phải hiểu, cháu chỉ biết chết cũng phải bảo vệ lợi ích của dòng tộc. Huống hồ bác còn bác gái và Phi Phi. Bác nên nghĩ cho họ một chút!”
Nói xong câu này, Lâm Hy chán nản quay người bước qua vườn hoa nhài um tùm đi thẳng ra cổng. Trước lúc ra anh lại quay đầu, lạnh lùng: “Cho dù bác không nhường lại cổ phần nhưng cháu cũng xin bác bảo vệ hoàn chỉnh cái nhà này. Cháu không cho phép bất cứ ai phá hoại gia đình của cháu, nếu không...”
“Nếu không thì sao?” Lâm Duy đứng thẳng người, đợi câu trả lời của Lâm Hy.
Lâm Hy cũng nhìn thẳng bác qua tầng hoa nhài trong vườn nói: “Không phải cháu đe dọa bác. Bác ạ, đến lúc này xin bác đừng trách cháu không nể tình bác cháu. Bác nên hiểu, người làm bác sĩ đã nhìn quá quen với cảnh sinh ly tử biệt rồi...”
Nghe thấy vậy, Lâm Duy chợt thấy rùng mình. Trong thoáng chốc ông cảm thấy như đất trời rung chuyển: “Lâm Hy, tao thật may mắn... vì mày không phải là con trai của tao..”
“Cháu cũng thấy may mắn thưa bác!” Lâm Hy mỉm cười công kích lại.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Năm năm sau, Đỗ Trường Phong lấy lí do chữa bệnh để sang Nhật du học, sau khi tốt nghiệp Lâm Sỹ Diên lại đón anh trở về, tuyên bố với mọi người rằng bệnh của anh đã được chữa khỏi, không phải ở trong Nhị Viện nữa. Điều đó đồng nghĩa Đỗ Trường Phong được “tự do”. Nhưng rất kì lạ là, anh chưa bao giờ cảm thấy mình thực sự được tự do, anh có thể đi bất cứ nơi nào trên thế giới nhưng cho dù đi đến nơi đâu lòng anh trước sau vẫn không tài nào thoát khỏi được cái bóng của Nhị Viện.
Dạo chơi bay nhảy suốt một thời gian bên ngoài, dần dần anh chẳng còn hứng thú gì nữa, sau cái ồn ào náo nhiệt anh lại chọn về với sự bình yên. Anh vẫn chuyển về Nhị Viện, sống cuộc sống nửa ẩn cư. Đương nhiên, anh không trực tiếp sống trong Nhị Viện mà mua lại ngôi nhà trong Nhị Viện trước kia anh ở, xây lại thành một sơn trang, cách ly với Nhị Viện bằng cái hồ nhân tạo ấy.
Từ khía cạnh này có thể thấy, tinh thần anh vẫn loanh quanh bên Nhị Viện. Anh cũng không biết tại sao mình lại không nỡ chuyển đi khỏi nơi đó, theo lý mà nói thì đáng lẽ anh sẽ phải cao chạy xa bay mới đúng. Có lẽ vì trước sau tinh thần anh vẫn chưa được giải thoát thực sự nên cho dù có chạy đến đâu cũng vẫn giống như đang bị cầm tù, mà Nhị Viện thì chứa đựng quá nhiều tâm huyết của anh, cũng lưu giữ rất nhiều hồi ức về tuổi thanh xuân xưa của anh.
Nhị Viện nghiễm nhiên đã là một cái “tổ” của Đỗ Trường Phong.
Trải qua mười năm xây đi sửa lại, Ngọa hổ sơn trang giờ đã trở thành một khuôn viên gồm cả sân và nhà rộng rãi, độc lập, khác biệt với viện xá kiểu Tây khác trong Nhị Viện. Đỗ Trường Phong thích phong cách kiến trúc Trung Quốc, hai bên nhà, mỗi bên anh xây một dãy lầu nhỏ kiểu Trung Hoa gạch xanh ngói xanh, một bên đặt là Sơn Hải Cư, một bên thì đặt là Hải Đường Xá, mỗi bên đều có hành lang và cầu với những rương cột trạm trổ công phu bắc nối liền hai dãy lầu với nhau, quay thành một khuôn viên rộng lớn. Phía sau khuôn viên đó là rừng trúc rậm rạp với diện tích rất rộng, nối liền với rừng phong bên ngoài Nhị Viện, cảnh tượng hùng vĩ đẹp đẽ. Sao lại trồng trúc? Bởi vì Đỗ Trường Phong thích nghe tiếng lá trúc xào xạc bay mỗi khi gió thổi tới, âm thanh ấy thật đặc biệt, nó khác với âm thanh của những loài cây khác phát ra, thoạt đầu mới chỉ là tiếng xào xạc nhè nhẹ, rồi sau đó theo làn gió lướt qua, gió thổi đến đâu cả một vùng lá xào xạc đến đấy, thế rồi cả rừng trúc chìm vào một biển âm thanh xào xạc, lúc trầm lúc bổng, rất có giai điệu, vì thế mà nó mang lại cho anh rất nhiều cảm hứng sáng tác. Một đạo diễn người gốc Hoa nào đó của Hollywood đã từng quay một bộ phim võ hiệp đạt giải Oscar, trong đó có cảnh quay một trận quyết đấu trong rừng trúc kinh điển, một người bạn nước ngoài của Đỗ Trường Phong nhìn thấy cảnh đó trong phim đã kinh ngạc thốt lên, đây chẳng phải khu vườn sau nhà Sam hay sao?
Lần đầu tiên đến đây, Vi Minh Luân đã ngưỡng mộ vô cùng, có nói đây là chốn bồng lai tiên cảnh cũng chẳng ngoa, còn nói cái ông đạo diễn Lý gì gì đó phải trả tiền bản quyền cho Đỗ Trường Phong, rõ ràng là “đạo” y nguyên bản mẫu rừng trúc trên núi sau nhà anh. Đương nhiên, đây chỉ là những lời nói đùa mà thôi. Khi đó hai người vừa đi du học ở Nhật trở về, Đỗ Trường Phong đưa anh đến Nhị Viện chơi, đi đến đâu miệng anh bô bô đến đấy, ngay cả cái từ “Baka Aho” (tiếng Nhật nghĩa là thằng khốn, thằng điên) cũng buột mồm phun ra, ý là Đỗ Trường Phong dựa vào cái gì mà được sống ở một nơi tuyệt vời như thế này chứ!
“Nếu là ở xã hội cũ thì có thể nuôi thêm rất nhiều vợ bé nữa.” Đây là điều đầu tiên Vi Minh Luân nghĩ đến.
Lúc đó, Đỗ Trường Phong gật đầu, vẻ rất thản nhiên: “Ý kiến không tồi đấy chứ?” Rồi lại phá lên cười ha hả. Sau khi được Vi Minh Luân góp ý, Đỗ Trường Phong đặt cho khuôn viên của mình một cái tên rất chi võ hiệp “Ngọa hổ sơn trang”, ý nghĩa rất rõ ràng, trong sơn trang này có một con “hổ”, tốt nhất là đừng có động vào nó, không thì một khi nó mà nổi cơn thịnh nộ thì không đơn giản chỉ là ăn thịt người thôi. Lần nào giới thiệu với mọi người về cái sơn trang này Vi Minh Luân cũng đều nói như vậy, sau lại còn thêm một câu đầy ẩn ý, “Là một con hổ đực đấy!”
Ai đến thăm nghe chuyện đó cũng phải phá lên cười.
Thế là kiểu gì cũng có người trêu Đỗ Trường Phong: “Sam, bao giờ thì cái sơn trang này của cậu mới nuôi thêm một con hổ cái nữa thế hả?”
Đỗ Trường Phong trả lời: “Hổ cái thì phải nuôi bên ngoài chứ, không đem về được, một núi thì làm sao có hai hổ được?”
Câu đấy thì đúng là đùa cho vui thật, nhưng chính xác là Đỗ Trường Phong không bao giờ đem phụ nữ vào sơn trang, muốn phong lưu thì ra ngoài mà phong lưu, anh cũng không thích bạn bè đem bạn gái đến nơi này, anh nói sơn trang này là nơi dành cho đàn ông, phụ nữ mà đến thì chỉ sợ không có đường sống mà về nữa. Sau anh còn bổ sung thêm một câu: “Nhưng nếu có kẻ chủ động dâng người đến miệng cọp thì tại hạ đây quyết không chối từ.”
Từ đó “Ngọa hổ sơn trang” nổi danh khắp nơi.
Mấy năm gần đây, Đỗ Trường Phong chẳng chịu ra ngoài mấy, mỗi lần hội họp gì với bạn bè anh đều mời họ đến chỗ mình, gọi bạn gọi bè đến tụ tập uống rượu, đến giờ nghỉ của bệnh viện muốn tiễn khách cũng không khó. Mà những người đến sơn trang thì đa phần đều là những người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ, trông Đỗ Trường Phong có vẻ giao du rộng rãi với nhiều người nhưng thực ra lại rất kén chọn, không phải ai cũng làm bạn được với anh. Lại thêm phần tính tình anh cổ quái, chẳng giống ai, có lúc thậm chí còn ngạo mạn vô lễ, người bình thường chắc không ai chịu nổi. Nếu không hợp nhau thì Đỗ Trường Phong sẽ chẳng bao giờ mời người ta đến sơn trang, nếu là do bạn anh dẫn đến, lần đầu không hợp thì đừng nghĩ đến chuyện tới đây lần thứ hai. Vậy nên những người hay lưu lại nơi đây cũng chỉ loanh quanh có vài người, Vi Minh Luân thì gần như một nửa thời gian của anh là ở đây, hễ Đỗ Trường Phong ở trong sơn trang là sẽ không bao giờ cho anh cơ hội sống cô đơn một mình, những năm qua hai người cứ sống bên nhau suốt. Đỗ Trường Phong rất thích bạn bè đến “quấy nhiễu”, vì điều đó sẽ khiến anh quên mất nơi đây là nơi có liên quan đến những kẻ điên, anh sẽ quên mất mình cũng là một “thằng điên”, anh sợ phải yên tĩnh một mình, hễ tĩnh lại là anh lại nghĩ ngợi lung tung.
Tất cả về quá khứ, về tương lai, anh đều không muốn nghĩ ngợi gì hết cả. Chỉ một chút, một chút thôi cũng không muốn.
Về chuyện hủy bỏ buổi biểu diễn, Vi Minh Luân rất tức giận, vì có gọi điện tới thì anh chủ động tắt máy. Hết cách, Vi Minh Luân đành núp bóng nhờ Thư Mạn đến, lại điện đến sơn trang trước cho ông Lương, “Nhờ chú nói với cậu ấy rằng, có một cô gái tướng mạo xinh như hoa muốn đến thăm cậu ấy, hỏi cậu ấy có gặp hay không?”
Ông Lương tuy đã nghỉ hưu ở Nhị Viện nhưng Đỗ Trường Phong rất quý ông, lại mời ông về sơn trang làm quản gia, trong sơn trang, ngoài ông Lương ra thì chỉ có bà La là những người làm những việc vặt trong nhà, tính tình phong thái rất thanh tịnh. Ông Lương đã thân quen với Vi Minh Luân, nghe nói có phụ nữ đến sơn trang thăm Đỗ Trường Phong liền cười phá lên trong điện thoại: “Chắc chắn là không gặp rồi, cháu cũng không phải là không biết Kỳ Kỳ vốn không thích đàn bà con gái đến sơn trang rồi, đúng không?”
Vi Minh Luân như đã dự tính trước, liền đáp: “Nhưng đây không phải là một phụ nữ bình thường, mà là người tình trong mộng của cậu ta.”
“Có là phụ nữ gì thì nó cũng không gặp đâu, trong lòng nó chỉ có mỗi con ngỗng mái nuôi từ mười mấy năm trước thôi.”
“Chú ơi là chú, là thiên nga đấy chú ạ, cái gì mà lại là ngỗng mái…” Vi Minh Luân đến phải dở khóc dở cười: “Nhưng chú cứ nói đúng như thế này là được, người đến sơn trang chính là con thiên nga trong lòng cậu ta, tên là Thư Mạn, chú cứ nói thế là được.”
Ông Lương truyền đạt lại y lời Vi Minh Luân lại cho Đỗ Trường Phong, lúc đó anh đang vẽ tranh trong thư phòng, vừa mới nghe thấy cái tên Thư Mạn liền lập tức gác bút xuống, gửi tin nhắn cho Vi Minh Luân: “Anh đảm bảo là cô ấy còn đường sống mà về sao?”
Vi Minh Luân vừa cười ha hả vừa nhắn tin trả lời: “Tôi sẽ dặn chú Lương phải cho cậu ăn no trước đã, rồi mới đem cô ấy đến.”
“Thế thì cứ đến đi.” Đỗ Trường Phong cụt lủn nhắn lại.
Thế là Vi Minh Luân đưa Thư Mạn đến Ngọa hổ sơn trang, đương nhiên, Thư Mạn chẳng biết gì về những tin nhắn riêng tư giữa anh và Đỗ Trường Phong cả, “Cuối cùng thì cô ấy cũng đã đến…” Đỗ Trường Phong thở dài, gần như không ngủ được. Anh mong được gặp cô, lại sợ gặp cô. Đối mặt với cô, anh luôn cảm giác mình thật bất lực.
Thư Mạn đến vào lúc chập tối, bữa tối khá đơn giản, ăn xong Đỗ Trường Phong nói cô đến thư phòng bên Sơn Hải Cư nói chuyện, Ngọa hổ sơn trang vào mùa đông có vẻ rất yên tĩnh vắng vẻ, có thể nghe rõ tiếng xào xạc lên bổng xuống trầm trong rừng trúc sau nhà. Chập tối, khi cô vừa đến đây thì có mưa nhỏ, tiếng mưa, tiếng gió hòa với tiếng xào xạc trong rừng trúc buổi chập tối vắng lặng nghe thật thi vị. Dự báo thời tiết nói tối nay có thuyết rơi, chẳng biết có phải thật hay không.
Mặc dù bên ngoài gió lạnh cắt da cắt thịt nhưng trong phòng bật máy sưởi nên lại rất ấm như đang giữa mùa xuân, xung quanh bốn bức tường có ba bức kê giá sách, gỗ lê vàng màu sậm trông rất có phong cách và thư thái. Thư Mạn nhận ra loại gỗ đó, rất hiếm và đắt đỏ, giá sách của bố cô cũng được làm bằng chính loại gỗ lê vàng này. Khắp phòng toàn mùi mực giấy. Trên song cửa sổ có điêu khắc hoa văn lại dán bức tranh giấy cắt hình hoa mai, giữa phòng bày một bộ sô pha bằng gỗ đàn hương, dáng ngồi mềm mại thoải mái, trên bàn uống trà còn đặt một cốc trà xanh đang bốc hơi nóng, hương trà hòa quyện vào cùng với mùi mực tàu khiến Thư Mạn đang mệt vì đường xa bỗng nhiên thấy dễ chịu hơn hẳn.
Thế rồi, hai tiếng đồng hồ trôi qua, Đỗ Trường Phong cũng đã chẳng có ý muốn “nói chuyện”, chỉ lo đứng trước cửa sổ đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, không biết là anh đang suy nghĩ điều gì.
“Trà nguội cả rồi này.” Thư Mạn phá vỡ bầu không khí yên lặng, nhắc nhở anh, rằng cô ngồi khô cả họng lâu lắm rồi.
“Nguội rồi thì tự đi mà rót thêm vào, trong ấm có nước sôi đấy.” Đỗ Trường Phong nói với cái vẻ chẳng thèm bận tâm. Anh mặc chiếc áo ngủ dài vải nhung màu xanh lam, ngồi xuống đối diện với Thư Mạn, bộ dạng lười nhác nhưng cũng rất ngang tàng. Thư Mạn rất ít khi nhìn thấy ai mặc áo ngủ mà trông cũng phong độ tự nhiên như vậy.
“Tôi nói rõ với cô trước, cô đến chơi cũng được, nhưng nếu muốn nhắc đến buổi biểu diễn thì cô nên đi khỏi đây thì hơn, đừng nên ở lại làm gì dù chỉ một phút…” Thư Mạn không nói gì, anh đã rào trước phủ đầu rồi, đó là tác phong xưa nay của anh. Lần trước trong chung cư Hải Đường Hiểu Nguyệt anh cũng vậy, cũng ra chiêu này với cô, khiến người ta trở tay không kịp. Thư Mạn đang trợn tròn mắt nghĩ xem nên phản kích thế nào thì anh lại bàn, tay cầm con dao cạo râu tự động rà rà cạo râu, mắt chẳng thèm nhìn cô một cái, “Chuyện gì mà tôi đã quyết định rồi thì sẽ không bao giờ thay đổi đâu, cô đi đi.”
Vốn dĩ cách nhìn của Thư Mạn về anh đã có chút thay đổi tốt, nhưng không ngờ anh lại không biết tốt xấu đến như vậy, cô chỉ hận một nỗi không thể cầm cốc trà lên hất thẳng vào mặt anh.
Lúc này, anh đã cạo râu xong, cố ý để chân lên bàn uống trà, chiếc dép lê mặt gấm dài ngoe nguẩy như trêu ngươi Thư Mạn, thật huênh hoang vô đối. Thư Mạn biết là anh cố ý làm thế để khiêu khích sự nhẫn nại của cô nhưng cô cũng không đủ nhẫn nại để phí thời gian với anh, cô nhìn thẳng vào anh, cất tiếng nói nhỏ như tiếng muỗi vo ve: “Vi Minh Luân có nói với anh không?”
“Nói gì?”
“Có lẽ, tôi chẳng sống được bao lâu nữa.”
“…”
“Có khi ngay cả mùa xuân năm sau như thế nào tôi cũng chẳng còn được thấy nữa.” Thư Mạn thất thần nhìn giá sách trên tường phía sau lưng anh, hơi bặm môi, cố gắng giữ sao cho tiếng nói mình thoát ra được nhẹ nhàng bình tĩnh, “Tôi biết, người như tôi thì chả có tư cách gì đòi có được sự đồng cảm từ ai cả, nhưng trong lòng lại không thể nói là không có gì tiếc nuối. Ban đầu, Vi Minh Luân khuyên tôi lên sân khấu biểu diễn tôi đã từ chối, nhưng sau khi tôi biết được ngày chết của mình không xa nữa trong ánh mắt của bác sĩ, tôi lại điên cuồng muốn được biểu diễn. Cuộc đời này chẳng còn cơ hội nào như thế nữa, tôi muốn có một màn kết hoàn hảo cho cuộc đời mình, tiễn đưa bản thân mình trong âm nhạc…”
“…”
“Tôi không thể cầu xin ai khác, chỉ có thể cầu xin anh, hãy cho tôi cơ hội này, để tôi chết trên sân khấu cũng được, cho dù tôi không có tư cách được chọn cách thức chết của mình, nhưng tôi vẫn hi vọng anh có thể cho tôi…”
“Câm miệng lại!”
Cuối cùng thì anh đã ngắt lời Thư Mạn, đôi lông mày cau có, môi mím chặt, ánh mắt như hai lưỡi dao sắc lạnh đến lóa mắt, cứ như thế nó vừa được rút ra từ trong thân thể anh, sau đó đâm vào cô vậy, như thể muốn cô đi đến chỗ chết, “Tôi sẽ không bao giờ cho phép cô chết trước mặt tôi, để tôi phải tưởng nhớ cô cả đời được! Tôi sẽ không bao giờ cho cô có được cơ hội ấy!” Anh bỗng nhiên gào lên, những sợ đinh râu trên cái cằm vừa cạo xong bỗng nổi hết cả lên, như thể sẽ đâm toạc lớp da mà nhô lên bất cứ lúc nào.
“Nhưng anh không phải là Thượng đế, anh không thể thao túng mạng sống của tôi được!” Thư Mạn cũng gào lên.
“Tôi chính là Thượng đế, là Thượng đế của một mình cô!” Anh cũng gào lên, đôi lông mày rậm cau lại, nếu không phải là người hiểu anh thì chắc sẽ chết khiếp vì cái bộ dạng này của anh. Nhưng Thư Mạn biết cái tính xấu này của anh, cũng không thể găng với anh lúc này được, chỉ có thể nói với cái giọng đau thương buồn bã: “Được, nếu anh là Thượng đế của tôi, vậy anh hãy nói cho tôi biết, đã đến nước này rồi thì tôi phải làm thế nào? Biết rõ ngày tháng của mình chẳng còn dài nữa, nhưng lại không muốn chết một cách yên lặng như thế này. Tôi không phải là Trương Ái Linh, bà ấy cả đời huy hoàng, cả đời làm nên truyền kỳ nên mới có thể chết một cách yên tĩnh trong phòng ngủ của mình. Còn tôi, cuộc đời mà trước kia tôi đã từng trải qua ấy, cũng đã đủ hồ đồ lắm rồi, sao đến khi chết, ngay cả tâm nguyện cuối cũng cũng không thể thực hiện chứ?”
“Cô đừng có giở cái bộ mặt đáng thương ấy ra với tôi, muốn tôi đồng cảm với cô chắc? Không có đâu!” Anh lập tức xuyên thấu tâm tư cô, khuôn mặt sắc nhọn như dao, đường nét cứng rắn, không có một chút gì có vẻ nhượng bộ, “Tôi còn đang muốn hỏi cô đây, tôi đã đi đến bước đường này rồi, tôi nên làm thế nào? Tội lỗi mình gây ra không thể sửa chữa được, mầm tại họa gieo xuống mà không thể nào nhổ lên được, đối mặt với kẻ đã ngấm ngầm theo dõi mình suốt hơn mười năm trời, cô nghĩ rằng anh ta sẽ buông tha cho tôi sao? Đúng, tôi chính là tội phạm giết người, nhưng tôi cũng là một nhạc sĩ, tôi không thể tập trung chơi đàn trước con mắt dò xét không có gì là thiện cảm của anh ta…”
“Những điều đó chẳng quan trọng, quan trọng là anh nhìn nhận bản thân mình như thế nào, không đúng sao? Cũng giống như bản thân anh vừa nói đấy, anh là một nhạc sĩ, đúng vậy, nhưng phải làm như thế nào mới chứng minh bản thân mình là một nhạc sĩ chứ? Chẳng lẽ chỉ là ra một vài đĩa nhạc, cả đời trốn thui trốn lủi trong một góc không dám lộ diện? Anh trốn ở đây thì có thể chứng minh được gì chứ? Điều đó chỉ khiến người ta nhìn thấy sự yếu đuối và hèn nhát của anh thôi…”
Mặt anh sầm xuống, khuôn mặt gằn lên những góc cạnh, môi mím chặt giận dữ: “Cô cho rằng tôi hèn nhát?”
Thực ra trong lòng Thư Mạn sợ chết khiếp đi, nhưng vẫn cố nói ngang: “Chẳng lẽ… không đúng vậy sao?”
Câu nói ấy của cô thật chẳng khác nào dùng tay chọc vào tổ ong vò vẽ, anh dậm chân, cốc trà trên bàn trong giây phút bay tít ra đằng xa, vỡ vụn, “Cô muốn chết lắm có phải không? Bây giờ cô muốn chết có phải không?” Anh nhảy dựng lên, tóm tay Thư Mạn lôi ra ngoài cửa sổ, “Cô nhìn đi, cô ra mà nhìn đi, nhìn xem những năm qua tôi đã phải sống như thế nào! Sống không bằng chết, nhưng tôi vẫn sống đấy, cô có tư cách gì mà nói tôi hèn nhát, yếu đuối? Cuộc sống địa ngục mịt mù tăm tối bao năm qua tôi đã phải trải qua ấy, cô biết gì mà lại dám lớn tiếng nhìn nhận về con người tôi như vậy sao?”
Anh đẩy cửa sổ ra, túm cổ áo Thư Mạn dí ra ngoài bệ , tay chỉ những người điên bên kia hồ rồi gào lên: “Cô đã nhìn thấy chưa, tôi đã từng bị nhốt trong phòng giống như những người điên kia đấy, nhốt năm năm liền đây! Sống không được, chết cũng không xong, rốt cuộc là vì cái gì kia chứ? Chính là để đợi anh ta đến, tôi biết nhất định anh ta sẽ đến, tôi ở đây đợi anh ta, cô nói xem điều đó cần dũng khí lớn đến thế nào, hả? Nếu tôi không đủ kiên cường thì đã trốn đi thật xa thật xa, hoặc biến thành một thằng điên thực sự từ lâu rồi!... Vậy mà cô lại còn nói tôi yếu đuối, tôi hèn nhát sao?”
Anh thở mạnh một cái, buông tay ra khỏi Thư Mạn, cúi bò cả người lên bệ cửa sổ, giọng nói bỗng khàn đục trầm hẳn xuống: “Nhưng cô không hiểu, từ đầu đến cuối cô vẫn không hiểu, tôi bắt mình phải kiên cường đối mặt với tất cả những điều này, cũng chỉ là để có một ngày… một ngày em có thể nhớ đến… hoặc có thể thật ra trong mắt em tôi chẳng là một thằng khốn nạn nào cả… nhưng em lại chỉ nhớ đến Lâm Nhiên. Em coi tôi là thằng khốn, em mắng tôi là thằng khốn bao nhiêu năm nay, nhưng lại quên mất một lần quan trọng nhất ấy. Tôi khổ sở chịu đựng suốt mười mấy năm qua cho đến ngày hôm nay, nhưng em không những không cho tôi một lời giải thích, mà lại còn xem tôi như một kẻ hèn nhát yếu đuối. Đúng là tôi đã từng chạy trốn trước mặt em, nhưng điều đó không có nghĩa tôi là một kẻ hèn nhát… Em không nhớ thì thôi, nhưng ít nhất cũng nên cho tôi một lời giải thích chứ, ít nhất là không được chết trước mặt tôi.”
Nói đoạn Đỗ Trường Phong lại nắm tay Thư Mạn, nắm rất chặt, một giọt nước mắt lớn trào ra từ khóe mắt rơi xuống mu bàn tay Thư Mạn. Anh ngước mắt lên nhìn cô, khóe miệng cũng nhếch lên, dường như muốn cười, nhưng lại như thể bị động đến vết thương cũ, đau đớn đến độ khắp mình run rẩy. Dù anh đau đớn là thế, nhưng vẫn siết chặt tay Thư Mạn, như thể sẽ không bao giờ buông ra được, anh nhỏ nhẹ gọi tên cô: “Thư Mạn, thế nào thì em cũng phải cho tôi một lời giải thích…”
Một buổi chiều mười ba năm về trước.
Đỗ Trường Phong không thể không khâm phục Lâm Sỹ Diên, chẳng biết ông làm thế nào mà kiếm được hai con thiên nga về cho anh thật. Toàn thân lông trắng muốt không tì vết, thuần khiết như thể nó là đồ vật của trời vậy.
Hai con thiên nga lập tức được thả nuôi trong hồ nhân tạo. Quả đúng là một cảnh đẹp hiếm thấy, trên mặt hồ xanh ngọc trông vắt, hai con thiên nga vươn dài cái cổ trắng muốt nho nhã bơi đi bơi lại trên hồ, bóng của chúng phản chiếu dưới mặt hồ lại được đám cỏ ven hồ làm nền càng làm cho cảnh họ đẹp như tranh vẽ. Đỗ Trường Phong ngắm đến ngẩn cả người. Ông Lương nhân cơ hội đó nói với anh, Viện trưởng Lâm đã phải nhờ người đi tận Cam Túc chọn từ hàng ngàn hàng vạn con mới chọn được cặp thiên nga này, giống tốt, khả năng thích nghi cao, lại là một đôi trống mái, nói không chừng năm sau lại có thể có thêm một con thiên nga con nữa.
“Đôi trống mái?” Đỗ Trường Phong nhướn mày ra vẻ ngạc nhiên rồi sau cũng gật đầu lia lịa, “Tốt lắm, tốt lắm.” Ngưng lại chốc lát, rồi lại hào hứng nói, “Sau này gọi cái hồ này là hồ Thiên nga đi, đừng gọi là hồ nhân tạo, khó nghe chết đi được. Còn về hai con thiên nga này thì cũng phải có tên mới được, ông Lương, nói xem nên đặt tên cho chúng là gì?”
“Cái này, tôi làm sao biết được…” Ông Lương vò đầu khó xử, Đỗ Trường Phong đứng lặng người nhìn hai con thiên nga, bỗng hỏi: “Con nào là con trống?”
“Chính là con ấy…” Ông Lương chỉ con có cái đầu hơi to hơn một chút, nói, “Chính là cái con mà đầu hơi nhô nhô một chút ấy.”
Một cơn gió thổi đến.
Trong mắt Đỗ Trường Phong lóe lên một tia sáng ươn ướt.
“Gọi nó là Diệp Quán Thanh đi.” Anh nghẹn ngào nói, “Gọi nó là Diệp Quán Thanh…”
Ông Lương há hốc miệng, thẫn thờ hồi lâu không biết làm sao.
Đỗ Trường Phong lại quay lưng đi khỏi, chầm chậm bước lên lầu.
Bốn năm rồi, khi đó anh đã ở trong cái bệnh viện tâm thần này được bốn năm, mà cái người đã khuất rồi ấy, cái người mà nghĩ lại chắc giờ cỏ dại trên mộ đã mọc cao lắm rồi, mộ nằm trong nghĩa trang ngay bên cạnh Nhị Viện, Đỗ Trường Phong chưa đến thăm dù chỉ một lần. Lâm Nhiên nói, từ sau khi tòa án tuyên án, Diệp Quán Ngữ, anh trai của Diệp Quán Thanh đã chuyển đến ở Đồng Thành, không lâu sau mẹ anh ấy cũng qua đời, nhà họ Diệp lụi tàn từ đó.
“Mọi chuyện sẽ không qua đi như thế thôi đâu.” Hơn một lần Đỗ Trường Phong nói câu đó với Lâm Nhiên.
Làm sao mà có thể qua đi như thế được? Bốn năm qua, có ngày nào mà con người đó biến mất trong lòng anh đâu? Quảng thời gian bốn năm vẫn không thể nào khiến anh học được cách đối mặt, anh chưa bao giờ dám đến thăm ngôi mộ đó, mỗi lần đi đến lưng chừng núi anh đều dừng lại, không dám tiếp tục bước, dù chỉ một bước. Tiết thanh minh năm nào cũng đều là Lâm Nhiên thay mặt nhà họ Lâm đi tảo mộ.
Nhưng trốn tránh tuyệt đối không phải vì anh muốn thế, bởi anh luôn nhắc nhở bản thân mình, nhất định phải đối mặt. Gọi con thiên nga đó là “Diệp Quán Thanh” có lẽ là bước chân đầu tiên mà anh muốn tiến.
“Kỳ Kỳ, bố cháu về rồi đấy, lần này về định cư hẳn, cháu không về thăm bố sao?” Ông Lương ở tầng dưới gọi với lên.
“Ngày mai nhà cháu tổ chức tiệc tối, họ hàng nhà cháu đều sẽ đến cả, cháu cũng về đi chứ…”
Đỗ Trường Phong vờ như không nghe thấy, anh đang nghĩ nên đặt cho con thiên nga mái kia tên gì, nghĩ cả ngày rồi mà vẫn chưa ra được cái tên nào hợp lí.
Chiều hôm sau, anh ra hồ ngắm thiên nga sau khi đã tra cứu tài liệu, “Diệp Quán Thanh” thuộc loài thiên nga họ Jankowski, , mỏ vàng đen, thân hình đẹp, lúc muốn bay lên cổ nó vươn dài ra phía trước, chầm chậm vỗ đôi cánh, nó chạy một đoạn trên mặt nước hoặc trên mặt đất rồi mới bay vút lên không trung. Con thiên nga mái thì rõ ràng yên tĩnh hơn “Diệp Quán Thanh” nhiều, chẳng mấy khi bay, lúc bơi hay đứng một chỗ, nó thích để một chân ra đằng sau, hoặc cắm đầu xuống chỗ nước nông tìm ăn thực vật thủy sinh, cái bộ dạng tham ăn của nó khiên Đỗ Trường Phong không nhịn được cười.
“Diệp Quán Thanh” bay mệt rồi thì cuối cùng cũng dừng lại, nó bơi qua bơi lại trước mặt anh rồi vươn cao cái cổ lên, chẳng thèm liếc anh lấy một cái rồi lại từ từ bơi đến bên cạnh con thiên nga mái, lúc thì chạm mỏ nhau, lúc thì cụng đầu nhau, thân mật vô cùng. Đỗ Trường Phong thở dài: “Diệp Quán Thanh”, sao anh không lại đây? Bơi gần lại đây một chút, để tôi được ôm anh, hay xoa xoa cái cổ của anh cũng được… Tôi biết, anh còn hận tôi, nhưng anh cũng nhìn thấy rồi đấy, cảnh ngộ của tôi cũng chẳng tốt đẹp gì hơn anh, bị nhốt ở đây với một lũ người điên, chẳng biết sẽ bị nhốt đến bao giờ nữa…”
“Anh nhìn anh mà xem, bây giờ anh vui vẻ biết bao, làm thiên nga cũng tuyệt vời đấy chứ, có thể bay, thật tốt biết bao… Tôi cũng muốn bay, bay đi thật xa khỏi chốn này, cho dù có bị súng thợ săn bắn chết cũng còn hơn bị nhốt ở đây, sống không bằng chết thế này. Không phải là tôi chưa từng nghĩ đến việc đi tự thú, nhưng như thế sẽ liên lụy đến rất nhiều người, rất rất nhiều người, bao gồm cả bố và anh trai tôi… Tôi không phải là người ích kỉ, xưa nay đều không phải, trước kia họ đã vì tôi mà sống, bây giờ đến lượt tôi phải vì họ mà sống, tôi nợ họ, cũng chỉ có thể dùng cách này để trả nợ thôi.”
“Tôi lại càng nợ họ Diệp các anh, rất nhiều lần rồi tôi muốn trốn đi thật xa, thật xa, nhưng giữa đường lại quay trở lại, vì tôi còn phải đợi anh trai anh đến, nếu tôi chạy thật thì anh ấy sẽ không tìm được tôi… Tôi không muốn anh trai anh coi mình là một thằng hèn nhát… Tôi không sợ, nhất định tôi sẽ ở đậy đợi, cho dù sau này anh ấy có đòi món nợ này bằng cách nào đi chăng nữa, tôi nhất định sẽ không trốn tránh, khi một con người ngay cả cái chết cũng không còn sợ nữa thì lẽ nào lại sợ sống?”
“Có điều, anh ở bên đó sống có ổn không? Tôi biết gia đình anh chẳng giàu sang gì, không ai xây lầu tháp cho anh, khi cô đơn anh biết làm thế nào? Vậy nên mỗi năm tôi đều nhờ anh trai đốt thật nhiều tiền vàng cho anh, anh cũng cầm số tiền đó mà xây một tòa lầu tháp đi, những lúc cô đơn đứng trên lầu tháp nhìn ra xa rất thú vị, lại còn có thể ngắm sao, có thể nghe tiếng gió hát…”
“Diệp Quán Thanh” từ từ bơi gần về phía anh.
Chẳng lẽ nó lại hiểu lời anh?
“Ku ru… ku ru…” Nó rướn cái cổ về phía Đỗ Trường Phong kêu mấy tiếng, sau đó lại dang rộng đôi cánh bay lên, lượn vòng quanh hồ mấy vòng, rồi lại nhẹ nhàng đáp xuống mặt hồ, tiếp tục bám cạnh con thiên nga mái.
Hai hàng nước mắt Đỗ Trường Phong trào ra như suối.
Đỗ Trường Phong cứ tưởng mình sẽ không bao giờ rơi nước mắt nữa, nhưng đối mặt trước con thiên nga như thế này, anh vừa vui mừng lại vừa đau buồn đến nỗi không tài nào kiềm chế được cảm xúc của mình. Anh run rẩy dang đôi tay ra hướng về phía mặt hồ: “Diệp Quán Thanh, anh lại đây, hãy để cho tôi được ôm anh….”
Giờ đã là cuối thu rồi, gió se lạnh, anh chỉ mặc một mỗi manh áo sơ mi, đôi tay rét cóng lại. Nhưng anh vẫn cứ dang tay ra như thế, tóc anh phất phơ trong gió, nước mắt mặc ý chảy trên má, anh mặc kệ.
Dù vậy “Diệp Quán Thanh” vẫn chẳng thèm để ý đến anh, thế nhưng nàng thiên nga mái vẫn chưa đặt tên kia lại đang do dự, nó chầm chậm bơi lại phía anh, bơi đến tận hẳn bờ hồ.
“Ku ru…” Thật là, nó ngẩng cổ lên chào Đỗ Trường Phong. Đỗ Trường Phong hớn hở rạng rỡ hẳn lên, giơ tay vuốt lông vũ của nó, “Cô bạn tốt, mày nhận ra tao hay sao vậy, đúng là có nghĩa khí hơn ‘Diệp Quán Thanh’ nhiều, tao đã nói mà, Đỗ Trường Phong tao đây xưa nay rất có duyên với phái nữ, mày cũng thích tao có phải không?”
“Ku ru… u ru…” Con vật lại kêu mấy tiếng.
Đỗ Trường Phong cười phá lên, “Thật là giỏi quá đi, mỹ nhân ơi, tôi cũng thích em, tôi đã gặp phải tiếng sét ái tình rồi, nhưng mà, tôi nên đặt tên cho em thế nào cho hay đây nhỉ?” Anh vuốt cái đầu nhỏ và cái mỏ cứng của nó, có chẳng tỏ chút gì sợ hãi, thậm chí còn cúi đầu có vẻ thẹn thùng khiến nước mắt Đỗ Trường Phong vừa được lau khô trước đó lại trào ra vì vui sướng, “Được rồi, nhất định tao sẽ đối đãi thật tốt với mày, đợi tao nghĩ ra cái tên thật hay rồi sẽ lập tức nói cho mày biết. Nhưng bây giờ mày phải cho tao biết, tối nay tao có nên về thăm bố tao không? Nếu đi thì mày hãy ngẩng đầu, còn nếu không thì mày cứ tiếp tục cúi đầu thế này, được không?”
Như là một kỳ tích vậy, “cô nương” trầm ngâm trong giây lát rồi thong thả rướn cái cổ xinh đẹp của nó lên.
Miệng của Đỗ Trường Phong lúc đó đúng hệt hình chữ “O”: “Trời đất ơi…”
Nhà lớn của nhà họ Lâm ở số 9 phố Tử Đằng.
Trước khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa được thành lập, con phố này đã từng là địa tô của Pháp, khi đó sinh sống ở đây đều là những người có địa vị, những tòa nhà kiểu Tây thấp thoáng trong những khu sân vườn, những con đường lát đá xanh hai bên là ngô đồng, cho mãi đến tận ngày nay, đây vẫn là nơi hội tụ những con người có danh có tiếng. Trước đó, khu sân vương nhà họ Lâm bây giờ đã từng là nơi sinh sống của đại sứ Pháp, qui mô đương nhiên là to hơn một chút so với những khu sân vườn khác. Đầu tiên, ngôi nhà này là do cụ nội của Lâm Sỹ Diên mua, đến thời cách mạng văn hóa thì bị tịch thu, nhưng vì những cống hiến to lớn của Lâm Sỹ Diên đối với sự nghiệp từ thiện ở địa phương nên vào khoảng giữa những năm tám mươi, chính quyền trả lại nhà cho ông, coi như là một trường hợp đặc biệt.
Đêm đã khuya, con đường lát đá xanh trên phố ướt đẫm sương đêm, dưới ánh trăng trong như được phủ một lớp thủy ngân lấp lánh. Đỗ Trường Phong lòng đầy tâm sự, cứ lưỡng lụ mãi trước cổng nhà mình, vẫn còn chưa quyết có vào hay không. Nhìn xuyên qua cánh cổng hoa sắt, có thể thấy rất nhiều xe hơi hạng sang đỗ trong vườn, căn nhà bốn tầng kiểu Tây thắp đèn oa sáng choang, cách cả một cái sân rộng mà vẫn còn nghe được tiếng cười lớn ha hả của ai làm kinh động đến con chim nằm tổ trên cành cây, nó kêu “chiếp” một tiếng rồi bay vút lên trời hòa mình vào bóng trăng. Đỗ Trường Phong bất giác ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy mấy cây ngô đồng cao vượt mái tường, cành lá nhè nhẹ đung đưa trong gió, chiếu bóng một lưỡi trăng thu.
Bốn năm rồi, mọi thứ ở đây vẫn như cũ chẳng có gì thay đối.
Khi Đỗ Trường Phong đứng dựa tường và hút đến điếu thuốc thứ mười, anh quyết định hay là cứ vào trong xem thế nào, bốn năm rồi chưa về nhà lần nào, nói trong lòng không nhớ nhung gì thì đúng là nói dối. Nhưng anh không vào bằng của chính mà là nhảy qua tường rào vào, khi tiếp đất gây ra tiếng động hơi to một chút nên lập tức bị phát hiện. Dưới giàn nho trong vườn, trên chiếc xích đu có cô bé đang ngồi chơi, nghe thấy tiếng động, cô bé liền cảnh giác mò mẫm bước đến. Nhanh như cắt, anh lập tức núp vào sau gốc cây hương Chương cạnh tường rào.
Ánh sáng trong vườn hoa không được đầy đủ cho lắm, có quá nhiều cây cối che hết cả ánh trăng.
Cô nhóc nhìn ngó bốn phía xung quanh tìm kiếm mục tiêu, Đứng sau gốc cây, Đỗ Trường Phong nhìn cô rõ mồn một, chắc chỉ tầm mười lăm, mười sáu tuổi, buộc tóc đuôi ngựa, áo trắng váy đen, dưới ánh trăng trông cô xinh đẹp tuyệt trần, thanh thoát tựa hồ như một thiên thần rớt phàm, nhất là nước da của cô, được tắm dưới ánh trăng lại càng thêm nõn nà, tựa như thổi một viên đá vào cũng vỡ ngay ra được. Khi cô ngoảnh mặt khắp phía tìm kiếm, Đỗ Trường Phong nhìn thấy đôi mắt cô long lanh như hớp hồn vía người ta, Xưa nay anh chưa từng thấy đôi mắt nào đẹp khiến nhanh choáng ngợp đến thế… Còn cả chiếc váy mềm mại của cô nữa, phất phơ tung bay trong gió, tựa như con bướm đen bay trong màn đêm, mọi thứ bỗng nhiên cứ như trong mơ vậy.
Lòng anh như có sao băng xẹt qua, trong chớp mắt cõi lòng u ám của anh bỗng được chiếu rọi sáng trưng, tim anh loạn nhịp, như thể tiếng gọi của kiếp trước, nhẹ nhàng đến mang theo hạnh phúc và hi vọng mà anh đã mong ước từ lâu, khiến anh cứng đờ người ra, nhất thời quên mất bản thân mình đang ở chốn nào. Anh cứ đứng đó, khoảng cách chỉ có vài bước chân thôi, chỉ cách gang tấc dưới chân thôi nhưng vô hình lại vạch ra con sông rộng ngàn thước... anh không làm sao nhích chân bước qua nó được, không tài nào đường hoàng cao giọng nói “Tôi ở đây”. Nhưng, nếu thời gian có thể ngừng trôi ngay trong phút giây ấy, nếu tuổi tác bỗng chốc già đi, nếu có thể trong một cái chớp mắt bỗng nhiên biến thành đầu bạc, thì cho dù có phải mất cả đời để vượt qua khoảng cách giữa anh và cô, anh cũng không một lời oán thán.
Bởi vì, nhất định anh sẽ nhận ra cô.
Khuôn mặt quen thuộc như đã từng gặp ở đâu đó ấy, đôi mắt sáng khiến người ta không dám nhìn thẳng vào ấy, tất cả mọi thứ, cứ như thể anh đã gặp trong mơ, ngắm nhìn chăm chú trong mơ vô số lần rồi. Cô là ai?
Rốt cuộc thì anh không kiềm chế được khi cô bước gần đến gốc cây hương Chương, anh giơ tay bịt miệng cô. Cô sợ hãi run lẫy bẫy, anh ra hiệu cho cô không được lên tiếng, sau đó, cô quay mặt lại, đôi mắt đen láy nhìn anh chằm chằm, ngoài sự kinh ngạc ra đôi mắt ấy vẫn bình lặng như mặt nước hồ thu. “Cô bé này quả là gan dạ lắm đây.” Anh hỏi cô là nhóc người rừng nào vậy, không ngờ cô lại nói anh mới là nhóc người rừng, khiến anh hứng thú, anh muốn trêu đùa cô, một chút, nhưng cô lại mắng anh, “Đồ khốn, đồ lưu manh…” Khi anh chuẩn bị nổi giận cơn giận thì cô chạy biến mất, cô ngẩng mặt lên thì va phải một người, anh vừa nhìn là nhận ra đó là Lâm Nhiên, anh vội nấp vào sau gốc cây, trèo qua tường, cuống cuồng vắt chân lên cổ mà chạy...
Anh không hề biết chuyện gì xảy ra sau khi cô bé đó va phải Lâm Nhiên.
Cuộc đời có rất nhiều chuyện như vậy, sớm một bước và muộn một bước, khoảng cách không còn là gang tấc nữa mà là cả một chân trời. Tối hôm đó về đến Nhị Viện, anh phấn khích đến nỗi suốt đêm không ngủ, cả đêm ra hồ nói chuyện với “Diệp Quán Thanh” và nàng thiên nga mái kia. À đúng rồi, anh đặt tên cho con thiên nga mái kia là “cô bé”, bởi vì anh không hề biết tên của cô gái kia là gì, chỉ có thể gọi cô là “cô bé”. Vừa nghĩ ra cái tên này là anh chạy đến nói với con thiên nga mái ngay tức thì. “Cô bé, tôi không phải là thằng khốn đâu nhé, lại càng không phải là lưu manh, mặc dù có đôi lúc tôi cũng hơi khốn nạn thật, nhưng em không thể chửi tôi thế được, bởi vì... vì tôi sẽ đảm bảo rằng, trước mặt em nhất định tôi sẽ là một quân tử hơn cả những người quân tử. Em là con gái nhà ai thế, tim tôi chưa bao giờ loạn nhịp thế này cả, đôi mắt em sáng khiến tim tôi loạn nhịp, đến giờ vẫn còn chưa hết rộn rã, em nghe này...”
Anh vừa nói vừa chìa tay ôm thiên nga mái đang ngủ trong đám bèo rong ven hồ vào lòng, cứ thế, anh ngồi bên hồ nước, vươn người ra, nhẹ nhàng vuốt ve cái cổ dài của “cô bé”, “Tôi buồn lắm, 'cô bé' à, sao tôi lại cứ bị trói buộc ở cái nơi này, tôi không có tự do, không thể đưa em đi chơi khắp nơi, tôi biết nhiều nơi hay lắm, nhưng lại không thể đưa em đi, thậm chí tên em là gì tôi cũng không hề biết...”
Không biết là có phải nàng thiên nga mái đó buồn ngủ quá hay không, cứ nằm yên không động đậy, mặc kệ anh vuốt ve thân mật, thi thoảng kêu mấy tiếng rất nhỏ, như tiếng líu ríu thẹn thùng của thiếu nữ khiến Đỗ Trường Phong lại càng vui, quên hết tất cả. Dưới ánh trăng, con thiên nga mái khép hờ đôi mắt, đắm mình trong ánh trăng, đôi mắt đen nhánh ấy tựa như viên đá quý chìm dưới tận nơi sâu nhất đáy hồ, ánh lên tia sáng lấp lánh. Đỗ Trường Phong ngỡ ngàng phát hiện ra, đôi mắt ấy và đôi đôi mắt của cô bé dưới cây hương Chương quả là giống nhau đến kì lạ…
Thế là những ngày sau này, Đỗ Trường Phong luôn có việc để làm, suốt ngày chơi chung với hai con thiên nga, cho chúng ăn, chụp ảnh cho chúng, nói chuyện với chúng, và họ nghiễm nhiên đã trở thanh những người bạn thân thiết của nhau.
Nhưng xét về tình cảm, “Diệp Quán Thanh” dường như có vẻ lí trí hơn, mặc dù nó không hề từ chối những cử chỉ thân mật của anh nhưng lúc nào cũng giữ một khoảng cách, lúc gần lúc xa, nói chuyện với nó, nó cũng luôn tỏ vẻ không thèm ngó ngàng đến, chỉ lo nghịch nước với dang cánh bay lượn. Nhưng “cô bé” thì lại khác, chỉ cần Đỗ Trường Phong gọi một tiếng thì cho dù nó đang ở đâu, chơi vui thế nào thì nó cũng vẫn bay đến bên anh ngay lập tức, đôi cánh vỗ phành phạch tỏ vẻ vui mừng khôn xiết. Đỗ Trường Phong thích nhất được nói chuyện với nó, những chuyện trước kia chưa bao giờ anh nói, những bí mật chôn giấu trong lòng, anh đều nói hết với nó. Anh thích việc vừa vuốt ve cái cổ của nó vừa nói , chuyện như thế thôi cũng đủ cho anh thấy mãn nguyện vô cùng.
Anh thấy mình như đang “yêu”, chỉ một chốc không thấy “cô bé” là anh đã thấy nhớ cuống nhớ cuồng. Buổi tối đi ngủ anh luôn mở cửa sổ, vì sớm hôm sau thức giấc, việc đầu tiên anh cần làm là nhìn thấy bóng “Diệp Quán Thanh” và “cô bé” bơi trên mặt hồ thì anh mới yên tâm, hay dù có đang tắm trong phòng tắm anh cũng chẳng buồn nhìn gương nữa mà toàn nhìn ra mặt hồ phía ngoài của sổ. Ngay cả lầu tháp anh cũng không leo lên nữa, thay vào đó, lại nằm trên bãi cỏ ven hồ tắm nắng, đọc sách, chơi đàn, nói chuyện với “cô bé”, và đó là khoảng thời gian anh vui vẻ nhất trong ngày.
Ông Lương thấy thế cũng vui mừng hớn hở, thằng bé cuối cùng cũng yên ổn một chỗ, không chạy đi khắp nơi nữa, cũng không còn từ chối sự quan tâm của Lâm Sỹ Diên. Thi thoảng Lâm Sỹ Diên đến thăm anh, hai người còn có thể nói với nhau được vài câu. Lâm Sỹ Diên không tài nào hiểu nổi, tại sao hai con thiên nga lại có thể làm tan chảy cả núi băng ngăn cách giữa hai cha con ông, trong khi bao nhiêu công sức ông đã bỏ ra trước kia con trai ông đêu không hề đếm xỉa đến.
Hôm đó, Lâm Sỹ Diên lại đến Nhị Viện thăm con trai. Trời mùa thu trong và cao, ánh nắng rực rỡ, trong rừng nở đầy hoa cúc dại, đi vào trong rừng quang cảnh lại càng đẹp hơn, tâm trạng ông cũng vui vẻ hẳn lên. Hỏi tình hình của con trai, ông Lương nói: “Cậu ấy chỉ thích hai con thiên nga đó, một lúc không nhìn thấy chúng là không chịu được, mỗi ngày cậu ấy phải tự tay cho chúng ăn thì mới chịu đi ăn cơm, chỉ thiếu mỗi nước là ôm chúng lên giường ngủ cùng thôi.”
Lâm Sỹ Diên chỉ cười: “Thằng nhóc này, từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng suy xét kĩ càng về nó, không biết trong lòng nó nghĩ những gì mà những chuyện nó làm từ xưa đến nay chẳng giống ai bao giờ…”
“Nhưng Viện trưởng, chẳng lẽ ngài định để cậu ấy sống ở đây cả đời thật sao?” Cuối cùng thì ông Lương cũng nói thật ra nỗi băn khoăn lớn trong lòng mình.
Khuôn mặt Lâm Sỹ Diên bỗng chốc như bị phủ lên một lớp mây mù, đứng thẫn thờ hồi lâu, nhìn ra đằng xa, thấy cảnh đứa con trai yêu quý đang chơi đùa vui vẻ với hai con thiên nga, khóe mắt ông bỗng ướt nhòe đi. Một đứa trẻ khỏe mạnh như thế, thông minh tuyệt đỉnh là thế, vốn dĩ nó phải có một tiền đó rất sáng lạn, nhưng rồi lại phải chịu cảnh cả ngày sống cùng một lũ người điên thế này, không biết cả đời, hay còn bao lâu nữa…
Ông thở dài: “Cứ để xem thế nào đã, tôi cũng không muốn cứ thế này mãi.”
Nói xong ông đi thẳng đến đằng sau lưng con trai, khoảng cách chỉ có mấy bước chân, thấy anh đang nói chuyện với con thiên nga, ông ra hiệu cho ông Lương đừng gây tiếng động. Đỗ Trường Phong không hề phát giác được rằng có người đang đứng ngay sau lưng mình, vừa cho “cô bé” ăn vừa thì thầm:
“Cô bé à, em phải ăn nhiều vào mới được, dạo này em gầy lắm đấy, tôi ôm trên tay mà thấy nhẹ đi bao nhiêu. “Diệp Quán Thanh” cậu ta ăn nhiều hơn em, em nhìn cậu ta béo khỏe biết bao, tôi chỉ sợ hôm nào ông Lương sẽ bắt cậu ta đem vào bếp mà hầm mất, cái lão đấy không ít lần nói với tôi thịt thiên nga là món ngon nhất trần đời đấy… Nhưng em yên tâm, tôi tuyệt đối không cho phép ai động đến một cọng lông của các em, ngoài tôi ra, à cả anh trai tôi nữa, không ai được phép động tới hai em. Anh trai tôi… cái anh chàng này, đã lâu lắm rồi chẳng thấy đến thăm tôi gì cả, không phải là anh ấy yếu ai rồi chứ nhỉ? Nghe anh ấy kể, dạo này anh ấy thích một cô, anh ấy đang dạy đàn cho người ta đấy, có phải thích một người là muốn làm gì đó cho người ấy không, ví dụ như tôi cũng thích em, tôi muốn chơi đàn cho em nghe, còn muốn viết nhạc cho em nữa. Dạo này tôi viết nhiều bản nhạc, hay lắm…”
Bỗng nhiên anh dừng lại, vì thấy bóng người phản chiếu xuống mặt hồ… Ngoái đầu lại, thấy bố đang đứng sau lưng anh mỉm cười, bên cạnh là ông Lương mập, cũng đang nhìn anh tủm tỉm.
Anh chợt nổi đóa lên: “Sao lại nghe trộm người khác nói chuyện thế chứ?”
“Con không phải là người khác, con là con trai của bố!” Lâm Sỹ Diên tươi cười bước đến, ngồi xổm xuống, nhìn con thiên nga mà anh gọi là “cô bé”, “Ông Lương nói, con đang”yêu” con thiên nga này đấy hả?”
“Không liên quan gì đến ông!” Đỗ Trường Phong ngoảnh mặt đi không thèm nhìn bố, nhưng giọng nói cũng không phải là cứng nhắc.
Lâm Sỹ Diên luôn biết cách giữ khoảng cách với con trai một cách chừng mực, ông chuyển sang chủ đề về Lâm Nhiên, “Vốn dĩ anh trai con cũng muốn đến thăm con, nhưng dạo này nó nhận dạy một đứa học sinh, sắp phải đưa đi Nhật dự thi, bận quá không rời ra được…”
Đỗ Trường Phong cúi đầu, chỉ chăm chú vuốt ve cổ “cô bé”, nhưng Lâm Sỹ Diên biết anh vẫn đang nghe, nói tiếp: “Lâm Hy cũng đang chuẩn bị lấy bằng thạc sĩ, bài vở cũng bận rộn, nếu con thấy buồn thì ra ngoài cùng bố đi lại đâu đó đi. Sắp tới bố cũng định sang Hàn Quốc đàm phán một mối làm ăn…”
“Con không đi!” Đỗ Trường Phong ngay lập tức từ chối một cách dứt khoát.
“Bố chỉ sợ con buồn bực thôi.”
“Con không buồn bực gì cả, có ‘Diệp Quán Thanh’ và ‘cô bé’ ở cùng rồi, con không đi đâu hết!”
“…”
Cuộc nói chuyện giữa hai bố con lại rơi vào bế tắc.
Nhưng Lâm Sỹ Diên cũng không cố ép thêm gì, ông biết có thể nói chuyện với con ở khoảng cách gần thế này cũng đã không dễ dàng gì, ông không thể quá vội vàng được, nhất định phải cẩn thận, nếu không tất cả những nổ lực trước kia đều đổ xuống sông xuống bể hết. Nhưng đúng vào lúc ông quay lưng định bước đi, Đỗ Trường Phong khi nãy vẫn luôn cắm cúi cho thiên nga ăn giờ lại lên tiếng hỏi một câu, “Lâm Nhiên dạy học sinh nào vậy, xưa nay có bao giờ anh ấy nhận dạy ai đâu?”
“À, là con gái của bác Thư, em gái của Thư Khang…” Lâm Sỹ Diên rất vui mừng vì con trai chủ động hỏi mình.
Đỗ Trường Phong không nói gì, nhưng trong lòng lại dâng trào nỗi tò mò mãnh liệt, người con gái mà Lâm Nhiên thích trông như thế nào, anh cũng chưa bao giờ nghĩ tới người con gái đó mình đã từng gặp hay chưa. Lâm Sỹ Diên vừa đi, ngay chiều hôm đó anh liền nhắm có hội lén trốn ra khỏi Nhị Viện, chạy thẳng đến căn nhà nhỏ của nhà họ Lâm trên phố Đào Lý. Mới đứng trong vườn hoa dưới nhà mà đã nghe thấy tiếng đàn tang tính tang vọng xuống từ tầng ba, hiển nhiên không phải Lâm Nhiên đàn, tiếng đàn của Lâm Nhiên anh biết rõ. Anh nhón chân nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, cô giúp việc ra ngoài mua đồ ăn, trong nhà rất vắng lặng, điều đó lại càng thuận lợi cho anh lén lút leo lên tầng ba. Tiếng đàn mỗi lúc một gần hơn, cánh cửa phòng đàn khép hờ, Lâm Nhiên không ở đó, nhìn sang phòng sách bên cạnh, hóa ra anh đang nằm nghỉ ngơi trên chiếc ghế dài ngoài ban công.
Đỗ Trường Phong ló đầu ra, lập tức nhìn thấy ngay cô gái đang chơi đàn bên cửa sổ, nghiêng người, tóc dài xõa xuống vai, ánh nắng xuyên qua cửa sổ rải khắp người cô. Cô đang cúi đầu, nhìn nghiêng, đường nét khuôn mặt ấy mới đẹp làm sao… Nhưng, sao lại là cô? Sao có thể là cô ấy được? Trong nháy mắt, trời đất như quay cuồng điên đảo, anh gần như không tài nào đứng thẳng người lên được. Anh loạng choạng lùi ra sau mấy bước, trong tim như có thứ gì đó lướt xoẹt qua nhẹ nhàng, mới đầu thì không hề thấy đau, nhưng sau đó mới đột nhiên hiểu ra, hóa ra đúng là cô ấy thật.
Anh chạy trốn khỏi sân nhanh như một cơn gió.
Tối hôm đó, anh lại một lần nữa leo lên lầu tháp, trời đang có mưa nhỏ, rừng phong dưới kia chỉ toàn một màu đen vô tận, đối lập với thành phố đằng xa với những ánh đèn huy hoàng, dần dần mờ đi trước mắt như vô số những vệt sao băng, mỗi một ngôi sao băng đều vạch ra một đường vòng cung lờ mờ trong mắt, mỗi lúc một mơ hồ, cuối cùng chẳng còn nhìn rõ cái gì cả, chỉ còn lại làn hơi sương mỏng manh mờ mịt.
Tại sao lại cứ phải là cô ấy…
Từ tòa tháp đi xuống, anh đi đến bên hồ, “cô bé” uốn cong cái cổ, vùi đầu vào trong cánh, dựa vào “Diệp Quán Thanh” ngủ say, anh ngồi xổm xuống, lòng vẫn xót xa: “Cô bé, sao em không nói cho tôi biết sớm, hóa ra em đã có chủ rồi, lại chính là anh trai tôi, tôi buồn biết bao, em chẳng hiểu được đâu… Vì em là người mà anh trai tôi thích, nên tôi không thể có ý nghĩ ấy được, những ngày qua tôi không loăng quăng khắp nơi, cũng chính là để bố nới lỏng phòng bị, như vậy thì tôi mới có thể tiếp cận được em, ít nhất thì cũng biết được em là con gái nhà ai, ở đâu, để tôi còn dễ bề thường xuyên đến thăm em, nhưng…”
“Tôi thực sự thấy mình bất hạnh biết bao, từ nhỏ bố mẹ đã mất sớm, ngay cả họ trông như thế nào tôi cũng không còn nhớ nổi, người bố bây giờ của tôi đã nhận nuôi tôi, lẽ ra có thể được sống tự do tự tại, nhưng lại vì một chút nông nổi bồng bột tuổi trẻ mà rơi vào nơi nhốt những kẻ điên này. Rất nhiều lúc, tôi muốn bản thân bị điên thật đi cho rồi, không phải nhớ về quá khứ, không cần nghĩ đến tương lai, như vậy sẽ bớt đi rất nhiều đau khổ, tôi đau khổ lắm, ‘cô bé’ à, em biết không? Mấy năm qua, hễ tôi nhắm mắt lại là tôi lại mơ thấy Diệp Quán Thanh, khắp người anh ấy toàn là máu, anh ấy khóc, cầu xin tôi tha thứ… Bây giờ thì ngược lại rồi, là tôi phải cầu xin anh ấy tha cho tôi, đừng đến tìm tôi trong những cơn mơ nữa, hãy để tôi bớt nỗi dày vò, cho đến khi tôi gặp được em…”
“Cái giây phút ấy khi tôi nhìn thấy em, tôi tin chắc rằng trước kia tôi đã từng gặp em ở đâu đó rồi, là kiếp này, hay kiếp trước, tôi không xác định được. Nhưng giờ đây, tất cả hi vọng đều đã vụt tắt rồi, em là người của anh trai tôi! Tôi sống bằng tuổi này rồi, nhưng lại chưa yêu một ai, em nói xem tôi có đáng thương không? Nhưng tôi lại không được có một lời oán thán nào cả, bởi vì anh trai tôi thích em, vậy nên, em nhất định phải hết lòng yêu anh ấy, không được phản bội hay rời bỏ anh ấy, hoặc anh ấy vì em mà bị tổn thương, thì tôi sẽ không tha cho em đâu, cho dù trong lòng tôi thích em, tôi cũng sẽ không tha cho em đâu, em nhất định phải nhớ lấy!”
“Em càng phải nhớ, hạnh phúc của anh trai tôi chính là hạnh phúc của tôi, em nhất định phải làm cho anh ấy hạnh phúc, bất luận lí do là gì, nếu em hủy hoại hạnh phúc của anh ấy, thì trước khi bước xuống địa ngục tôi nhất định phải lôi em xuống địa ngục trước.”
“Từ nay về sau, em sống tất cả đều vì anh trai tôi, cũng giống như tôi đang sống, tất cả cũng chỉ là vì anh ấy, tôi đã nhận lời với anh ấy rằng, tôi sẽ vì anh ấy mà sống, vậy nên em cũng phải làm như thế, sống là vì anh ấy…”
“Kiếp này tôi chẳng còn có cơ hội nào nữa, nếu còn có kiếp sau, tôi hi vọng người đầu tiên mà em yêu sẽ là tôi, để tôi cũng được cảm nhận cái cảm giác được yêu thương bởi chính người con gái tôi thích. Đáng tiếc là chưa bao giờ tôi cảm nhận cái cảm giác ấy…”