Cả nhóm quyết định ở lại Thượng Hải thêm hai ngày nữa.Tối hôm trở về Ly Thành, Thư Mạn dựa trong lòng Đỗ Trường Phong mơ một giấc mơ thật dài. Cô mơ thấy rất nhiều, rất nhiều thiên nga, họ đuổi theo thiên nga chơỉ đùa, cuối cùng, dường như ngay bản thân cũng biến thành thiên nga, bay lượn trên bầu trời, còn tự do hơn cả gió...
Lúc tỉnh dậy, cô kể lại giấc mơ này với Đỗ Trường Phong, Đỗ Trường Phong nhẹ nhàng thở dài, hôn lên trán cô và nói: “Đời này có em làm bạn với anh, có tự do hay không cũng không còn quan trọng như vậy nữa rồi...”
Sáng hôm sau, sau khi Thư Mạn lưu luyến bịn rịn chia tay Cảnh Mặc Trì và Bạch Khảo Nhi, cô bước chân lên hành trình trở về Ly Thành, về đến sơn trang thì đã hai giờ chiều, Đỗ Trường Phong không chịu để Thư Mạn về nhà trên phố Đào Lý, khăng khăng đòi kéo cô về sơn trang. Từ sau tối hôm đó, hai người cứ như hình với bóng, thậm chí Thư Mạn vào nhà vệ sinh thì Đỗ Trường Phong cũng phải đợi bên ngoài cửa. Vi Minh Luân thấy thế cười anh, anh lại nói: “Anh không phải là tôi, anh không thể hiểu được tôi suy tính thiệt hơn như thế nào đâu. Tôi chỉ sợ chỉ chớp mắt một cái là lại không thấy cô ấy đâu nữa, luôn cảm thấy đây như là một giấc mơ vậy, không hề cảm thấy một chút gì gọi là cảm giác thực cà.”
Dự cảm của Đỗ Trường Phong nhanh chóng linh nghiệm.
Vừa xuống máy bay, họ nhanh chóng kéo hành lý về Hải Đường hiểu nguyệt nghỉ ngơi lấy sức. Vừa đặt hành lý xuống thì chuông cửa kêu, Vi Minh Luân ra mở cửa, có mấy người đàn ông mặc âu phục chỉnh tề đứng trước cửa, trông mặt đều lạ cả. Một người đàn ông tầm tuổi trung niên đeo kính gọng đen nghiêm túc tiến lên: “Xin hỏi vị nào là Đỗ Trường Phong?”
Đỗ Trường Phong từ trong nhà ngó đầu ra: “Chính là tôi, ông là ai?”
“Chúng tôi nhận được sự ủy thác của tòa án trung cấp Ly Thành, là nhóm giám định tư pháp bệnh thần kinh từ Bắc Kinh đến đây, mời anh đi theo chúng tôi một chuyến.”
Vi Minh Luân cứng họng, mặt bỗng nhiên trắng bệch ra.
Đỗ Trường Phong Lại bình tĩnh đến bất ngờ, gật đầu: “Được, xin đợi một chút, tôi thay bộ quần áo.” Nói rồi liền chuẩn bị đi lên gác, Thư Mạn thẫn thờ đứng ở chân cầu thang, anh xoa mặt cô, hôn lên trán cô: “Anh không sao, ngoan nào.” Sau đó lộc cộc leo lên cầu thang.
Phút chốc, nước mắt như những hạt trân châu lăn xuống từ trong mắt Thư Mạn.
Bỗng chốc cô hiểu ra, cô nhìn thẳng Vi Minh Luân, khóe mắt Vi Minh Luân cũng đỏ hoe. Hai người cùng nhìn nhóm người đang đứng ngoài cửa... Không thể làm gì được, không thể làm bất cứ điều gi, họ chỉ có thể giương mắt nhìn Đỗ Trường Phong bị đưa đi. Lúc Đỗ Trường Phong lên xe, Thư Mạn đột nhiên nắm lấy vạt áo anh không chịu buông. Vi Minh Luân cố giằng tay cô ra cũng không được, cô cứ túm chặt lấy Đỗ Trường Phong, như thể dùng hết sức bình sinh, rên rỉ, “Nếu khi nào anh được ra... mà em không còn nữa, hãy trồng cho em một cây trúc...”
Đỗ Trường Phong giương to đôi mắt nhìn cô.
Hóa ra cô đã biết rõ tất cả! Cô biết cô chính là “cô bé” trong lòng anh.
Chỉ là đã không còn kịp nữa, đã không còn kịp nữa rồi. Cô chỉ có thể túm lấy vạt áo anh, nhìn anh với ánh mắt tuyệt vọng, dường như là muốn nhớ lấy khuôn mặt anh, khuôn mặt ấy, rất nhiều năm trước cô đã từng gặp rồi, dưới bóng cây hương Chương đêm trăng đó, anh gọi cô là “cô bé”, cô chửi anh “Đồ khốn”... Chuyện thời niên thiếu vô tư ấy thực ra cô đã nhớ lại từ lâu rồi, thế nhưng anh lại tưởng cô không nhớ.
Cô không muốn nói rằng cô nhớ, chỉ là vì cô biết đã không còn kịp nữa rồi. Cô yêu anh nhưng lại không thể nói, cô sợ sau khi cô ra đi, anh sẽ lại nhốt mình trong cái tù ngục mà anh tự tạo ra thêm mười bảy, mười tám năm, hay thậm chí còn lâu hơn nữa. Cô sợ tình yêu của cô sẽ cầm tù anh, khiến anh suốt kiếp không thể đầu thai được nữa. Cô không thể ích kỉ như vậy được! Thương thay anh đã bị cầm tù trong cũi lồng tinh thần suốt mười bảy năm rồi, cứ để anh tuyệt vọng từ đây cũng còn tốt.
Nhưng anh không hiểu, cô vẫn còn muốn tiếp tục sống biết bao, nếu như có thể vay ông trời mười năm hay hai mươi năm gì đó, hay cho dù chỉ là một năm, hai năm, cô cũng muốn tiếp tục sống, để lại được yêu anh đến hết mình một lần nữa. Tình yêu trước đó quá cay đắng, cô còn chưa cảm nhận được bao nhiêu hạnh phúc và ngọt ngào của nó thì ông trời đã cướp đi mất rồi. Những ngày tháng ấy, cô thường nghĩ, nếu như năm đó, dưới gốc cây hương Chương, anh không chạy trốn thì người cô yêu không phải là Lâm Nhiên mà sẽ là anh, vậy thì rất nhiều bi kịch có thể tránh khỏi rồi, chẳng phải sao? Nhưng vận mệnh là thế đấy, sai một bước, thiếu một giây, một gang tấc liền biến thành cả một chân trời, cho dù bây giờ cô đang yêu anh, nhưng rồi thế nào cũng lại bỏ lỡ, bởi vì cô không biết bản thân mình còn bao nhiêu thời gian nữa...
Anh không nói ra được lời nào, chỉ có thể gọi tên cô, mặc cho nước mắt thấm vào kẽ tóc cô. Chưa bao giờ anh sợ hãi đến vậy. Không phải sợ chết, không phải sợ bị băm thành trăm mảnh, chỉ sợ lại bị nhốt vào trong viện tâm thần, kiếp sau cho dù có làm một con chim, thì cũng còn hơn là bị nhốt trong đó...
***
Gió nổi lên rồi.
Diệp Quán Ngữ đứng trong sân dinh thự ngước nhìn bầu trời, gió như muốn thổi tan hết những đám mây trên trời đi vậy có một con chim bay ngang qua trên đầu, vẳng lại một tiếng kêu chói tai, xé toạc bầu trời, tạo thành một lỗ hổng trong suốt trên không. Diệp Quán Ngữ khẽ nói, giọng lạnh lùng: “Tôi sẽ khiến anh không bằng một con chim!”
Đã là mùa xuân, mùa mưa dầm cũng vừa qua, chỉ trong một đêm mà hoa nhài trong dinh thự đã nở rộ, khắp sân và dinh thự, nơi đâu cũng nức mùi thơm. Diệp Quán Ngữ đứng trong những khóm hoa, tay nhẹ nhàng gẩy cành lá xanh biếc, bông hoa nhỏ trắng nở giữa những cành lá lập tức đung đưa đẹp mắt, cứ như thể hiện hết ra vẻ đẹp của mình để nghênh đón sự chiếu cố của anh.
Đã lâu rồi anh không đến dinh thự, suýt nữa thì bỏ lỡ mùi thơm nồng nàn nhất khi hoa nhài bắt đầu nở. Bà Bối La từng nói, hoa nhài chỉ thơm nhất là trong bảy ngày đầu tiên khi bắt đầu nở, cũng như tình yêu ỵậy, nhất định là tình yêu đầu tiên mới là chân thực nhất, và cũng là hoàn chỉnh nhất, trải qua đủ mọi đả kích và sự tàn phá của hiện thực, thì tình yêu dù có thơm nồng nàn đến thế nào cũng trở thành bi thương.
Nói hay thật...
Diệp Quán Ngữ lại thở dài, ngồi lên một chiếc ghế đá trong sân vườn.
“Thư tiểu thư và Đỗ Trường Phong đang ở cùng nhau.”
Khi tên thuộc hạ theo đuôi Đỗ Trường Phong báo tin này cho anh, anh chỉ cảm thấy bi thương. Đứng trước cửa sổ phòng ngủ ngắm mưa rơi suốt cả đêm, màn đêm đen sì, trái tim anh như lạnh đến tận đáy. Vốn dĩ là vẫn còn một chút thương hại, người đó bị nhốt trong viện tâm thần bao nhiêu năm như thế nên anh mới cho anh ta một chút tự do để tiếp tục chơi trò chơi này cùng mình. Vì anh luôn cô độc, cô độc đến cùng cực, dù đứng giữa hàng vạn người nhưng anh vẫn thấy mình là người cô đơn nhất trên thế gian này. Anh thường so sánh mình như một con mèo, nếu không còn chuột nữa thì mèo liệu có còn là mèo không? Nhưng, giờ anh không muốn chơi nữa, cho dù anh không thể làm mèo.
Sau khi họ đi Thượng Hải, Lữ tổng quản từng hỏi anh :“Chúng ta nên làm thế nào?”
Ánh mắt Diệp Quán Ngữ lơ đễnh, tay nghịch chiếc nhẫn ngọc bích trong suốt lung linh, hỏi lại ông: “Phải làm thế nào mới có thể khiến chim không bay lên được?”
Lữ tổng quản không suy nghĩ, đáp: “Đương nhiên là bỏ cái cánh của nó đi rồi!”
“Sai rồi! Bỏ cánh đi rồi thì có còn là chim không? Nó sẽ chết... Tôi không muốn anh ta chết, tôi muốn anh ta sống, muốn bay lại không bay được, như vậy mới đúng là sống không bằng chết.”
“Vậy thì hãy làm cho anh ta một cái lồng thật kiên cố.”
Diệp Quán Ngữ không trả lời, nhìn ngắm tẩn mẩn chiếc nhẫn trong tay, rồi lại giơ lên soi trước ánh đèn, như thể đang ngắm một vật quý giá hiếm có trên thế gian, lơ đễnh như thể không nghe thấy lời Lữ tổng quản vừa nói.
Lữ tổng quản ngầm hiểu ý ông chủ, vội tiếp lời: “Diệp tổng, nếu không có chuyện gì thì tôi đi trước nhé.”
Diệp Quán Ngữ không nhìn ông, nhẹ nhàng hôn lên chiếc nhẫn.
Lúc này đây anh đang ngồi trong sân, lại đang ngắm nhìn chiếc nhẫn ngọc bích đeo trên ngón tay trái, một vòng xanh biếc quấn quanh ngón tay, phát ra ánh huỳnh quang màu xanh lục trong suốt dưới ánh nắng, thứ ánh sáng thật khác thường, tựa như bản thân nó có linh hồn, như đang lặng lẽ kể lể điều gì đó...
Hơn mười năm rồi, ngoài chiếc nhẫn này ra, chẳng có ai biết anh đã từng xuống địa ngục. Người bò lên từ địa ngục thì hầu như chẳng còn chút nhân tính gì đáng nói. Cho dù là thế, anh vẫn muốn trở lại làm một con người bình thường. Bà Bối La đã từng nói, cảm giác thù hận thật sự quá đau khổ, nếu như được lựa chọn, bà nguyện chọn yêu chứ không chọn hận. Vì vậy bà Bối La thường khuyên bảo anh, con trai, hãy từ bỏ hận thù của cậu đi, rồi cuối cùng sẽ có một ngày cậu sẽ phát hiện ra rằng cái giúp cậu sống đến mãi tận lúc cuối ấy lại chính là tình yêu, chứ không phải là hận thù... Thực ra, đúng là anh muốn từ bỏ, chỉ vì trong lòng quyến luyến người con gái đó. Nhưng đến giờ cô ấy đã yêu rồi, nghe nói lại còn yêu cái thằng điên ấy, bỗng nhiên anh mơ màng, mất cô, mất đi tình yêu, anh chỉ còn lại hận thù, làm sao anh còn có thể yêu được nữa... Thật đáng tiếc, bà Bối La không còn nữa, nếu không nhất định bà sẽ nói cho anh biết câu trả lời.
Anh ngẩng đầu lên nhìn ngói lợp xanh biếc trên mái nhà, cả dây trường xuân bò dài giăng dợ trên tường, năm này qua năm khác, cho dù đã trải qua phong ba bão táp như thế nào thì những dây trường xuân và rêu xanh ấy vẫn luôn như hình với bóng, không nỡ nào khô héo, không nỡ nào chết đi, cũng giống như những người đã từng sống trong dinh thự này, mặc dù được chôn cất mỗi người một nơi nhưng họ chưa bao giờ rời xa nhau, mãi luôn ở đây. Mỗi khi đêm khuya vắng lặng, một mình trong sân thở khẽ lắng nghe, thậm chí anh còn có thể nghe thấy âm thanh của những người ở thời đại ấy, những chuyện của thời đại ấy, có tiếng thở dài, cũng có cả tiếng bước chân đi...
Một buổi chiều gió hiu hiu, ngửi hương thơm phảng phất khắp sân thế này sẽ rất dễ nhớ lại chuyện cũ. Diệp Quán Ngữ nhắm mắt lại, chợt cảm thấy thời gian như quay lại thời điểm hơn mười năm về trước. Khi đó anh còn đang làm thuê ở Đồng Thành, được ông chủ sắp xếp cho tính giá thành trong một công ty sửa chữa lắp ráp. Lần nào Diệp Quán Ngữ cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, giá xây dựng tính ra khiến ông chủ và khách hàng đều rất hài lòng. Điều duy nhất mà ông chủ chưa ưng ở anh, đó là anh không đủ cứng rắn, lại quá thật thà, làm bao nhiêu thì tính bấy nhiêu, bảo anh tính khéo một chút anh cũng không chịu. Ông chủ có lần còn nói xẵng: “Cậu cứ thế này thì cả đời chỉ có làm thuê mà thôi. Nếu muốn tương lai trở thành một ông chủ như tôi đây, thì cái đầu tiên mà cậu phải học đó là phải nhẫn tâm, không nhẫn tâm thì cứ ở đó bị người ta bóc lột đi.”
Diệp Quán Ngữ lúc đó chỉ cười không đáp. Anh không hề nghĩ rằng, sau này, câu nói ấy của ông chủ đã linh nghiệm ngay trên chính bản thân anh. Sự tàn khốc của hiện thực, sự bỉ ổi của nhân tính, khi đó, ở tuổi của anh vẫn còn chưa cảm nhận được.
Một hôm, lúc ông chủ ra ngoài về đã vỗ vai anh, vui vẻ nói: “Mau về Thanh Thủy Đường đi, bà Bối La gọi điện đến bảo anh dù thế nào cũng phải về, nói là có chuyện quan trọng. Bà ấy rất hài lòng về cái chậu hoa mà cậu chọn cho bà ấy lần trước, khen anh hết lời, nói anh tốt bụng, có tố chất... Chà chà, tiểu tử, cậu đi nhanh về nhanh, tiện gửi lời hỏi thăm sức khỏe của tôi đến bà ấy, hi vọng sau này bà quan tâm nhiều, giới thiệu mấy ông chủ giàu có cho chúng ta.”
“Bà ấy không nói là có chuyện gì sao?” Diệp Quán Ngữ cẩn thận hỏi lại.
“Cậu lo chuyện này làm cái gì, bà ấy bảo cậu đi thì cậu cứ đi, có phải ăn thịt cậu đâu mà sợ!” Ông chủ mặt mày dữ tợn, vẻ thần bí nói, “Đừng thấy bà già ấy đã lớn tuổi, lại chỉ là một người bình thường, tôi nói cho các anh biết, bà ấy mới là người giàu có thực sự, chúng ta nịnh hót bà ấy còn chẳng xong nữa là!”
“Ông chủ, làm sao mà ông biết bà ấy giàu?” Một bác thợ sơn bên cạnh hỏi.
“Anh thì biết cái khỉ gì! Tôi nghe người ta nói, hồi trẻ bà này là một gì gì đó, dù sao thì cũng không phải là vợ chính của một ông quan to của tỉnh, ông quan lớn đó là một nhà tư bản, giàu có vô đối. Hồi ‘Cách mạng văn hóa’ ông ta bị xử tử rồi, trước lúc lâm chung còn để lại cho bà này một đống tiền, còn nhiều như thế nào, nếu không khoa trương thì nghe nói có thể mua được cả nửa cái Đồng Thành này đây, còn nếu khoa trương thì tiền còn dư để mua cả cái Đồng Thành này. Cái dinh thự mà bà ấy đang à bây giờ chính là ông quan to ấy tặng đấy, nghe nói dưới đất còn chôn cả vàng nữa...”
“Phét! Làm gì có chuyện đó.” Các bác thợ chẳng ai tin.
Diệp Quán Ngữ cũng không tin. Anh quen biết bà Bối La cũng hoàn toàn là do công việc, bà ấy muốn tân trang lại dinh thự, chính là Thanh Thủy Đường, căn nhà thời xưa có tường ngói xanh bao quanh cả sân vườn rộng, kiểu kiến trúc điển hình thời dân quốc. Mặc dù vẫn nhìn ra được hơi hướng ngày xưa nhưng thời gian đã trải qua mưa gió hơn nửa thế kỉ, không kể tới mối mọt làm gì, tường nhiều chỗ cũng đã bị nứt, mái nhà cũng bị dột. Không biết ông chủ làm cách nào mà tìm được vụ làm ăn béo bở này, bảo Diệp Quán Ngữ qua đó tính toán giá thành tân trang, lại còn dặn kĩ tính nhiều lên một chút cững không sao nói là bà ấy vừa mới bên nước ngoài về, nhiều tiền lắm. Nhưng Dỉệp Quán Ngữ vẫn không chịu nghe, tính toán chi li rõ ràng mạch lạc, không những không hề khai man giá thành, thậm chí lại còn đưa ra rất nhiều ý kiến, góp ý về cách bài trí cảnh quan bên ngoài lẫn trong nhà, khiến bà rất hài lòng. Sau khi công trình hoàn công, bà thường mời Diệp Quán Ngữ đến chơi, mời anh dùng cơm, nhà có vấn đề gì cũng chỉ tìm anh.
Nhưng dịp để Diệp Quán Ngữ và bà Bối La trở thành bạn bè không câu nệ tuổi tác đó chính là vào mùa xuân trước đó, bà Bối La muốn treo mấy cái đèn lồng trong sân, và mời Diệp Quán Ngữ qua giúp. Diệp Quán Ngữ vui vẻ đến giúp, không những giúp bà treo đèn, mà còn đích thân viết một câu đối dán trước cửa, khiến bà vui quá cười mãi, kết quả là vui sướng quá, ngất ngã vật xuống đất. Diệp Quán Ngữ giật bắn mình, vừa gọi người khác trong dinh thự gọi xe cấp cứu, vừa thực hiện biện pháp cấp cứu đơn giản cho bà lão, may vì cấp cứu kịp thời nên đã cứu được mạng sống. Bà vô cùng cảm kích, sau khi xuất viện cầm một xấp tiền nhét cho anh, Diệp Quán Ngữ kiên quyết không nhận, lại còn giận dỗi hẩy tay bỏ về. Chuyện này khiến bà cảm thấy Diệp Quán Ngữ là người có chí khí, liền cho thư kí đến tận công ty lắp đặt sửa chữa xin lỗi anh, còn mời anh đến dinh thự dùng cơm, nói mà khiến người ta cảm động rơi nước mắt.
Đương nhiên, Diệp Quán Ngữ không hề chấp nhặt bà, liền tỏ ý rằng mình không để bụng gì. Cũng chính từ hôm đó, bà coi Diệp Quán Ngữ như người nhà mình, có việc hay không có việc gì cũng gọi anh đến nói chuyện gia đình, chuyện trò, nói về cuộc đời, mỗi lần như thế Diệp Quán Ngữ không bao giờ từ chối. Anh cảm thấy ở bà có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đầu tóc bạc phơ, thoạt nhìn là biết bà là người trải qua bao cuộc bể dâu của thời cuộc, lại thông kim bác cổ, trong trường hợp nào cũng có kiến giải đặc biệt về cuộc sống và số phận, coi tiền tài danh lợi như mây khói phù du. Mặc dù bà không nói chuyện, ngồi dưới gốc cây hải đường trong sân phe phẩy chiếc quạt, ngước nhìn bầu trời, ánh hào quang phát ra trên khắp người cũng khiến người ta thực sự khâm phục. Một già một trẻ gạt đi tuổi tác và số phận, từ đó trở thành một đôi bạn vong niên, có thể tám đủ mọi chuyện trên trời dưới bể.
Khi đó, Diệp Quán Ngữ còn trẻ, có gì khó khăn nghi hoặc gì đều nói với bà lão, họ nói về tất cả mọi chuyện, chỉ có tình yêu là không bao giờ nói đến, dường như đây là điều cấm kị của bà. Bà có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào cho Diệp Quán Ngữ, chỉ riêng về chuyện tình yêu là không. Bà không nói rõ vì sao, dường như đó là mối trắc trở của bà, hễ động tới chủ đề này là bà lại chìm vào im lặng, như thể linh hồn đã bị đánh cắp đi vậy, không thể nói thêm một từ nào nữa.
Vậy nên, Diệp Quán Ngữ cố gắng tránh khỏi chủ đề kiểu như thế.
Rất nhiều lúc anh cảm thấy bà như một câu đố vậy.
Về thân thế, hoàn cảnh của bà lão thì đã nghe mọi người bàn tán xôn xao, nói thế nào cũng có, nhưng đại khái là bà rất giàu có, có rất nhiều, rất rất nhiều tiền. Còn về tiền đó từ đâu mà ra thì cũng chẳng ai có thể đưa ra kiến giải một cách chắc chắn. Diệp Quán Ngữ chỉ phong thanh ba mươi năm trước bà sang Pháp định cư, mãi đến tận hai năm trước mới về nước, ở nước ngoài có gia đình hay không, có con cái gì hay không anh cũng không hề biết. Nhưng anh lờ mờ hiểu rằng bà đúng là người rất có thân thế, một bà già đơn thân mà lại có đến ba thư kí, mấy người bảo mẫu, lại còn y tá, đầu bếp, lái xe riêng, vân vân, họ đều ở trong dinh thự, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đợi bà sai khiến.
Lại nhìn đến cách ăn mặc của bà, tuy kiểu dáng bình thường nhưng chất liệu đều là hàng cao cấp, phần lớn thời gian bà mặc xường xám hoặc áo kép kiểu Trung Quốc, đeo trang sức ngọc bích, nhẫn, vòng tay, khuyên tai, tất cả đều bằng ngọc bích. Bà lại là một người nhã nhặn, rất ít khi đeo vàng, lại càng không nói đến đá quý, Diệp Quán Ngữ có cảm giác, với bà, những thứ đó đều tục quá. Cả cái cách bà nói chuyện cũng đủ để người ta thán phục, luôn giữ cho mình tâm thế ung dung thong thả, một cái nhăn mặt hay một cái cười cũng đầy ý vị, cũng giống như mùi nước hoa trên người bà, trong cái vẻ nho nhã lại có vài phần hiu quạnh, khiến người ta mê mẩn. Diệp Quán Ngữ cảm phục trước vẻ hấp dẫn của bà nhưng cũng không hề tìm hiểu quá sâu về bà, cũng như không hề muốn giải đáp câu đố bí ẩn của bà vì dù sao đó cũng là chuyện riêng của cá nhân bà.
Hôm đó, bà gọi Diệp Quán Ngữ đến Thanh Thủy Đường anh cũng lờ mờ cảm thấy có chuyện gì đó.
Trong sân Thanh Thủy Đường trồng rất nhiều hoa nhài, phía sau nhà là cả rừng cây rậm rạp. Hình như bà rất thích hoa nhài, không cho phép trồng thêm bất cứ một loài hoa cỏ nào khác. Khi đó chưa phải là mùa nhài nở, trong sân chỉ một màu xanh biếc, màu xanh loang lổ ấy cũng rất giống với những trang sức ngọc bích mà bà đang đeo kia. Căn dinh thự ẩn hiện trong màu xanh biếc đó có tất cả ba tầng, tầng một là phòng khách và phòng ăn, tầng hai là phòng ngủ và phòng đọc sách của bà, thường là cấm người khác lên đó. Mọi thiết kế bài trí trong nhà đều là kiểu tây cả, có lẽ liên quan đến việc bà sống ở nước ngoài nhiều năm. Thảm, rèm cửa, đèn treo tường và cả đồ đạc nội thất, tất cả đều là đồ chuyển từ nước ngoài về sau khi dinh thự được tân trang lại... Chỉ có tầng ba là vẫn để đồ đạc cũ, giấy dán tường tuy có thay mới nhưng được bà tìm một nhà sản xuất đặt theo y hệt nguyên mẫu cũ.
Bà lão rất cố chấp, tuyệt đối không cho thay đổi bất cứ đồ đạc gì trong phòng, dịch chuyển một chút thôi cũng không được, vậy nên mỗi lần lên tầng ba, Diệp Quán Ngữ đều có cảm giác như đi xuyên qua cánh cửa thời gian vậy, như thể trở lại thời ngày xưa, một cái đèn để bàn te tua, một cái ghế dài mài nhẵn thín cả sơn, tất cả đều toát lên một màu sắc của những thăng trầm, vắng lặng của năm tháng. Thế nên, Diệp Quán Ngữ biết, bà vẫn còn sống trong quá khứ, chưa bao giờ chịu bước ra.
Lúc đó đã chập choạng tối, hoàng hôn còn sót lại chiếu xuyên qua rèm cửa sổ, hắt vào trong phòng khiến mặt thảm vàng rực, những bông hoa hồng trắng bày trên tủ phía đầu giường cũng khoác thêm màu cổ xưa.
Bà Bối La dựa trên một đống những gối mềm phía đầu giường, có một khoảng thời gian không gặp mà trông bà già yếu đi nhiều, có thể là có liên quan đến việc bà chưa trang điểm. Bà là người rất giữ lễ tiết và được giáo dục bài bản, bình thường mỗi khi tiếp khách đều trang điểm, đầu tóc cũng không bao giờ rối, vấn gọn lại đằng sau trông thật nho nhã. Nhưng hôm nay bà không chú ý nhiều đến như vậy, có thể là vì đầu tóc rối quá nên bà đội một chiếc mũ chụp ngủ trông lại càng tiều tụy và cẩu thả, tuy thế, bà vẫn toát lên vẻ cao quý lạ thường.
“Quán Ngữ, cuối cùng cậu cũng đã đến rồi, ta cứ tưởng ta sắp không còn gặp được cậu nữa.” Bà chìa tay về hướng Diệp Quán Ngữ, dưới ánh hoàng hôn, màu sơn đỏ trên móng tay bà cũng vô cớ mang một chút thê lương. Bà nắm lấy tay Diệp Quán Ngữ, run run, “Con trai, gặp được con đúng là giờ phút tốt đẹp nhất trong ngày, còn hiệu quả hơn là uống bất kỳ thứ thuốc nào...”
“Bà ơi, bà ốm rồi à?” Diệp Quán Ngữ ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường, nhìn thấy dáng vẻ ốm yếu của bà mà thấy nhói lòng. Bà Bối La cười nói: “Đừng gọi ta là bà, thực ra ta chỉ lớn tuổi hơn mẹ con một chút thôi, nhưng lại không có phúc được như mẹ con, có được một đứa con trai tốt thế này, ta thật ngưỡng mộ mẹ con quá...”
Nói tới đó mắt bà ngân ngân nước.
“Bà...”
“Đứa bé ngoan, hôm nay có lẽ là lần cuối cùng ta gặp được con, hai ngày nữa ta phải quay lại Pháp, có lẽ cả đời này sẽ không bao giờ về nữa, không về được nữa...” Bà Bối La thở dài, đau buồn nhìn Diệp Quán Ngữ, thật tình không nỡ lòng nào.
Diệp Quán Ngữ rất ngạc nhiên: “Bà phải đi sao?”
“Đúng vậy, bệnh phổi của ta lại tái phát rồi, phải quay lại Pháp để dưỡng bệnh, vốn dĩ ta muốn chết ở đây cũng tốt, nhưng bên đó còn quá nhiều việc cần ta sang xử lý, hơn nữa ở đây cũng chẳng có người thân nào cả, có chết rồi thì ngay đến người thăm mồ thăm mả cũng không có.”
Bệnh phổi? Sao trước giờ có nghe bà nói gì đâu?”
“Ừ, bệnh cũ đã mấy chục năm nay rồi, lần này tái phát dữ lắm, sợ không qua khỏi.” Bà vẫn mỉm cười, nói chuyện sống chết mà cứ bình thường như đang nói chuyện thời tiết vậy, “Hôm nay ta gọi cậu đến đây là muốn hỏi cậu, có muốn cùng ta sang Pháp không? Đừng vội trả lời, nghe ta nói đã, ta quý cậu, con trai ạ. Nếu cậu muốn, ta sẽ nhận con làm con nuôi. Sang Pháp, con có thể có được tất cả mọi thứ mà con muốn, ta không con không cái, cũng chẳng có người thân nào còn sống cả, tất cả mọi thứ của ta đều là của con...”
“Không, không, bà ơi, không thể được!” Diệp Quán Ngữ vẫn quen gọi bà là “Bà”, anh lắc đầu, “Cháu không thể bỏ lại người thân mà đi một mình được, mẹ cháu, còn cả em trai cháu đều cần có cháu chăm sóc. Hơn nữa, cháu không hiểu biết tí gì về nước ngoài cả, đi rồi lại chẳng làm được việc gì, cháu phải ở lại đây bên cạnh người thân của cháu.”
“Con đúng là một đứa con hiếu thảo, khiến ta rất cảm động, cũng khiến ta lại càng yêu quý con hơn, Quán Ngữ.” Bà lão thở dài, giọng nói trước đó vốn khàn khàn bỗng nhiên trở nên nghẹn ngào, “Nhưng thực sự ta rất nuối tiếc nếu phải xa con, không ngờ những năm tuổi già lại có thể gặp được một người có thể khiến ta vui như con, khiến ta nghĩ đến rất nhiều chuyện ngày xưa, rất nhiều, rất rất nhiều chuyện... Trong con người của con, ta thấy được hình bóng rất quen thuộc, cho dù là rất mơ hồ, nhưng vẫn cảm thấy như được an ủi, thậm chí là cảm kích, cảm ơn Thượng đế đã cho ta được gặp con trong đoạn cuối cuộc đời này...”
“Bà ơi, bà đừng nản lòng, bệnh của bà sẽ khỏi thôi...”
“Không, không, điều ta muốn không phải là vậy.” Bà lão yếu ớt xua tay, từ từ nhắm mắt lại, có lẽ là bệnh đã lâu lắm rồi, nói mấy câu chuyện mà người đã mệt mỏi lắm.
Thế nên Diệp Quán.Ngữ không nói nữa, im lặng nhìn bà, để bà nghỉ ngơi.
Ánh hoàng hôn của mặt trời giờ chỉ còn lại một góc nghiêng nghiêng. Trong phòng vắng lặng đến lạ kỳ, chỉ còn tiếng kêu tích tắc của chiếc đồng hồ trên tường cho biết rằng thời gian vẫn đang trôi.
“Quán Ngữ, cháu có muốn biết quá khứ của ta không?” Mãi lâu sau, bà Bối La mới lại mở mắt ra, trong mắt hình như có lệ, nhưng tinh thần bà đột nhiên phấn chấn hẳn lên, như vừa có quyết định gì to tát lắm, phấn khích đến nỗi ngực cũng phập phồng vì thở mạnh, “Ta muốn nói! Con à, ta đã kìm nén suốt ba mươi mấy năm, ta sợ nếu cứ tiếp tục không nói ra thì ta sẽ phải mang những chuyện đó xuống mồ mất. Ta không cam tâm một mình lặng lẽ ra đi, lại càng không muốn mang theo tất cả những vướng bận thế tục, ta muốn có người để giao phó, sau khi đã giao phó xong hết tất cả ta mới yên tâm mà đi được...”
“Bà, hình như bà mệt rồi, bà nghỉ cho khỏe lại đã rồi hãy nói...”
“Không sao, ta không yếu đến mức như vậy đâu, hãy để ta nói, biết đâu ta lại thay đổi ý định ngay đấy.” Bà Bối La nãy còn ốm yếu là vậy thế nhưng đột nhiên như được chích thuốc kích thích, bà suýt nữa là ngồi hẳn dậy, tay bà đặt lên ngực, cố gắng điều chỉnh tâm trạng cho bình tĩnh lại đôi chút. Bà cười, cứ cười vậy thôi, như bông hồng đằm thắm mùa hạ. Chưa bao giờ bà đẹp như vậy, gò má vốn trắng bệch giờ lại hơi hơi ửng hồng, như thiếu nữ chớm yêu gặp được người yêu đã xa cách lấu ngày, xúc động khó lòng kiềm chế nổi cảm xúc.
Thế rồi bức màn che của thời gian nhẹ nhàng được vén lên, câu chuyện thuộc về thời đại xa xưa đó lại được mở ra khi màn đêm sắp buông xuống, mỗi trang đều lóe lên ánh hào quang cổ xưa.
Bà Bối La nói, xuất thân của bà không hề thần kì như mọi người trong phường bàn ra tán vào, bố mẹ bà đều là những người dân bình thường, thời chiến loạn cũng từng sống lang bạt nay đây mai đó, hồi còn nhỏ bà cũng cùng bố mẹ chịu nhiều khổ cực. Kháng chiến kết thúc, bố dạy học ở một trường trong tỉnh thành, vốn dĩ cả gia đình sống rất yên bình. Khi bà mười bảy tuổi, trông vô cùng xinh đẹp, lại rất giỏi ca múa. Trong một lần hội diễn văn nghệ đón Tết, tiết mục của trường bà được chọn, buổi biểu diễn thành công tốt đẹp, có thể nói là nó đã thay đổi cả cuộc đời của bà. Tiết mục đó là một bài múa “Hoa nhài”, bà là người dẫn đầu một nhóm thiếu nữ xinh như hoa, cầm giỏ hoa vui múa tung tăng, trong tiếng nhạc cảm động lòng người, nụ cười của bà thật đúng là nghiêng nước nghiêng thành. Đến giờ bà vẫn còn giữ một tấm ảnh biểu diễn hồi đó, vẻ đẹp cả đời chỉ nở rộ trong chính giây phút đó. Vì nở rộ quá, nên mới lại khiến tuổi thanh xuân của bà lụi tàn quá sớm... bà ngập ngừng nói như vậy.
Buổi biểu diễn kết thúc, mấy người trông có vẻ như lãnh đạo bước lên sân khấu bắt tay các diễn viên, trong đó có một người đàn ông trung niên đeo kính nắm tay bà, nắm mãi đến hẳn một phút lận, lại còn chụp ảnh chung với bà. Bối La ngày đó ngây thơ chẳng thấy gì đặc biệt, dưới ánh đèn mờ ảo của sân khấu, thậm chí người đàn ông đó trông như thế nào bà cũng không nhìn rõ. Nhưng chính vào lúc đó, cuộc đời đã bắt đầu bày trận mai phục, khi bà đã bị lọt vào trong đó, ngoài sự thận trọng và sợ hãi của thiếu nữ thì chẳng còn gì khác. Tất cả mọi thứ đều không nằm trong tầm kiểm soát của bà, ngay từ khi người đàn ông đó tấn công bà đã bị chiếm đóng, không một chút phòng bị. Tuổi tác của ông ta cũng đáng tuổi bố của bà, thế mà lại có được tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất của bà, và cả cơ thể còn đang bó nụ chờ nở của bà.
Để tránh khỏi tai mắt của mọi người, ông ta tìm lý do đưa bà đến Đồng Thành, sắp xếp cho bà ở trong một dinh thự rất đẹp, chính là Thanh Thủy Đường ngày hôm nay. Sự chiều chuộng mà ông dành cho bà đúng là đặc biệt, không có lời nào diễn tả. Khi nỗi sợ hãi được thay thế bởi sự ngưỡng mộ và sùng bái, bà dần dần bị sự quả quyết của người đàn ông này khuất phục. Nghe nói, người đàn ông này là một nhà đại tư bản, tổ tiên mở tiệm thuốc, đã từng du học nước ngoài, thế lực gia tộc rất lớn. Đêm trước của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa thành lập, vì đã giúp chính phủ xây bệnh viện, phát triển ngành y dược nên cũng dần dần bước chân vào con đường chính trị, thăng quan tiến chức rất nhanh. Cả gia tộc hi vọng ông sẽ làm nên thành tựu lớn trong giới chính trị, nào ngờ sự việc bại lộ, chuyện của ông và bà bị người ta lật tẩy.
Đúng lúc đó Bối La lại mang thai, nếu như mọi chuyện bị vạch trần thì tiền đồ của ông coi như tiêu tan hết. Thế nên gia tộc nhà họ yêu cầu bà phải bỏ đứa bé đi, bà không đồng ý, kiên quyết đòi sinh ra. Nhưng một người con gái yếu mềm làm sao đối phó được với cả một gia tộc lớn như vậy, bà bị bắt ép đến bệnh viện phá thai, khi đó thai nhi đã được tám tháng, trong quá trình giằng co, bà bị động thai phải vội vàng đưa đến bệnh viện. Kết quả đứa bé bị sinh non, bà cũng mất quá nhiều máu, suýt nữa thì ngay đến cả mạng sống cũng không giữ được. Sau khi xuất viện, bà lập tức bị điều đi ngoại tỉnh.
“Cả đời ta cũng vẫn nhớ tình cảnh ngày hôm đó, người nhà bọn họ đến rất đông, lôi ta đến bệnh viện, bất kể ta có khóc, có van xin thế nào cũng vô ích. Đã hơn tám tháng rồi, đứa bé cũng đã sắp sinh ra rồi mà họ cũng không chút động lòng, tàn nhẫn giết chết đứa con ngay trong bụng ta. Ngay đến mặt con ta cũng không được nhìn thấy, chỉ biết nó là một đứa con trai... Đáng hận là, sự việc từ đầu đến cuối ta không hề nhìn thấy ông ấy, sự lẩn tránh của ông ấy chính là ngầm bị khuất phục bởi chuyện này rồi. Mấy chục năm đã qua, ta vẫn hay mơ thấy đứa con đang khóc, duy nhất là không mơ thấy hình dáng con thế nào...”
Nói đến đây bà dường như đã lấy hết sức bình sinh, khuôn mặt đầy những nếp nhăn đã tràn trề nước mắt. Thật khó mà tưởng tượng được, một con người đã phải chịu đựng nỗi đau thương suốt ba mươi mấy năm trời thì dằn vặt đến thế nào! Nỗi đau đó sẽ không bao giờ mất đi theo dòng chảy của năm tháng, bà nghiêng người cúi mặt xuống nức nở. Diệp Quán Ngữ ngồi xuống bên giường vỗ vai bà, bà xua tay, lại nói tiếp: “Đừng lo cho ta, nói ra được là tốt rồi, đã chôn vùi trong lòng suốt hơn ba chục năm trời, giờ thì cuối cùng cũng giải thoát được khỏi lòng. Nếu không lại phải mang theo xuống dưới mồ, làm sao ta yên nghỉ được.”
“Vậy sau đó thì sao?” Diệp Quán Ngữ không muốn hỏi, nhưng lại rất tò mò muốn biết.
“Sau đó, sau đó... Cách cũng khoảng mười năm sau đó, cha ta qua đời, ta mang tro cốt của cha ta về tỉnh thành mai táng cũng không biết bằng cách nào mà ông ấy biết được chuyện này mà tìm thấy ta... Khi đó, ông ấy đã là một quan chức cao, thân phận hiển hách, ông ấy sám hối với ta, nói khi xưa cũng là do không thể làm chủ được bản thân, làm sao ta nghe cho lọt tai được chứ... Nhưng ta lại không thể nào rời khỏi tỉnh thành được, vì mẹ ta cứ kiên quyết không chịu đi, bà muốn ở lại bầu bạn với cha ta. Con người ta một khi đã già rồi thì chỉ muốn lá rụng về cội mà thôi. Hai năm sau mẹ ta cũng qua đời, không lâu sau, ‘Cách mạng văn hoá’ nổ ra, ông ấy phải chịu đả kích vì vốn xuất thân là một nhà tư bản, ta cũng bị liên lụy, bị Hồng vệ quân bắt lôi đi biểu tình. Sau khi ông ấy biết được tình hình liền thức trắng đêm phái người đưa ta đến Hồng Kong, rồi lại chuyển đường đưa đi Pháp. Đến Pháp rồi ta mới biết, thực ra phần lớn gia sản gia tộc nhà họ đều ở nước ngoài... Ta sống một mình ở Pháp, không hề rõ tình hình trong nước, chỉ biết là gia tộc bọn họ phải chịu đả kích rất lớn, ông ấy đã không thể cố gắng đến phút cuối, và đã qua đời vào thời cuối của cuộc ‘Cách mạng văn hóa’. Đêm trước khi ông ấy qua đời còn gửi cho ta một bức thư, phó thác cho ta rất nhiều chuyện, hi vọng kiếp sau sẽ đến bù đắp những gì ông ấy đã nợ ta...”
“Đã bao năm rồi, ta sống một mình ở Pháp, bên cạnh còn có cả một lũ người vây quanh, nhưng sao ta luôn có cảm giác cô đơn đến thế... Ta cũng đã hạ quyết tâm lớn lắm mới về nước xem thế nào. Thanh Thủy Đường vẫn bộ dạng như ngày xưa, vừa bước vào cái sân này là ta đã biết, ông ấy chưa bao giờ ngủ trong tim ta, ông ấy vẫn luôn sống mãi... Mỗi hòn gạch ở đây, mỗi viên ngói ở đây đều đã chứng kiến ân oán giữa ta và ông ấy, hơn ba chục năm đã trôi qua rồi, ngoảnh đầu lại nhìn, ta phát hiện thứ chống đỡ để ta sống đến được tận ngày hôm nay thực ra không phải là hận ông ấy, mà là yêu, là yêu! Ta yêu ông ấy, chưa bao giờ thay đổi cả! Trong dinh thự này, nơi đâu cũng có hình bóng của ông ấy, tối ngủ, ta luôn nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy vọng lại trong đêm, còn cả tiếng thở dài nữa.
Bỗng nhiên ta hiểu ra, nguyên nhân mà ban đầu khi rời khỏi Trung Quốc vì sao ông ấy lại khăng khăng đòi chuyển tên dinh thự này sang tên ta. Ông ấy nói, sớm muộn gì em cũng sẽ trở về, tôi sẽ ở đây đợi em, nhất định em sẽ cảm thấy được tôi đang ở bên cạnh em, như vậy, em sẽ không còn hận tôi nữa, trăm năm sau, nơi đây sẽ là phần đất mộ của tôi và em... Lúc đó, khi ta nghe thấy những lời này, ta khóc đến suýt ngất... Nhưng ta vẫn không muốn được chôn ở đây, cả đời này ta đã chịu đựng đủ những đau khổ mà ông ấy và gia đình ông ấy đem đến cho ta, ta muốn ra đi thật nhẹ nhàng, sạch sẽ, kiếp sau ta cũng không muốn nhận ra ông ấy nữa, cứ coi như là một giấc mộng thật dài thật dài, giấc mộng này đã kéo dài suốt cả cuộc đời ta, cuối cùng cũng đã đến lúc kết thúc rồi...”
Bà Bối La kể xong câu chuyện này dường như đã thanh thản nhẹ nhõm hơn rất nhiều, bà cười thư thái, cùng lúc đó tháo chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay của bà ra, đưa cho Diệp Quán Ngữ: “Con trai, hôm nay ta gọi con đến, chính là muốn kết thúc một việc cuối cùng, con là người duy nhất đáng để ta tín nhiệm trên thế giới này, vì vậy xin con hãy nhận lấy cái này, dù thế nào con cũng phải nhận lấy, sau này sẽ cần dùng đến.”
Đây là một chiếc nhẫn ngọc bích màu xanh biếc, màu xanh bí ẩn, để lộ thứ ánh sáng mờ gom lại bên trong, đó là thứ ánh sáng lấp lánh đọng lại qua năm tháng, cho dù là trong căn phòng tối tăm cũng phát ra vầng sáng chói lóa khiến người ta không dám nhìn thẳng vào. Anh cầm chiếc nhẫn nhìn ngắm rất kĩ, nhìn thấy mặt trong chiếc nhẫn khắc hai chữ “Bỉnh Sinh”.
“Bỉnh Sinh?” Diệp Quán Ngữ không hiểu nghĩa của nó.
“Đó là tên tự của ông ấy.” Bà Bối La giơ tay lên cho anh xem, “Ban đầu đó là vật đính ước ông ấy tặng cho ta. Ta không muốn đem xuống mồ, vậy nên quyết định tặng nó cho con...”
“Không, không, vật quý trọng như vậy làm sao cháu có thể nhận được?” Diệp Quán Ngữ giật mình, vội đưa lại chiếc nhẫn.
Bà Bối La nói: “Con trai, con nhất định phải nhận lấy! Đây không phải là một chiếc nhẫn bình thường, mà là một tín vật, giá trị thực của nó không chỉ đơn giản là giá trị của một chiếc nhẫn thôi đâu, sau lưng nó là cả một tài sản khổng lồ, lớn đến mức con không thể nào tưởng tượng nổi. Ta giao nó cho con vì ta cảm thấy con là một người thành thật và chính trực, ta không còn người thân nào khác nữa, nếu không tìm được người phó thác trước khi nằm xuống thì chiếc nhẫn này sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại của nó, tài sản sau lưng nó cũng sẽ tiêu tan như mây khói, con có hiểu ý của ta không?”
Diệp Quán Ngữ vẫn có vẻ mù mờ chưa hiểu, bà Bối La liền đặt chiếc nhẫn trong một cái hộp, nói bằng giọng như ra lệnh: “Nếu con không chịu nhận, thì ta sẽ chẳng sống được đến khi trời sáng đâu!”
“Bà...” Diệp Quán Ngữ nắm chiếc hộp mà cảm giác nó như thể nặng ngàn cân vậy, không dám tùy tiện gật đầu.
“Đừng từ chối nữa, nếu không ta sẽ trách con đấy. Dưới đáy cái hộp này có một địa chỉ, đến khi nào con cần được giúp đỡ, thì hãy mang chiếc nhẫn này đến Pháp gặp ta, cho dù ta không còn trên đời này nữa, thì chỉ cần có chiếc nhẫn này, nó sẽ giúp con đạt được nguyện vọng của mình, nhớ kĩ lấy, không được để mất! Nghe rõ chưa?”
Cuộc sống vẫn diễn ra như thường.
Diệp Quán Ngữ còn nhớ, khi đó anh cẩm chiếc nhẫn và suy nghĩ rất nhiều ngày, anh luôn không hiểu ngoài một chiếc nhẫn ra thì nó còn có thể có ý nghĩa gì nữa. Nhưng anh nghĩ, nếu đã là đồ bà Bối La tặng thì cho dù nó chỉ là cái nhẫn cũng phải giữ gìn thật tốt, đây là một sự giao phó và tín nhiệm nặng nề đầy trách nhiệm! Anh không hề hi vọng chiếc nhẫn này sẽ mang đến kì tích gì cho tương lai của mình, với cuộc sống của anh bây giờ, mơ ước chính là thứ nhỏ bé không đáng tiền nhất. Nhưng những lúc đêm khuya vắng lặng, một mình anh lại thẫn thờ dưới ánh trăng trên mảnh đất hoang ngoài lán công trường, tâm trạng khó mà bình tĩnh được. Nỗỉ xức động mà bà Bối La mang lại cho anh khiến anh không bao giờ trở về lại được với sự đơn thuần của ngày xưa, lần đầu tiên anh thấy cuộc đời con người lại là một chuyện phức tạp đến vậy, một giấc mơ, lại có thể mơ mãi suốt cả cuộc đời...
Đúng vậy, một giấc mơ có thể mơ suốt cả một cuộc đời.
“Anh, anh đang nghĩ gì vậy?” Không biết Văn Uyển Thanh đã ra từ lúc nào, cầm cốc cà phê đặt trước mặt anh, Diệp Quán Ngữ giờ mới định thần lại, ngước mắt lên nhìn cô. Đang trong những ngày xuân ấm áp, Văn Uyển Thanh mặc một chiếc váy may thêu màu hồng mỏng, chiếc váy rộng thoải mái kiểu Hàn Quốc vẫn không che đi được cái bụng đang hơi nhô lên. Ánh mắt của Diệp Quán Ngữ dừng lại trên cái bụng của cô, “Mấy tháng rồi?”
Diệp Quán Ngữ mặt tỉnh bơ: “Em định sinh nó thật à?”
Văn Uyển Thanh vừa nghe vậy liền cuống cả lên, cô hiểu Diệp Quán Ngữ nhất, khi mặt anh tỉnh bơ chính là lúc anh đáng sợ nhất, một ánh mắt thiếu thận trọng cũng có thể dồn người ta vào chỗ chết. Lức này, ánh mắt của anh lạnh đến nỗi khiến người ta khiếp sợ. Văn Uyển Thanh vô cùng sợ hãi, theo bản năng, cô lùi lại phía sau: “Anh, anh hãy tha cho đứa bé này đi, nó vô tội nó là con của em, em sẽ không để nó mang họ Lâm đâu...”
“Nó không mang họ Lâm thì không phải là con cái nhà họ Lâm sao?” Diệp Quán Ngữ cầm cốc cà phê lên, trên mặt không một chút xúc cảm, vẫn không nhìn ra được một chút manh mối gì. Nhưng đôi mắt anh đã hơi nheo lại, ánh mắt vô tình hay hữu ý nhìn vào bụng của Văn Uyển Thanh, đây thực sự là một tín hiệu nguy hiểm. Mỗi khi anh nheo mắt nhìn ai đó, đa phần là người đó sẽ gặp rắc lối, Văn Uyển Thanh bước lên phía trước, “phịch” một tiếng, quỳ xuống trước mặt anh: “Anh, em biết anh rất không vui, nhưng ngoài đứa con này ra, em đã không còn gì nữa rồi, bao năm qua, thực ra chẳng có gì thuộc về em cả,.,”
“Em thật là ngang bướng!” Diệp Quán Ngữ vung tay, cốc cà phê văng ra xa, vỡ tan tành, “Chỉ tại tôi nuông chiều quá nên em mới đâm hư ra thế này! Em có đầu óc suy nghĩ hay không vậy, sinh một đứa trẻ ra, để nó không có bố, như thế có phải là thái độ chịu trách nhiệm không? Ngày xưa em có vượt quá giới hạn đến thế nào tôi cũng đều có thể nhân nhượng được, ban đầu em lấy Lâm Hy, rồi cuối cùng lại diễn kịch giả thành thật, tôi cũng đã dung nạp em rồi, nhưng em lại muốn sinh đứa con của hắn ra, em đặt tôi ở đâu vậy, hả? Em đừng quên, em là người đàn bà của tôi, thế mà lại sinh con cho gã họ Lâm đó, em tưởng rằng tôi sẽ cho phép sao?”
“Anh...” Văn Uyển Thanh ôm lấy chân anh, òa khóc, “Không phải là em không muốn báo thù cho anh, nhưng đến mãi phút cuối, em mới phát hiện ra rằng, tình yêu mãi mãi quan trọng hơn cả thù hận, chính là tình yêu khiến em sống được đến ngày hôm nay. Em yêu anh ấy, cho dù em cũng hận anh ấy... Mà chính nhờ đứa bé này khiến em hiểu được thế nào là yêu, nó chính là tất cả hi vọng còn lại của em...”
Diệp Quán Ngữ bỗng thất thần trong giây lát, “Lại là yêu...”
“Bao năm qua anh như một người anh trai, luôn chăm sóc, yêu thương em, là anh đã cho em cuộc sống được ăn ngon mặc đẹp, còn đưa em đi nước ngoài du học, nhưng anh ơi, anh hãy tự hỏi lại mình xem, thứ mà anh cho em là tình yêu sao? Anh yêu em sao? Em chẳng qua chỉ là vật thay thế mà thôi, một thứ để gửi gắm, bởi trong em có hình bóng của người con gái trong tim anh, anh nuông chiều em như thể em là cô ấy... Em đã nhận ra từ lâu rồi, rất nhiều năm trước, khi lần đầu tiên em nhìn thấy bức ảnh của Thư Mạn trong ngăn kéo bàn. của anh, em mới bỗng nhiên tỉnh ngộ. Nhưng em không nói ra, bởi em sợ anh sẽ ruồng bỏ em...
Sau này dần dần lớn lên, em không muốn cả đời làm một vật thay thế nhỏ bé đáng thương như thế, em muốn có một tình cảm thuộc về chính bản thân mình, cho dù là phải rời xa anh dưới hình thức là đi báo thù, em cũng nguyện mỉm cười bước đi vào nơi nguy hiểm. Thực ra, tìm Lâm Hy báo thù, nói cho cùng cũng chỉ là mượn danh nghĩa thế thôi, em chỉ muốn rời xa anh, em sợ sau này chết rồi, em sợ trên bia mộ của em sẽ khắc tên một người phụ nữ khác không phải là em. Điều đó thật đáng sự! Cũng thật đáng thương! Thế rồi em lấy Lâm Hy, khi đó em đã có dự cảm em sẽ yêu anh ấy, cũng rất kỳ vọng rằng anh ấy có thể cho em tình yêu, nhưng sự việc lại không như người ta mong muốn, em vẫn không thể có được cái mà em khao khát... Đứa bé, chỉ có đứa bé này mới là thứ duy nhất em có được, cũng là chỗ dựa duy nhất của em trong quãng đời còn lại, anh, xét vì bao năm qua em đã ở bên anh, bầu bạn cùng anh, xin anh đừng cướp đi đứa bé này của em, em xin anh, anh ơi...”
Diệp Quán Ngữ không nói gì, vung tay bước đi.
Mặc cho Văn Uyển Thanh có gào khóc thế nào, anh cũng không thèm ngoái đầu nhìn lại.
Ra khỏi cổng dinh thự, Lữ tổng quản lập tức ra mở cửa xe cho anh. Lên xe, dè dặt hỏi anh: “Ngài có gì dặn dò không ạ?”
Ý ông là, anh dự định xử lý đứa bé trong bụng Văn Uyển Thanh thế nào.
Diệp Quán Ngữ vẫn còn bực mình không chịu nổi, xẵng giọng: “Để xem đã.”
“Vâng.” Lữ tổng quản đành gật đầu, nhưng do dự một lúc, vẫn nói thêm một câu: “Có điều, Quán Ngữ, thường thì chuyện gì cũng tốt nhất là đừng để lại hậu họa...”
“Hậu họa?”
“Đúng vậy, thằng bé được sinh ra rồi, dòng máu chảy trong người nó là máu của nhà họ Lâm.”
Diệp Quán Ngữ sao mà thông minh thế, vừa nghe vậy đã phì cười: “Ý ông là, sau này khi lớn lên, nó sẽ tìm tôi để báo thù hả?”
“Chúng ta không thể bỏ qua mối lo ngại này.”
“Không phải là lo ngại, mà là tuyệt đối sẽ có khả năng này!” Diệp Quán Ngữ cười phá lên, “Vậy thì tôi phải để cô ấy sinh đứa bé này ra mới được, tôi muốn xem xem, sau này cái giống lai này sẽ tìm tôi để báo thù như thế nào đây. Thú vị, thú vị quá đi chứ! Đời người là những kiếp luân hồi không ngừng, tôi tiêu diệt nhà họ Lâm, rồi lại để lại cho họ một cái gốc, sau này khi tôi đến độ tuổi của Lâm Sỹ Diên nhất định sẽ rất cô đơn, có lẽ sau này, cái giống tạp lai này sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh thú vị trong những năm tuổi già của tôi. Sống đến già, đấu tranh già, vậy mới không uổng sống một đời chứ, ha ha ha...”
“Quán Ngữ...”
“Thôi, thôi, chuyện này cứ quyết như thế đi. Mấyngày nữa mang chút đồ dinh dưỡng đến, bố trí ổn thỏa đời sống cho Uyển Thanh, để cô ấy sinh ra một thằng nhóc mũm mĩm khỏe mạnh đợi sau này tôi già còn chơi với tôi.” Diệp Quán Ngữ mỉm cười nheo mắt lại, đáy mắt lại vô cớ trào lên một đám sương, họng như bị một vật gì chặn lại, giọng anh thoát nhiên trở nên khàn đục, “Cuộc đời này vốn tôi đã không muốn sống nữa rồi, định sẵn là sẽ già và cô đơn cho đến lúc chết, không có người yêu, không có người thân, củng không có bạn bè, chỉ có kẻ thù... Nếu đã không thể có tình yêu, vậy thì hãy để người ta hận tôi đi, đây cũng là một cách để người ta nhớ đến mình. Chú Lữ, chú nói có phải không?”
Lữ tổng quản bỗng chốc nghẹn ngào: “Quán Ngữ, cậu nói vậy sao, cái thằng con trai này...”
“Cảm ơn chú, chú Lữ, trên đời này chỉ có chú gọi tôi là ‘con trai’ thôi.” Diệp Quán Ngữ mệt mỏi ngẩng mặt lên, chỉ trước mặt Lữ tổng quản anh mới thi thoảng thể hiện cảm xúc thật của mình ra, “Lúc bà Bối La còn sống, thi thoảng bà ấy cũng gọi tôi là ‘con trai’. Sau khi bà ấy ra đi, tôi mới thực sự cảm nhận được thế nào là cô đơn không nơi nương tựa. Ngay từ đầu tôi đã biết, có lẽ đến cuối đời tôi cũng không có được thứ mà tôi muốn có, quả nhiên là vậy, nhớ thương cô bé đó suốt mười mấy năm trời, cuối cùng cô ấy lại yêu người khác...”
Câu nói ấy khiến Lữ tổng quản như sực nhớ: “À, đứng rồi, vừa mới nhận được tin tức, cô Thư Mạn...” Lữ tổng quản nói đến đó thì ngập ngừng, vế tiếp sau đó không biết nói thế nào.
“Cô ấy làm sao?”
“Vào viện rồi, bệnh tim đột nhiên tái phát.”
Đỗ Trường Phong đứng đờ người, không biết nên “giải quyết” cô gái này thế nào. Bác sĩ nói cô bị bệnh tim nghiêm trọng, lâu ngày không được điều trị, bệnh tình đã không thể kiểm soát, lúc nào tim cũng có thể ngừng đập. Đỗ Trường Phong buồn rầu nghĩ ngợi, còn chưa bắt đầu đã kết thúc rồi sao?
Anh đi đi lại lại trong phòng bệnh, y tá yêu cầu anh không hút thuốc, anh coi như gió thoảng ngoài tai. Cô y tá có khuôn mặt đầy tàn nhang tức giận nhìn anh, cảnh cáo: “Nếu anh còn hút thuốc, tôi sẽ gọi bảo vệ tới.”
“Vết tàng nhang trên mặt cô đáng yêu thật đấy!” Đỗ Trường Phong như thể muốn trêu tức cô ta.
“Đồ thần kinh!”
“Sao cô biết tôi bị thần kinh?”
“Đúng là đồ thần kinh!” Y tá giận dữ, giật cửa bước ra ngoài.
Đỗ Trường Phong cố ý lớn tiếng gọi với: “Này, cô ơi, sao cô biết tôi bị thần kinh thế?”
“Dĩ nhiên là tôi biết rồi.” Ngoài cửa có giọng đùa cợt của một người đàn ông đáp lại.
Tiếp đó cửa được mở, Vi Minh Luân bước vào, cười ha hả. Thấy Vi Minh Luân bước vào, Đỗ Trường Phong không khỏi ngạc nhiên: “Sao anh đã đến rồi?”
“Không phải anh gọi điện cho tôi nói anh ở đây sao? Vi Minh Luân ngồi xuống chiếc ghế tựa bên giường bệnh, kinh ngạc nhìn Thư Mạn nằm trên giường bệnh, rồi lại ngước đầu trừng trừng nhìn Đỗ Trường Phong. “Hôm trước còn lành lặn, sao giờ lại thành thế này? Anh làm gì cô ấy rồi?”
“Anh quản được tôi chắc!” Đỗ Trường Phong bực bội nói.
“Sam, anh có tình người chút được không, tôi đã tốn bao nhiêu công sức để thuyết phục cô ấy ở lại, anh lại phá hỏng mọi cố gắng của tôi…” Vi Minh Luân ngắm Thư Mạn, trong lòng thầm kinh ngạc. Tuy sắc mặt cô tái nhợt nhưng ngũ quan vẫn vô cùng thanh tú, cho dù đôi mắt đang nhắm chặt, nhưng thần thái vẫn toát ra thứ ánh sáng băng lạnh như một bông hoa tuyết thanh khiết, khiến người ta bị thu phục nhưng không dám nhìn thẳng. Mái tóc cô đặt trên chiếc gối trắng muốt giống như một đám mây tuyền lại càng tôn lên vẻ đẹp lạnh lùng của cô. Vi Minh Luân bất giác thốt lên: “Người đẹp đúng là người đẹp, đến bị bệnh rồi mà vẫn đẹp.”
“Sao, anh động lòng à?” Đỗ Trường Phong tiếp tục nhả khói thuốc.
“Này, anh không được hút thuốc gần bệnh nhân!”
“Tôi cũng là người bệnh!”
“Ngoài bệnh thần kinh ra, anh còn bệnh gì nữa?”
“Tôi bị bại não.” Đỗ Trường Phong phì cười.
“Cám ơn trời phật, anh cũng biết mình bại não.” Đối với người “bại não” như vậy, nếu cứ cương mãi cũng không được, chỉ có thể mềm mỏng lại. Vi Minh Luân cố gắng dùng lời ngon tiếng ngọt: “Sam, coi như tôi xin anh được không? Chẳng mấy hôm nữa là biểu diễn rồi, lại chưa tham gia buổi tập luyện nào, cứ như vậy, người ta cũng hết cách.”
Quả là hết cách, ai bảo tác phong trước giờ của tên “bại não” này chỉ là thấy tiếng không thấy người? Chẳng ai làm gì được anh. Vì anh từ chối lộ diện trước công chúng thành ra những tin đồn về anh càng lúc càng nhiều. Thông tin lại rất đa dạng, không có tin nào là không được đào xới, trong khi bản thân anh lại chẳng bao giờ để ý.
Ban đầu thiên hạ đồn anh là “thiên tài thiểu năng”, ngoài chơi đàn ra thì không thể tự lo liệu cho cuộc sống của mình. Sau này lại có tin anh là tù phạm, bị kết án chung thân nên chỉ có thể kéo đàn giết thời gian. Cũng có tin anh là bệnh nhân tâm thần, ngoài nhận biết được nhạc ra thì ngay cả bố mẹ cũng không biết. Lại còn tin anh là bên nhân AIDS giai đoạn cuối, để tưởng nhớ đến người yêu cũng bị mắc AIDS đã qua đời, thời gian còn lại của mình anh lấy âm nhạc làm thứ lưu giữ lại tình yêu của họ. Có tin lại nói anh sớm đã không còn tại thế, lúc sinh tiền nghèo khó không có tiếng tăm, sau khi chết lại được dương danh ở nước ngoài, hơn nữa trong một đêm nhảy ra đâu gần mười đứa con riêng, tranh cướp nhau kế thừa di sản kếch sù từ việc phát hành nhạc mang lại… Gần đây lại có tin đồn theo phong cách mới, nói Sam Lin đang danh tiếng lẫy lừng lại là một người đồng tính, hiện nay đang cùng người tình sống kín trên ngọn núi nào đó ở Thụy Sỹ, nghe nói còn sắp làm phẫu thuật chuyển đổi giới tính… Sở dĩ nói anh sống ẩn dật trên núi là vì trong tác phẩm gần đây nhất của anh lúc nào cũng nghe thấy âm thanh của thiên nhiên, nào là tiếng nước chảy, tiếng chim hót, tiếng gió, tiếng mưa thật khiến người khác không khỏi suy đoán…
Nhưng bản thân Sam Lin vĩ đại lại chán chẳng buồn cải chính tin đồn. Ngoài việc thu âm sáng tác ra, sau khi thành danh anh cũng chưa từng công khai lộ diện trên sân khấu, cũng không tiếp nhận phỏng vấn báo chí, mọi người phần lớn chỉ biết anh qua tiếng nhạc. Nhưng cũng chỉ là biết về tác phẩm của anh, còn về chuyện cá nhân, giới bên ngoài chỉ biết đại khái trong thời gian du học ở Nhật Bản anh đã giành được hết giải thưởng quốc tế này đến giải thưởng quốc tế khác về biểu diễn violon. Thậm chí nhạc anh sáng tác và biểu diễn khi tốt nghiệp đã được Hollywood chọn làm nhạc nền trong một bộ phim, kết quả là tạo được một hiệu ứng vô cùng lớn. Còn những chuyện khác như hoàn cảnh gia đình, cuộc sống hiện tại, cũng như cả tên họ thật của anh đều không ai biết, trừ những người thân cận với anh.
Vi Minh Luân dĩ nhiên chính là bạn thân nhất của anh. Vì muốn lăng xê Sam nên Vi Minh Luân đã đốt một khoản tiền lớn để mời dàn nhạc từ Thượng Hải tới, cả một đống người ngày đêm luyện tập thế nhưng ông trẻ này ngay cả buổi họp báo giới thiệu Chương trình cũng không tham gia, họp báo vừa kết thúc thì lại chơi trò mất tích, điện thoại luôn trong tình trạng không liên lạc được, thế mà hôm kia lại ló mặt ra một lúc ở Hải Đường Hiểu Nguyệt, Vi Minh Luân vừa định tóm anh đi tổng duyệt thì ngày hôm sau lại không thấy tăm hơi.
Thế mà lúc này lại chẳng có chút thành ý hối lỗi nào. Mặt lâng lâng, mắt lim dim, Sam hờ hững: “Biểu diễn mà, anh giải quyết là được rồi.”
“Là anh biểu diễn! Đến lúc đó người trên sân khấu biểu diễn là anh!” Vi Minh Luân vừa ức vừa tức, mặt tối sầm lại như trời ra giông: “Anh không biết phải không, chiều hôm qua tay chơi piano đổ bệnh rồi, tôi buộc phải tìm người thay thế trong thời gian ngắn nhất, không thì buổi biểu diễn tới đúng là phải dẹp rồi. Ngày mai tôi đi Bắc Kinh…”
“Anh nói Diêu Tĩnh hả? Đang khỏe thế sao mà bệnh được?
Sam vội vã hỏi lại,“Cảm ơn trời phật, anh cũng biết lo.” Vi Minh Luân thầm mừng rỡ.” Tôi sao mà biết được tự nhiên cô ấy lại bệnh thế chứ, thấy bảo là đau thắt lưng, cần phải được chữa trị…”
“Ma mới tin! Hôm trước tôi còn ở cùng cô ta.”
“Cái gì? Anh ở cùng cô ấy?” Vi Minh Luân thiếu chút nữa nhảy dựng lên, nhìn bọ dạng hờ hững của Sam trong lòng cũng đã hiểu ra mấy phần: “Nói đi, có phải anh đã đắc tội với cô ấy?” Làm ơn đi! Bây giờ là lúc nào rồi, anh có thể bớt gây phiền phức chút được không?”
“Chuyện này không thể trách tôi. Cô ta hẹn tôi đi xem tuần lễ thời trang ở Thượng Hải, tôi có việc không đi được. Không phải vì chút chuyện dở hơi đấy mà bỏ diễn chứ?” Sam gân cổ giải thích.
Vi Minh Luân chỉ muốn ngất ngay lúc ấy: “Anh cho người ta leo cây, người ta không tức mới lạ. Chỉ cùng cô ấy đi xem thời trang thôi, có cái gì đâu. Người ra còn xinh xắn, là nghệ sĩ piano cấp quốc gia. Gái đẹp chủ động chạy tới, anh còn giở trò sĩ gì?”
Sam lắc đầu nguầy nguẩy: “Béo quá, tôi nhìn hông cô ta đã thấy ớn rồi. Hơn nữa tôi đây là người chính trực, đường hoàng, sao lại có thể vì một buổi biểu diễn mà bán nhan sắc của mình được?”
“Anh, anh đúng là có sắc!” Vi Minh Luân cố tình bỏ một chữ đi, “Nhưng ông Sam ạ, nước đến chân rồi, ông nói một chốc một lát tôi đi đâu mà tìm cho được người chơi piano cho hợp với ông đây, người Bắc Kinh chưa chắc đã chịu tới đây này.”
Sam vẫn trầm ngâm không nói, mắt đen láy như bầu trời đêm nhìn về phía Thư Mạn đang hôn mê bất tỉnh. Anh khẽ nhíu mày, vầng trán hiện ra vẻ buồn chán. Ánh mắt vu vơ của anh như đã nhìn thấu cô, rồi dừng lại ở nơi nào đó, khuôn mặt như tạc tượng không chút biểu cảm: “Anh ở lại đây đi, tôi đi trước đây!” Nói rồi xoay người nghênh ngang bước ra ngoài.
“Này, anh đi đâu?”
“Đi giải sầu.”
“Quay lại! Thư Mạn làm thế nào?”
“Anh xem rồi liệu mà giải quyết đi” Nói tới đó thì Sam cũng ra tới cửa, Vi Minh Luân tức tối đuổi theo ra cửa hét: “Này, quay lại!”
Nhưng lại phí công. Ông trẻ ấy trước giờ không phải dễ làm theo ý người khác. Vi Minh Luân ảo não quay về phòng, rồi như chợt hiểu ra, thì ra gã đó gấp rút gọi anh tới bệnh viện chính là để anh ở lại trông nom người bệnh. Cái gì gọi là chọn bạn mà chơi? Đây chính là một minh chứng điển hình! Cũng trách Vi Minh Luân quá dung túng cho Đỗ Trường Phong, chơi với nhau bao năm nay, biết rõ bản tính của anh ta rồi, cho dù anh có tức tới hộc máu thì anh ta vẫn trong bộ dạng thờ ờ chẳng chút quan tâm mà. Nếu anh thật sự không để tâm đến anh ta, anh ta lại cười hì hì đi qua đi lại trước mặt anh, một ngày mà không quấy rối anh thì không chịu đựng được, thế là, anh cũng phải xin thua.
Ấn tượng để lại sâu sắc nhất với Vi Minh Luân chính là lần ở Hồng Kông, Đỗ Trường Phong vì chuyện đó mà đắc tội với anh. Trong lúc tức giận, anh đưa cô bạn gái mình vừa quen tới Thái Lan du lịch, không thèm để ý đến anh ta nữa, kết quả là mỗi tối, tên này cứ như bói được thời gian, toàn gọi điện đúng lúc Vi Minh Luân và bạn gái mải miết quấn quýt lấy nhau. Anh bực mình tắt luôn di động rồi vứt phăng đi. Khổ nỗi, như thế cũng chẳng ích gì, Đỗ Trường Phong lại gọi điện đến lễ tân khách sạn, nói bừa là một du khách trong phòng nào đó muốn tự sát, phía khách sạn dĩ nhiên không dám chậm trễ, vội vàng chạy lên gõ cửa từng phòng. Vi Minh Luân biết Đỗ Trường Phong bày trò nên không để ý, kết quả, phía khách sạn thấy im lặng, càng nghĩ là “tình hình nghiêm trọng”, liền dùng chìa khóa dự phòng mở cửa ra. Đúng lúc đó Vi Minh Luân đang trần như nhộng khiến anh ngượng chín mặt, còn bạn gái nổi cơn thịnh nộ bay thẳng về nước ngay trong đêm. Đến lúc anh mở điện thoại định chửi Đỗ Trường Phong một trận thì tên xấu xa đó lại xuất hiện ngay trước mặt anh cười đắc thắng. Thì ra anh ở ngay sát vách, chẳng trách mà lại tính thời gian chuẩn xác như vậy. Gặp phải tên hỗn thế ma vương như vậy, anh không cúi đầu chào thua mới lạ.
Nhưng điều không cần bàn chính là Vi Minh Luân rất coi trọng Đỗ Trường Phong. Tên đó bề ngoài cá tính khác thường, phong cách bản thân quái dị khiến người khác chỉ dám “kính nhi viễn chi” thì trong lĩnh vực âm nhạc, Đỗ Trường Phong lại là một thiên tài, thậm chí còn trên cả thiên tài, nếu thật sự trên thế giới này có thiên tài. Hai người quen nhau từ lúc ở đại học Waseda, Nhật Bản, Đỗ Trường Phong lúc đó là nhân vật nổi tiếng ở trường, Vi Minh Luân cũng không kém phần, hai người nghe danh nhau từ lâu nhưng mãi vẫn chưa có duyên gặp mặt. Lần đó trường tổ chức thi tuyển chọn violon cho sinh viên Trung Quốc và Nhật Bản cùng cạnh tranh một suất học bổng nâng cao, một khi giành được vị trí đó sẽ được đi Vienna tham gia biểu diễn quốc tế. Đỗ Trường Phong vốn dĩ không tham gia mà chỉ đi xem cho vui, nhưng đúng hôm thi đấu, sinh viên Trung Quốc đang thi giữa chừng thì mắc lỗi bèn rút lui, thằng lỏi Nhật Bản ở phía dưới sân khấu lập tức hò hét, còn rất nhiều cử chỉ khiếm nhã. Đỗ Trường Phong thấy vậy hừ một tiếng rồi chạy lên sân khấu, giật lấy chiếc violon trong tay tên quỷ nhỏ, tấu một bản ngay trước mặt mọi người. Khúc nhạc kết thúc, ngay cả ban giám khảo cũng phải bật dậy vỗ tay. Cuối cùng Đỗ Trường Phong đại diện sinh viên Nhật Bản đi Vienna biểu diễn. Trường Waseda có rất nhiều lưu học sinh Trung Quốc, tối hôm đó họ liền mở tiệc chúc mừng, Vi Minh Luân bởi vậy mà quen và kết thân với Đỗ Trường Phong. Hai người vừa gặp như đã quen từ lâu, trời còn chưa sáng đã coi nhau nhau như anh em chí cốt.
Sau khi tốt nghiệp, Vi Minh Luân tham gia một dàn nhạc cấp quốc gia ở Bắc Kinh. Ít lâu sau thì ra làm riêng, tự lập công ty quản lý ăn hóa, giới thiệu và đưa các nghệ sĩ trong nước ra nước ngoài biểu diễn, cũng dẫn những nghệ sĩ tiếng tăm ở ngoài nước về nước, nhưng sau đó Đỗ Trường Phong dùng lời ngon tiếng ngọt dụ dỗ anh tới Ly Thành, nói là mời anh nhậm chức hiệu phó đàn piano quốc tế Lâm Nhiên. Lúc mới đầu nói hay là chỉ để anh đề tên ở đó, nhưng kết cục là từ khi nhận làm hiệu phó đến nay, mọi việc trong trường rốt cuộc đều đến tay anh cả, Đỗ Trường Phong thực ra chẳng động tay vào lo việc gì. Vi Minh Luân mấy lần đòi từ chức để về Bắc Kinh tiếp tục quản lý công ty của mình, kết quả Đỗ Trường Phong buông một câu: “Anh có xứng đáng với anh trai tôi không? Lúc còn sống anh ấy đối với anh không tệ bạc, thế mà anh định cứ rũ tay như vậy mà đi à? Anh tôi ở dưới suối vàng chắc cũng không thể nhắm mắt được.”
Anh ta nói cứ như thật, Vi Minh Luân lại là người trọng nghĩa khí, đành miễn cưỡng ở lại. Nhưng rồi qua mấy năm làm việc, dường như anh cũng có cảm tình với sự nghiệp giáo dục này, cũng không đành lòng bỏ lại đám trẻ không ai lo. Rốt cuộc công ty quản lý ở Bắc Kinh đành phải giao lại cho người anh họ trong gia đình quản lý, nhiều nhất anh cũng chỉ đưa ra kế hoạch, việc kinh doanh cụ thể thì không thể tự tay lo được.
Để Đỗ Trường Phong đồng ý biểu diễn ở trong nước, Vi Minh Luân đã mất hai năm gãy lưỡi thuyết phục. Không phải lấy danh nghĩa công ty, mà chủ yếu từ lập trường bạn bè, hi vọng anh có thể đường hoàng xuất hiện trước công chúng. Bản thân anh biết nỗi đau và những ẩn giấu trong sâu kín đáy lòng của người đàn ông lập dị này…
Sở dĩ Đỗ Trường Phong sống khép kín, không thích bị quá nhiều người chú ý bởi như thế cũng chẳng khác mấy chốn lao tù mà anh đã phải chịu đựng trong quá khứ. Tính cách ngông cuồng cố chấp của anh phần nhiều là vì cuộc sống tăm tối ấy tạo ra. Tuy hiện giờ anh đã được “tự do”, nhưng những gì trải qua đã hằn sâu tận đáy lòng. Thế giới tinh thần của anh vẫn bị nhốt ở nơi đó, đến nay chưa thể nào giải thoát. Vi Minh Luân bởi thế mới cố gắng nhẫn nhịn tính khí xấu xa của anh, cho dù anh ta có gây ra bất cứ chuyện hoang đường nào, Vi Minh Luân cũng thay anh chịu trách nhiệm, thương anh, xót anh, nhưng cũng hết cách với anh.
Trong phòng bệnh không được hút thuốc, Vi Minh Luân đành rời phòng tìm nơi hút thuốc. Ở ban công khu vực nghỉ gơi, anh nhìn thấy Đỗ Trường Phong ở phía xa cũng đang ngồi một mình buồn bực hút thuốc, hóa ra anh ta vẫn chưa đi xa. Thấy Vi Minh Luân đi tới, anh rút hộp thuốc lá bằng bạc ra mời lấy lòng: “Vất vả quá, hiệu phó Vi.”
Tên này rõ ràng đang cố ý châm chọc, rõ ràng biết Vi Minh Luân ghét nhất bị người khác gọi như vậy, vì “Hiệu phó Vi” đọc lên đồng âm với “Hiệu phó ngụy”, “ngụy” trong “ngụy quân tử”. Vi Minh Luân biết vậy thì tức muốn phát điên, anh cấm chỉ trong trường không ai được gọi như vậy. Nhưng có Đỗ Trường Phong ở đó, lệnh cấm gì cũng thành vô ích.
Vi Minh Luân khoanh hai tay, mặt đanh lại, “Sam, coi như tôi cầu xin anh được không? Buổi biểu diễn chỉ còn cách mấy hôm nữa, anh chú tâm vào một chút, tốt xấu gì cũng phải tham gia tập luyện một lần chứ.”
Đỗ Trường Phong tay mân mê điếu thuốc, vẻ mặt hờ hững: “Tôi còn cần phải luyện tập sao?”
“Làm ơn đi, biểu diễn lần này quan trọng thế nào anh không phải không biết. Tôi đã chuẩn bị hai năm rồi, hơi một nửa gia tài cũng đập vào đó rồi, anh không tập luyện sao có thể đảm bảo chất lượng buổi biểu diễn không? Lỡ như có sai sót…”
“Cô ấy đẹp thật!” Đỗ Trường Phong hoàn toàn không để tâm tới lời anh nói, ngửa mặt lên nhìn trời, ánh mắt phiêu đãng, tự lẩm bẩm, “Mười ba năm rồi, tôi trốn ở trong bóng tối giống như bóng ma, thậm chí ngay cả ma cũng chẳng bằng. Ma buổi tối còn có thể ra ngoài đi lại, có thể vô tư xuất hiện bên cạnh người mình thích, còn tôi thì không thể… Những ngày như vậy cũng có lẽ nên kết thúc rồi nhỉ, cô ấy còn nhớ con ma cô ấy đã gặp vào đêm trăng mười ba năm về trước không? Lúc đó, cô ấy còn là một cô bé, bây giờ đã lớn vậy rồi…”
“Anh cũng già rồi.” Vi Minh Luân bất giác độc địa cạnh khóe, rồi lại chau mày: “Như vậy có lẽ không được tốt lắm. Anh sắp xếp cô ấy ở Hải Đường Hiểu Nguyệt, ngay bên cạnh chỗ anh. Nếu để cô ấy biết được, với tính khí của cô ấy chắc chắn sẽ ngay lập tức chuyển đi, đến lúc đó thì coi như xong!”
Đỗ Trường Phong ngẩng cổ, nghịch ngợm thở ra từng vòng khói thuốc: “Không sao, cùng lắm tôi lại tiếp tục làm ma, không để cô ấy nhìn ra được.”
“Anh giả ma giả quỷ còn chưa đủ hay sao? Đã mười ba năm rồi…”
“Đúng vậy, mười ba năm rồi.” Đỗ Trường Phong thở dài một hơi, bản thân cũng thấy khó tin,” Tôi vẫn còn sống được! Darwin, tôi vẫn có thể sống!”
Darwin là tên tiếng anh của Vi Minh Luân. Anh không thích bị người khác gọi mình là “hiệu phó rởm”, dĩ nhiên cũng không thích bị người khác gọi là “thầy rởm”, vì vậy hạ lệnh học sinh và giáo viên trong trường đều phải gọi anh bằng tên tiếng Anh, như vậy vừa có thể kéo gần khoảng cách thầy và trò, cũng tránh việc ngượng nghịu khi xưng hô.
Vi Minh Luân nhìn Đỗ Trường Phong, nói đầy ý vị: “Anh có thể sống được, không có gì đáng ngạc nhiên, dù gì có ông già nhà anh chống lưng, tôi không có gì ngạc nhiên. Nhưng tên King King đó vẫn có thể phiêu dạt nước ngoài mười mấy năm, trở mình biến thành một Hoa kiều yêu nước, vừa về đã khua chiêng gõ trống mở rộng phạm vi thế lực của mình.”
King Kong là cách họ gọi một người bí mật.
“Cho nên tôi mới sốt ruột muốn đưa Thư Mạn qua đây, tên King Kong ấy đã cho cả máy ủi đất đến trước cửa nhà Thư Mạn rồi, tôi mà không hành động cho cô ấy chắc chắc sẽ không phải của tôi nữa.”
“Cô ấy đã lúc nào là của anh?” Vi Minh Luân trước giờ đều thích chọc ngoáy, “Tuy anh yêu thầm cô ấy mười ba năm, nhưng người ta thực chất không biết anh, thậm chí còn có ấn tượng xấu với anh. Nếu không phải vì bức tượng ở sân trường, có lẽ cô ấy cũng sẽ không ở lại.”
“Tượng đồng?” Đỗ Trường Phong nhíu mày.
“Chứ sao! Anh không thấy dáng vẻ cô ấy lúc ôm bức tượng khóc thảm thiết thế nào đâu, chà chà chà…” Vi Minh Luân lắc lắc đầu, “Đúng là khiến người khác phải đau lòng.”
Đỗ Trường Phong sa sầm nét mặt: “Ý anh là, trong mắt cô ấy, tôi còn không bằng một bức tượng sao?”
Vi Minh Luân như không để lại cho anh chút sĩ diện nào: “Chỉ sợ ngay cả tượng đất cũng không bằng ấy chứ.”
“Mẹ!” Anh nghiến răng ken két, “Ngày mai tôi sẽ sai người chuyển Lâm Nhiên đi chỗ khác.”
Vi Minh Luân tỏ ý không đồng tình: “Vô ích thôi Sam. Anh nhiều nhất cũng chỉ có thể chuyển bức tượng ấy đi, nhưng liệu anh có thể chuyển Lâm Nhiên rời khỏi trái tim cô ấy không? Mong manh lắm! Thấy cô ấy khóc như thế, tôi cảm thấy cơ hội cho anh mong manh lắm. Thư Mạn thuộc mẫu người rất kiên định, nếu anh muốn thay thế vị trí của Lâm Nhiên trong lòng cô ấy…”
“Thế nào, tôi không thể sao?” Sắc mặt của Đỗ Trường Phong lúc này còn tối tăm, u uất hơn cả bầu trời bên ngoài.
Vi Minh Luân nhướng mày: “Anh cảm thấy anh có thể không?”
“Nếu tôi không thể, tên King Kong ấy cũng chưa chắc đã được.”
“Khó nói lắm, tên đó tàn nhẫn hơn anh.”
“Tàn nhẫn thì có thể theo đuổi con gái à?”
“Đương nhiên không thể, vấn đề là…” Vi Minh Luân vốc vai anh đầy thông cảm: “Sam, trong mắt tôi anh vẫn là một con thú chưa tiến hóa, không có tính người, không có lương tâm. Tên King Kong ấy thì khác, hắn có thể tay không mà làm nên cơ nghiệp, rồi lại trở về tìm nhà họ Lâm các anh trả thù, anh ta hẳn là kẻ rất giỏi giang.”
Mặt Đỗ Trường Phong như vừa được phủ một đám mây đen: “Tôi lại hi vọng anh ta có thể lao tới đây, muốn giết thì cứ giết thoải mái. Chỉ cần đừng lôi Thư Mạn vào là được.”
“Nhưng lo lắng của anh lại chính là mục tiêu của anh ta. Anh dõi theoThư Mạn mười ba năm, anh ta lại dõi theo anh những mười bảy năm. Anh có ý với Thư Mạn bao nhiêu, anh ta cũng không buông tha anh bấy nhiêu.”
“Nghe Lâm Hy nói, anh ta đang nghênh ngang thu mua cổ phần của Lâm Thị…”
“Tôi cũng có nghe nói.” Vi Minh Luân chuyển hướng nhìn ra gốc đa um tùm trong sân bệnh viện, gió bắt đầu nổi lên, mây đen đã phủ kín bầu trời, cây cối bị gió thổi nghiêng về một phía. Vi Minh Luân thở dài, “Sam, anh đã chuẩn bị chưa? Cơn giông tố đến thật rồi…” Còn chưa dứt lời, anh tái mét mặt, nhìn thẳng về phía lối cầu thang. Đỗ Trường Phong cũng quay lại theo hướng anh nhìn…
Một người đàn ông trong bộ vest màu xanh sậm đứng trước cửa phòng trực ban, đeo kính không gọng, dáng người thẳng tắp, không nói lời nào cũng toát ra khí chất hơn người. Chàng trai trẻ theo sau có lẽ là trợ lí xách một lẵng hoa, đang hỏi y tá trực ban điều gì đó. Trong hành lang bệnh viện vắng lặng, ánh mắt trấn áp người khác của người đàn ông đó khiến không một ai dám nhìn thẳng. Đây có lẽ chính là thứ được gọi là khí thế, mới chỉ mấy năm, làm sao anh có thể thay da đổi thịt được như vậy?
Người trợ lí trẻ tuổi ấy hiển nhiên đang hỏi phòng người bệnh, sau khi lịch sự cảm ơn y tá liền quay đầu lại thì thầm gì đó vào tai người đàn ông đeo kính. Mặt anh ta không chút biểu cảm, sau đó ngẩng cao đầu đi về phía bên này. Nhưng mới đi vài bước anh ta đã khựng lại, vì anh cũng vừa nhìn thấy Đỗ Trường Phong và Vi Minh Luân.
Ánh mắt sắc bén như mũi tên bắn thẳng tới.
Đôi mắt sắc bén như lưỡi dao của Đỗ Trường Phong nhíu lại, hơi thở nặng nề, nhìn thẳng về mũi tên kia.
“Chúng ta cuối cùng đã gặp mặt rồi!” Diệp Quán Ngữ lúc này đã đi tới gần anh. Anh mìm cười, thản nhiên chào hỏi, “Nhiều năm không gặp, vẫn bình an vô sự nhỉ? Thế nào, anh trai mày còn khỏe chứ?”
Đỗ Trường Phong biết rằng anh ta đang cố tình khiêu khích. Anh đứng lặng người, luồng khí lạnh từ đầu xuyên thấu khắp người khiến anh cảm thấy lạnh buốt, giống như mình đang bị đắm chìm trong nước lạnh ngày đông. Anh biết, điều cần đến sớm muộn cũng đã đến.
“Thế nào, không quen à?” Diệp Quán Ngữ nhìn chằm chằm vào anh, như muốn dùng ánh mắt đó mà khoét sâu hai lỗ. Anh nhếch miệng cười lạnh: “Mày… sẽ không chóng quên như vậy chứ?”
Đỗ Trường Phong hít sâu một hơi: “Dĩ nhiên không quên.”
Diệp Quán Ngữ cười lạnh, từng bước áp sát tới gần anh, gằn giọng lạnh lùng: “Báo ứng mà, đời mày cuối cùng thì cũng có báo ứng, đúng không?”
Vi Minh Luân kéo Đỗ Trường Phong: “Chúng ta đi thôi.”
“Đừng vội đi như thế, mày không ngoan ngoãn ở trong viện đi, lại chạy tới Đồng Thành làm gì? Hay là bây giờ mày đã khỏi bệnh rồi?” Diệp Quán Ngữ nhếch miệng cười, ánh mắt như có thể giết người ngay được.
Mãi đến giờ mới chịu xuất hiện, Diệp Quán Ngữ thấy anh là người có tính nhẫn nại nhất trên đời. Nhưng anh cũng biết, có lẽ cả đời mình cũng sẽ không đạt được thứ anh muốn.
Lúc nhỏ, nhà anh sống trên đường Thúy hà ở Ly Thành. Nơi đó khi xưa là tô giới, có rất nhiều ngõ ngách nhỏ, những người sống ở đó tuy nghèo nhưng đều gốc phố, đều có hộ khẩu thành phố cả. Cả nhà Diệp Quán Ngữ ban đầu sống ở đường Hạ Hà, nơi đó tập trung người từ nông thôn các nơi lặn lội lên thành phố mưu sinh, một số khác là phần tử lưu mạnh trộm cướp. Bố anh, Diệp Đại Long khi đó sợ con mình học theo tính xấu, liền chuyển tới đường Thúy Hà phía đối diện, hy vọng các con mình có thể khôn lớn trong môi trường tốt đẹp hơn, tương lai không phải làm cửu vạn như ông.
Diệp Đại Long kiếm sống bằng nghề bốc xếp. Đường Thúy Hà nối liền ra bến tàu Mặc Hà, hàng ngày ông đều ra đó kéo hàng cho người khác. Khi không có hàng kéo, ông đến mỏ than gần đó kéo than thuê. Trong nhiều năm ông đã đi xuyên hết các con ngõ ở thành phố này. Trong kí ức thơ ấu của Diệp Quán Ngữ, cả người bố, từ đầu đến chân toàn một màu đen xám xịt, lưng còng lam lũ, trước giờ chưa bao giờ nhìn thấy lưng bố thẳng, mãi như thế cho đến lúc chết. Mẹ Lương Hỷ Trân đẻ thêm em trai Quán Thanh lúc Diệp Quán Ngữ lên bốn. Áp lực cuộc sống lại lớn hơn, bố anh chỉ hận rằng bản thân không chia thân mình ra làm hai được, thế là tiền công cũng có thể kiếm được gấp đôi để dùng.
Lương Hỷ Trân cũng rầu rĩ trong lòng, nghĩ bản thân cũng cần phải làm chút gì đó để kiếm sống. Bà được người ta giới thiệu cho con trai nhà họ Lâm trên đường Thúy Hà bú sữa. Nhà đó vốn không sống ở gần đây, mà sống trong căn nhà rộng rãi ở đường Tử Đằng. Sau cách mạng văn hóa bùng nổ, nhà ở đó bị tịch thu, cả nhà buộc phải chuyển tới khu nhà ở đường Thúy Hà. Cho dù như vậy, nhà họ Lâm vẫn là nhà có tiềm lực nhất trên con đường này, căn nhà tách biệt riêng rẽ có ba tầng, người trong nhà từ đồ ăn đến cái mặc đều là những thứ mà những nhà khác cùng phố nghĩ tới thôi cũng không dám.
Nghe nói, đời ông của nhà họ Lâm làm quan lớn, sau đó có gặp chút khó khăn, hình như được người ở Bắc Kinh đứng ra bảo lãnh nên không bị mất chức, nếu không e rằng ngay cả căn nhà nhỏ này cũng không có mà ở. Khi đại đa số các nhà khác phải thắt lưng buộc bụng thì nhà họ vẫn được ăn bánh ngọt, đều là ông phái người đưa tới, vì năm đó nhà họ Lâm vừa mới sinh được cháu đích tôn, mọi người đều cưng nựng như bảo vật trong nhà. Bố mẹ của đứa bé đều rất trẻ, trong nhà không có ai khác, chỉ có một mẹ già đi lại không tiện nên hầu như nằm liệt giường, bệnh tật thì có sẵn bác sĩ trong nhà. Nữ chủ nhân nghe nói vốn là một diễn viên múa rất xinh đẹp, tính tình cũng phóng khoáng, vừa sinh được đứa con trai thì được mọi người trong nhà cung phụng như thánh sống, chỉ tiếc là không có sữa, cho uống sữa bò thì đứa trẻ bị nóng trong, cả người phát ban, tình thế cấp bách nên đành phải tìm người giúp bé bú.
Lúc đó không thể nào không công khai mời vú em như vậy, vì sẽ bị người khác cáo giác là tư bản chủ nghĩ bóc lột nhân dân lao động, vì vậy, Lương Hỷ Trân mỗi ngày ba lần đến nhà cho cậu nhỏ nhà họ Lâm bú sữa, có khi là nữ chủ nhân bế đứa trẻ đến nhà Hỷ Trân. Bề ngoài có vẻ như thân thiết, nhưng lúc người ta đến nhà ngay cả cửa cũng chẳng bước vào, Hỷ Trân chuyển ghế ra sân mời ngồi, nhưng bà ta thà đứng chứ nhất quyết không ngồi, sợ làm bẩn chiếc váy trắng tinh của mình.
Lúc đó, Diệp Quán Ngữ cũng đang chơi trong vườn, tay chân lấm lem bẩn két lại. Không phải vì nghịch bò trên đất, mà vì ngồi trên đống than bố cậu mới thu dọn. Nhưng rất kì lạ, nữ chủ nhân nhà họ Lâm mỗi lần nhìn thấy Diệp Quán Ngữ chẳng những không ghét bỏ mà còn rất thích nói chuyện với cậu, còn hay mang kẹo cho cậu ăn. Khi nhìn Diệp Quán Ngữ, ánh mắt bà luôn đăm chiêu suy nghĩ.
Người đàn bà ấy mỗi khi nhìn Diệp Quán Ngữ thường hay thất thần, ánh mắt tràn ngập nỗi buồn.
Bà rất ít khi cười, cho dù dáng vẻ lúc cười vô cùng đẹp. Trong mắt những người phụ nữ khác trên dường Thúy Hà, bà thuộc tầng lớp trên, mặt lạnh như sương, họ không bao giờ với tới. Nhưng chồng bà lại là người rất hòa đồng, lịch sự, nho nhã, ai gặp cũng cười tươi, lễ độ. Hơn nữa ông còn rất nhiệt tình, thường hay khám bệnh, tặng thuốc miễn phí cho hàng xóm. Đặc biệt đối với gia đình Diệp Đại Long thì càng giống như người một nhà, ông rất cảm kích việc Lương Hỷ Trân giúp ông nuôi con trai mình. Vì thế, hàng xóm đều gọi ông là “bác sĩ Lâm” một cách thân thiết.
Chớp mắt đã mấy năm trôi qua, khi Diệp Quán Ngữ lên mười tuổi thì xảy ra một chuyện khiến cậu khắc cốt ghi tâm, nhưng chuyện đó lại liên quan đến nhà họ Lâm. Nhà họ Lâm đã chuyển khỏi đường Thúy Hà, trở về căn nhà lớn ở đường Tử Đằng, bố bác sĩ Lâm qua đời lúc Cách mạng văn hóa sắp kết thúc, bà vợ không lâu sau cũng tạ thế. Vợ bác sĩ Lâm không lâu sau lại sinh thêm một đứa con trai cho ông, lúc con trai trong một tuổi, bác sĩ Lâm đã đặc biệt mời nhà Diệp Đại Long đến làm khách. Tuy đã dời đi, nhưng ông vẫn ghi nhớ ân tình của bà Hỷ Trân, người đã nuôi dưỡng con trai mình.
Diệp Đại Long phấn khởi đưa vợ con đến căn nhà lớn của nhà họ Lâm. Bác sĩ Lâm cũng nhiệt tình đón tiếp họ, còn đưa con trai cả của mình tới, để cậu gọi Lương Hỷ Trân là vú nuôi. Hỷ Trân nhìn thấy cậu cả nhà họ Lâm vừa vui vừa tủi, chú nhóc mặt mày thanh tú, áo quần tinh tươm, còn đi một đôi giày sáng loáng. Bà lại nhìn con trai mình, quần áo rách rưới không che hết rốn, người giàu và kẻ nghèo đúng là một trời một vực. Nhưng điều đó không ảnh hưởng tới chuyện đám trẻ chơi với nhau. Quán Ngữ còn biết phép tắc, nhưng Quán Thanh lại rất nghịch ngợm, trong lúc tranh giành đã khiến cho con trai bác sĩ Lâm khóc lớn, trán còn bị chảy máu. Chuyện này khiến Hỷ Trân vô cùng hoảng hồn, vợ bác sĩ Lâm lao tới tát Hỷ Trân một cái thật mạnh khiến bà ngã vật về sau mấy bước. Nếu không phải bác sĩ Lâm kéo ra thì bà Hỷ Trân còn phải chịu đựng thêm vài cái nữa.
Diệp Quán Ngữ sững sờ nhìn người đàn bà đó.
Một đứa trẻ mười tuổi cũng đã bắt đầu hiểu chuyện. Cậu nghiến răng ken két, lần đầu tiên trong đời cậu biết cái gì gọi là thù hận. Diệp Đại Long là người thật thà, chỉ biết nói xin lỗi liên tục, chỉ còn thiếu nước quỳ rạp xuống xin tha. Người đàn bà đó lại không biết tình biết lí, chỉ ra cửa thét: “Cút! Cút!...”
Bộ dạng hung dữ đó khiến Diệp Quán Ngữ suốt đời ghi nhớ. Khi rời khỏi nhà họ Lâm, cậu quay đầu nhìn khu vườn xanh biếc, khóe mắt nhòa lệ. Buổi tối hôm ấy, cậu ôm chặt mẹ nói: “Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa, đợi sau này con lớn rồi con sẽ mua lại căn nhà ấy, đuổi hết chúng ra ngoài.”
“Không chỉ thế thôi đâu!” Em trai Quán Thanh tính khí nóng nảy, nhảy ngược lên nói lớn, “Đợi con lớn rồi, con sẽ đập nát đầu nó!”
“Nói bậy, đánh người là không đúng.” Bà Hỷ Trần mắng Quán Thanh.
Quán Ngữ nói: “Vậy họ đánh mẹ như vậy là đúng sao?”
Hỷ Trân một hồi lâu không đáp lời con, chỉ biết ngồi khóc.” Ai bảo chúng ta nghèo khổ… “Bà chỉ có thể nói như vậy, tuyệt đối không thể nghĩ tới việc những lời nói vô thức của đám trẻ bao năm sau lại trở thành hiện thực. Trong vận mệnh tối tăm vô định kia, tất cả dường như đã được định sẵn, đời người giống như một bàn cờ, tiến hay lùi hoàn toàn không do bạn quyết định, chỉ không cẩn thận một chút nó sẽ biến thành bàn cờ chết.
Cũng chính do cái tát ấy khiến Diệp Quán Ngữ trong một đêm mà trưởng thành. Cậu thề rằng sau này nhất định sẽ phải có rất nhiều, rất nhiều tiền, mua lại ngôi nhà đó, đuổi hết bọn họ đi. Cậu thề rằng sớm muộn gì cũng sẽ đòi lại cái tát mà người đàn bà ấy đã tát mẹ mình. Nhất định! Nhất định như vậy!
Nhưng cuộc sống sau này không vì ý chí lớn lao của Diệp Quán Ngữ mà có bất cứ chuyển biến gì. Năm cậu mười lăm tuổi, bố cậu vì lao lực, sinh bệnh rồi thổ huyết mà chết. Mẹ cậu đau đớn khóc như chết đi sống lại làm hai anh em cậu sợ hãi, tưởng rằng mẹ sẽ khóc đến chết. Họ đã mất đi cha, lúc này không thể mất đi mẹ. Thế là hai anh em cũng khóc theo. Trong đêm, Quán Thanh khóc mệt ngủ thiếp đi, mẹ gọi Diệp Quán Ngữ đến bên giường, nói với cậu: “Con trai mẹ, mẹ thật có lỗi với con. Con vào nhà chúng ta khiến con không sống yên được ngày nào.”
“Mẹ ơi, mẹ đừng lo, đợi sau này con lớn kiếm nhiều tiền, nhà mình sẽ sống được tốt hơn.” Diệp Quán Ngữ kiên định nói.
Đôi mắt cạn khô nước mắt của mẹ lúc này lại ứa lệ: “Con trai ngốc của mẹ, chỉ cần cả nhà bình an, ngày tháng khó khăn thế nào cũng là những ngày tháng tốt đẹp. Ban đầu mẹ còn hối hận để con đến nhà chúng ta, nhưng bây giờ nghĩ lại, thật may mắn là có con…” Mẹ như muốn nói gì rồi lại thôi, bà vuốt đầu Diệp Quán Ngữ, đôi môi run rẩy.
Đêm đó, mẹ đã nói rất nhiều, đại ý là bố đã mất, Diệp Quán Ngữ trở thành trụ cột trong gia đình, em trai Diệp Quán Thanh tuổi còn nhỏ, cho dù thế nào cũng phải chăm sóc tốt cho em. Diệp Quán Ngữ lúc đó còn cảm thấy kỳ lạ, em trai của mình, cho dù mẹ không nói, người làm anh như cậu cũng sẽ hết sức làm tròn bổn phận, bản thân nhịn ăn nhịn uống cũng phải nuôi em trai trưởng thành.
Mẹ dường như cũng rất mâu thuẫn, muốn nói chuyện lại thôi.
Cũng chính vì trách nhiệm trên vai, Diệp Quán Ngữ đã từ bỏ nhiều thứ vì em trai mình, cả việc đi học cũng vậy. Thật ra thành tích hồi cấp của cậu rất xuất sắc, lại là một cây bút viết văn tài ba rất được thầy cô coi trọng, nhưng để có tiền cho em trai đi học, cậu bức bách phải nghỉ học, đến thành phố Đồng Thành bên cạnh làm công kiếm tiền. Tiếc tiền lộ phí, mỗi lần về nhà cậu đều đi bộ, đi đến gót chân đều tứa máu, Hỷ Trân nhìn con như thế đau lòng chỉ biết khóc thầm.
Lại thoáng chốc tám, chín năm trôi qua, Diệp Quán Ngữ lúc này đã lớn, trở thành một chàng trai tuấn tú đĩnh đạc, còn em trai Diệp Quán Thanh cũng cao to vạm vỡ. Hai anh em cùng nhau đi trên đường Thúy Hà, giống như một văn một võ khiến người xung quanh ai nấy đều chú ý. Diệp Quán Ngữ và em trai Diệp Quán Thanh thật ra rất khác nhau, tính cách cũng hoàn toàn không tương đồng. Quán Thanh tính tình nóng nảy, đầu óc đơn giản, làm việc gì cũng không suy nghĩ đến hậu quả, Diệp Quán Ngữ ngược lại, tính cách trầm lắng, hướng nội, thường ít nói, thuộc kiểu người lặng lẽ kiệm lời. Điều kỳ lạ hơn nữa, các đời nhà họ Diệp đều là người thô lỗ, tổ tiên đều chỉ biết đến cày cấy trồng trọt, đến đời Diệp Đại Long mới lên thành phố. Tuy được xem là người thành phố, nhưng cũng chỉ thuộc tầng lớp lao động thấp kém trong xã hội, thật sự không có chút dính dáng gì đến văn hóa, cả đời Diệp Đại Long cũng chỉ biết được vài con chữ, thậm chí cả tên mình ông còn không biết hết, nhưng đời Diệp Quán Ngữ thì lại khác.
Từ nhỏ Diệp Quán Ngữ đã thích đọc sách, văn viết rất hay, được coi là văn tài bậc nhất trong lớp. Năm lớp năm, bài viết của cậu còn được đăng báo, cho tới khi lên cấp ba cậu bỏ học, những bài văn đã được đăng của cậu đã được xuất bản thành tập. Cậu còn được các trường trung học ở Ly Thành công nhận là tài tử, hàng xóm trong phố thường hay bóng gió với nhà họ Diệp rằng: “Nhóc nhà anh, chắc có lai lịch không tầm thường nhỉ.” “Dĩ nhiên rồi, Quán Ngữ nhà tôi là Văn Khúc Tinh hạ phàm, dĩ nhiên là lai lịch không tầm thường.”
Sau khi Quán Ngữ bỏ học, ai nấy dù là thầy cô hay hàng xóm đều thấy tiếc cho anh. Thế nhưng, anh lại chưa từng cảm thấy hối hận. Vì tương lai của em trai mình, anh bằng lòng từ bỏ. Em trai Diệp Quán Thanh coi như cũng biết phấn đấu, với tướng tá cao to nên được chọn vào đội bóng rổ trường thể thao thành phố Ly Thành. Cậu được cái thân hình chắc khỏe, nhưng lại thích đánh nhau, rất dễ bị kích động. Trường thể thao ở ngay bên cạnh Đại học sư phạm Ly Thành, vì vậy Quán Thánh thường hay tham gia thi đấu bóng rổ giữa hai trường, rồi từ đó mà quen được một cô gái xinh đẹp tên là Lạc Anh nhưng tình cảm hai người không duy trì được bao lâu. Quán Thanh tính tình thô bạo, lại hay ghen, thường hay gây gổ đánh nhau vì Lạc Anh, chuyện chia tay dĩ nhiên cũng khó tránh. Quán Thanh không cam lòng, đặc biệt là khi biết Lạc Anh đem lòng yêu Lâm Nhiên, một cậu ấm con nhà danh gia bên trường Sư phạm, vì thế đã gây ra họa lớn.
Lâm Nhiên là ai? Chính là con trai cả của bác sĩ Lâm đã từng được bà Lương Hỷ Trân, mẹ Quán Thanh cho bú sữa, cũng cùng tuổi với Quán Thanh. Thật ra nhà họ Diệp và nhà họ Lâm vẫn luôn qua lại với nhau. Cuối những năm , Lâm Sỹ Diên đã là Viện phó bệnh viện, lúc này đưa cả nhà di cư sang Mỹ, nhà họ Lâm ở dường Thúy Hà một thời gian dài vẫn nhờ nhà họ Diệp trông nom hộ, sống khoảng sáu, bảy năm mới chuyển đi. Lại qua mấy năm sau, Phó viện trưởng Lâm lúc này là Hoa kiều đưa hai người con trai và một người con nuôi của mình về nước để học, ba anh em sống trong căn nhà ở đường Thúy Hà. Viện phó Lâm rất tin tưởng Hỷ Trân, nên thịnh tình mời Hỷ Trân qua đó giúp lo liệu cuộc sống cho ba con trai mình. Hỷ Trân luôn rất có cảm tính với Lâm Nhiên, dù gì cũng là đứa trẻ bà từng cho bú sữa của mình, bà vui vẻ nhận lời, như vậy lại vừa có thể tích thêm chút tiền để con trai cả Diệp Quán Ngữ lấy vợ. Đã hai mấy tuổi đầu, không thể ở vậy mãi được, hơn nữa bà cũng cần tiền cho con trai út Quán Thanh đi học. Chút tiền mà Quán Ngữ kiếm được bên ngoài chẳng khác nào muối bỏ bể. Cứ như vậy, Hỷ Trân trên thực tế đã trở thành bảo mẫu của nhà họ Lâm, dùng tiền chăm sóc anh em nhà họ Lâm để nuôi dưỡng hai đứa con trai Quán Ngữ và Quán Thanh của mình.
Diệp Quán Ngữ lúc biết chuyện đã cật lực phản đối, không cho mẹ đi làm bảo mẫu cho nhà họ Lâm. Anh vẫn nhớ cái tát năm xưa người đàn bà họ Lâm ấy tát mẹ. Cả đời này không bao giờ quên.
Dĩ nhiên, thâm thù đại hận giữa hai nhà họ Diệp và nhà họ Lâm không hoàn toàn chỉ vì cái tát ấy. Diệp Quán Ngữ hiểu rõ trong lòng, chỉ cảm thấy tất cả là số mệnh, hai gia đình vốn chẳng có một chút liên quan tới nhau, một bên là tầng lớp trên, một bên là dân nghèo hạ đẳng, nếu như không phải số mệnh thì làm sao có thể tạo ra những éo le như vậy!
Khi ánh đèn bắt đầu rực rỡ khắp thành phố, anh đứng trên đỉnh tòa tháp nhà Mậu Nghiệp, tòa nhà cao nhất Ly Thành, bốn bề đều là kính chạy dọc từ đỉnh tòa nhà chạm tới đất. Nhìn biển người ở dưới, dòng xe nối đuôi nhau thành những vệt sáng đan xen lan tỏa mọi hướng, giống hệt như huyết mạch của thành phố vậy. Nỗi đau, niềm vui, hội ngộ hay chia ly trong đời người đều không thể ngăn lại sự phát triển của thời đại. Chẳng phải đã có câu tre già măng mọc, người sau thay thế người trước đó sao? Đây chính là cuộc sống, không bao giờ ngừng nghỉ. Tòa nhà, vị trí hiện giờ anh đang đứng, gần như đối diện với tòa cao ốc Chấn Á của tập đoàn Lâm thị, hai tòa chỉ cách nhau một con đường. Trước khi tòa Mậu Nghiệp được xây, Chấn Á chính là tòa nhà cao nhất Ly Thành. Nhanh thật! Đợi chờ mười mấy năm, cuối cùng anh đã có thể nhìn thẳng vào tòa nhà đó như hiện tại, nghĩ lại năm xưa, ngay cả việc ngước nhìn thôi anh cũng không có tư cách!
Có tiếng khẽ gõ cửa, là tổng quản Lữ.
“Vào đi”. Anh lạnh lùng lên tiếng.
“Giám đốc Diệp.” Tổng quản Lữ đẩy cửa, bước qua tấm thảm quý phái, cung kính đứng sau Diệp Quán Ngữ, Vừa nhận được điện thoại của Lâm Duy, ông ta bằng lòng gặp mặt để bàn bạc.”
“Ồ, tin vui đây.”
“Là ông ta chủ động gọi tới, giám đốc xem có thể hẹn ông ta ở nơi nào thích hợp.”
Diệp Quán Ngữ từ từ xoay người lại, tay kẹp điếu thuốc, thư thái ngồi xuống ghế sô pha bên cạnh cửa sổ. Trong lòng anh đã tính sẵn, hờ hừng gẩy tàn thuốc, khóe miệng nở nụ cười nham hiểm: “Cứ hẹn ở câu lạc bộ Hoàng Quân đi, chỗ đó chẳng phải đối diện với tòa án sao?” Khi Diệp Quán Ngữ cười, miệng anh vốn tạo ra một nét cong vênh hoàn mỹ, nhưng nụ cười đó luôn khiến người khác phải e dè bởi trong đó ẩn chứa mùi chết chóc, “Cả đời tôi không bao giờ quên được nơi ấy. Lâm Duy, năm đó ông đổi trắng thay đen, điên đảo thị phi, khiến nhà họ Diệp rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục. Giờ là lúc chúng tôi đòi lại!”
“Vâng. Tôi lập tức đi sắp xếp.” Tổng quản Lữ gật đầu.
Diệp Quán Ngữ gếch đùi lên, đổi sang tư thế thoải mái hơn, người anh hơi dựa vào sô pha, vẻ mặt lạnh tanh: “Nhất định phải để Lâm Sỹ Diên biết chúng ta hẹn gặp Lâm Duy. Để cho chúng lo lắng, mà chúng lo lắng thì sẽ cắn lẫn nhau. Chúng ta chỉ cần đợi xem kịch hay.”
“Vâng, giám đốc nói phải.” Tổng quản Lữ đưa ra một túi hồ sơ được niêm phong kín lên bàn trà trước mặt anh: “Đây là của luật sư Âu Dương nhờ người gửi tới, nói là đã moi được bí mật riêng tư của Lâm Duy. Luật sư Âu Dương nói, sau khi xem nhất định giám đốc sẽ bất ngờ.”
“Ồ, vậy sao?” Diệp Quán Ngữ ngay lập tức có hứng thú, vội cầm lấy tập hồ sơ,” Tôi thật muốn xem gã Âu Dương ấy làm thế nào để tôi bất ngờ.”
Tập hồ sơ được dựng kín trong bìa giấy da cứng, việc mở ra rất đơn giản, không cần tốn chút sức lực nào nhưng người mở nó ra hẳn không biết rằng, bí mật trong đó đã được người trong cuộc chật vật giấu kín suốt ba mươi năm qua. Vẫn biết trên đời này không có gì là bí mật mãi mãi, vì thực chất không có thứ nào gói trọn được toàn bộ, cho dù là chuyện gì, dù là đã qua nhiều năm, nhưng sẽ có một ngày ắt bị phơi bày ra ánh sáng. Thế nhưng mỗi khi che giấu chuyện gì người ta đều không nghĩ tới điều này, càng không thể ngờ tới khi chúng ta tự lừa mình lừa người sẽ tạo ra bao nhiêu quả ác, còn cả những oan nghiệt…
Bí mật hơn ba mươi năm, Diệp Quán Ngữ chỉ mất nửa giờ để biết hết.
Anh vừa xem vừa cười. Khi đọc hết chữ cuối cùng đã không giấu nổi khoái trá mà bật cười phá lên thành tiếng: “Ha ha ha… Quả là đặc sắc! Thì ra luật sư danh tiếng họ Lâm của chúng ta lại có chuyện hay như vậy… Lâm Duy, Lâm Duy à, ông ở tòa án giễu võ giương oai là thế mà vẫn có thể nhu nhược che giấu chuyện xấu xa này đến tận hơn ba mươi năm, tôi thật phục ông! Ha ha ha…”
Lữ tổng quản đã theo Diệp quán Ngữ nhiều năm, biết anh luôn là người giữ ngôn từ cử chỉ cẩn thận, trước giờ chưa từng thấy anh bật cười khác thường như vậy, ông bất chợt cảm thấy thấp thỏm. Đã nhiều năm từ nước ngoài trở về quê hương, không biết đã có bao nhiêu đối thủ phải gục ngã dưới chân anh, nhưng anh có đủ cả độc địa lẫn tàn nhẫn để giành chiến thắng một cách vẻ vang, không quan tâm đến tình nghĩa, ai cản đường người đó sẽ chết, thế nhưng tuyệt nhiên chưa có lúc nào anh hả hê ra mặt tới mức đánh mất hình tượng như bây giờ.
Diệp Quán Ngữ như đã cười đủ mới ý thức việc bên cạnh mình còn cấp dưới, vội thu lại nụ cười, nhanh chóng lấy lại vẻ nghiêm túc, nhưng khuôn mặt không thể che giấu được niềm vui: “Tốt lắm! Tên Âu Dương này làm việc đúng là chưa từng làm tôi thất vọng. Gọi điện cho anh ta, nói hôm nào tôi mời uống rượu!”
“Vâng thưa giám đốc Diệp”
Nói rồi Diệp Quán Ngữ lại cầm lấy tập hồ sơ, nở nụ cười nham hiểm: “Lâm Duy, ông cứ đợi ngày tới nhận phần mộ cho mình đi. Chẳng trách mà ông cam chịu đi theo đuôi người khác ở nhà họ Lâm. Thì ra là vậy! Thì ra là vậy! Chúng ta cứ đợi xem kịch hay đi, chuyện gì cũng không phải làm, chỉ xem thôi, ok?”
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Cả nhóm quyết định ở lại Thượng Hải thêm hai ngày nữa.Tối hôm trở về Ly Thành, Thư Mạn dựa trong lòng Đỗ Trường Phong mơ một giấc mơ thật dài. Cô mơ thấy rất nhiều, rất nhiều thiên nga, họ đuổi theo thiên nga chơỉ đùa, cuối cùng, dường như ngay bản thân cũng biến thành thiên nga, bay lượn trên bầu trời, còn tự do hơn cả gió...
Lúc tỉnh dậy, cô kể lại giấc mơ này với Đỗ Trường Phong, Đỗ Trường Phong nhẹ nhàng thở dài, hôn lên trán cô và nói: “Đời này có em làm bạn với anh, có tự do hay không cũng không còn quan trọng như vậy nữa rồi...”
Sáng hôm sau, sau khi Thư Mạn lưu luyến bịn rịn chia tay Cảnh Mặc Trì và Bạch Khảo Nhi, cô bước chân lên hành trình trở về Ly Thành, về đến sơn trang thì đã hai giờ chiều, Đỗ Trường Phong không chịu để Thư Mạn về nhà trên phố Đào Lý, khăng khăng đòi kéo cô về sơn trang. Từ sau tối hôm đó, hai người cứ như hình với bóng, thậm chí Thư Mạn vào nhà vệ sinh thì Đỗ Trường Phong cũng phải đợi bên ngoài cửa. Vi Minh Luân thấy thế cười anh, anh lại nói: “Anh không phải là tôi, anh không thể hiểu được tôi suy tính thiệt hơn như thế nào đâu. Tôi chỉ sợ chỉ chớp mắt một cái là lại không thấy cô ấy đâu nữa, luôn cảm thấy đây như là một giấc mơ vậy, không hề cảm thấy một chút gì gọi là cảm giác thực cà.”
Dự cảm của Đỗ Trường Phong nhanh chóng linh nghiệm.
Vừa xuống máy bay, họ nhanh chóng kéo hành lý về Hải Đường hiểu nguyệt nghỉ ngơi lấy sức. Vừa đặt hành lý xuống thì chuông cửa kêu, Vi Minh Luân ra mở cửa, có mấy người đàn ông mặc âu phục chỉnh tề đứng trước cửa, trông mặt đều lạ cả. Một người đàn ông tầm tuổi trung niên đeo kính gọng đen nghiêm túc tiến lên: “Xin hỏi vị nào là Đỗ Trường Phong?”
Đỗ Trường Phong từ trong nhà ngó đầu ra: “Chính là tôi, ông là ai?”
“Chúng tôi nhận được sự ủy thác của tòa án trung cấp Ly Thành, là nhóm giám định tư pháp bệnh thần kinh từ Bắc Kinh đến đây, mời anh đi theo chúng tôi một chuyến.”
Vi Minh Luân cứng họng, mặt bỗng nhiên trắng bệch ra.
Đỗ Trường Phong Lại bình tĩnh đến bất ngờ, gật đầu: “Được, xin đợi một chút, tôi thay bộ quần áo.” Nói rồi liền chuẩn bị đi lên gác, Thư Mạn thẫn thờ đứng ở chân cầu thang, anh xoa mặt cô, hôn lên trán cô: “Anh không sao, ngoan nào.” Sau đó lộc cộc leo lên cầu thang.
Phút chốc, nước mắt như những hạt trân châu lăn xuống từ trong mắt Thư Mạn.
Bỗng chốc cô hiểu ra, cô nhìn thẳng Vi Minh Luân, khóe mắt Vi Minh Luân cũng đỏ hoe. Hai người cùng nhìn nhóm người đang đứng ngoài cửa... Không thể làm gì được, không thể làm bất cứ điều gi, họ chỉ có thể giương mắt nhìn Đỗ Trường Phong bị đưa đi. Lúc Đỗ Trường Phong lên xe, Thư Mạn đột nhiên nắm lấy vạt áo anh không chịu buông. Vi Minh Luân cố giằng tay cô ra cũng không được, cô cứ túm chặt lấy Đỗ Trường Phong, như thể dùng hết sức bình sinh, rên rỉ, “Nếu khi nào anh được ra... mà em không còn nữa, hãy trồng cho em một cây trúc...”
Đỗ Trường Phong giương to đôi mắt nhìn cô.
Hóa ra cô đã biết rõ tất cả! Cô biết cô chính là “cô bé” trong lòng anh.
Chỉ là đã không còn kịp nữa, đã không còn kịp nữa rồi. Cô chỉ có thể túm lấy vạt áo anh, nhìn anh với ánh mắt tuyệt vọng, dường như là muốn nhớ lấy khuôn mặt anh, khuôn mặt ấy, rất nhiều năm trước cô đã từng gặp rồi, dưới bóng cây hương Chương đêm trăng đó, anh gọi cô là “cô bé”, cô chửi anh “Đồ khốn”... Chuyện thời niên thiếu vô tư ấy thực ra cô đã nhớ lại từ lâu rồi, thế nhưng anh lại tưởng cô không nhớ.
Cô không muốn nói rằng cô nhớ, chỉ là vì cô biết đã không còn kịp nữa rồi. Cô yêu anh nhưng lại không thể nói, cô sợ sau khi cô ra đi, anh sẽ lại nhốt mình trong cái tù ngục mà anh tự tạo ra thêm mười bảy, mười tám năm, hay thậm chí còn lâu hơn nữa. Cô sợ tình yêu của cô sẽ cầm tù anh, khiến anh suốt kiếp không thể đầu thai được nữa. Cô không thể ích kỉ như vậy được! Thương thay anh đã bị cầm tù trong cũi lồng tinh thần suốt mười bảy năm rồi, cứ để anh tuyệt vọng từ đây cũng còn tốt.
Nhưng anh không hiểu, cô vẫn còn muốn tiếp tục sống biết bao, nếu như có thể vay ông trời mười năm hay hai mươi năm gì đó, hay cho dù chỉ là một năm, hai năm, cô cũng muốn tiếp tục sống, để lại được yêu anh đến hết mình một lần nữa. Tình yêu trước đó quá cay đắng, cô còn chưa cảm nhận được bao nhiêu hạnh phúc và ngọt ngào của nó thì ông trời đã cướp đi mất rồi. Những ngày tháng ấy, cô thường nghĩ, nếu như năm đó, dưới gốc cây hương Chương, anh không chạy trốn thì người cô yêu không phải là Lâm Nhiên mà sẽ là anh, vậy thì rất nhiều bi kịch có thể tránh khỏi rồi, chẳng phải sao? Nhưng vận mệnh là thế đấy, sai một bước, thiếu một giây, một gang tấc liền biến thành cả một chân trời, cho dù bây giờ cô đang yêu anh, nhưng rồi thế nào cũng lại bỏ lỡ, bởi vì cô không biết bản thân mình còn bao nhiêu thời gian nữa...
Anh không nói ra được lời nào, chỉ có thể gọi tên cô, mặc cho nước mắt thấm vào kẽ tóc cô. Chưa bao giờ anh sợ hãi đến vậy. Không phải sợ chết, không phải sợ bị băm thành trăm mảnh, chỉ sợ lại bị nhốt vào trong viện tâm thần, kiếp sau cho dù có làm một con chim, thì cũng còn hơn là bị nhốt trong đó...
***
Gió nổi lên rồi.
Diệp Quán Ngữ đứng trong sân dinh thự ngước nhìn bầu trời, gió như muốn thổi tan hết những đám mây trên trời đi vậy có một con chim bay ngang qua trên đầu, vẳng lại một tiếng kêu chói tai, xé toạc bầu trời, tạo thành một lỗ hổng trong suốt trên không. Diệp Quán Ngữ khẽ nói, giọng lạnh lùng: “Tôi sẽ khiến anh không bằng một con chim!”
Đã là mùa xuân, mùa mưa dầm cũng vừa qua, chỉ trong một đêm mà hoa nhài trong dinh thự đã nở rộ, khắp sân và dinh thự, nơi đâu cũng nức mùi thơm. Diệp Quán Ngữ đứng trong những khóm hoa, tay nhẹ nhàng gẩy cành lá xanh biếc, bông hoa nhỏ trắng nở giữa những cành lá lập tức đung đưa đẹp mắt, cứ như thể hiện hết ra vẻ đẹp của mình để nghênh đón sự chiếu cố của anh.
Đã lâu rồi anh không đến dinh thự, suýt nữa thì bỏ lỡ mùi thơm nồng nàn nhất khi hoa nhài bắt đầu nở. Bà Bối La từng nói, hoa nhài chỉ thơm nhất là trong bảy ngày đầu tiên khi bắt đầu nở, cũng như tình yêu ỵậy, nhất định là tình yêu đầu tiên mới là chân thực nhất, và cũng là hoàn chỉnh nhất, trải qua đủ mọi đả kích và sự tàn phá của hiện thực, thì tình yêu dù có thơm nồng nàn đến thế nào cũng trở thành bi thương.
Nói hay thật...
Diệp Quán Ngữ lại thở dài, ngồi lên một chiếc ghế đá trong sân vườn.
“Thư tiểu thư và Đỗ Trường Phong đang ở cùng nhau.”
Khi tên thuộc hạ theo đuôi Đỗ Trường Phong báo tin này cho anh, anh chỉ cảm thấy bi thương. Đứng trước cửa sổ phòng ngủ ngắm mưa rơi suốt cả đêm, màn đêm đen sì, trái tim anh như lạnh đến tận đáy. Vốn dĩ là vẫn còn một chút thương hại, người đó bị nhốt trong viện tâm thần bao nhiêu năm như thế nên anh mới cho anh ta một chút tự do để tiếp tục chơi trò chơi này cùng mình. Vì anh luôn cô độc, cô độc đến cùng cực, dù đứng giữa hàng vạn người nhưng anh vẫn thấy mình là người cô đơn nhất trên thế gian này. Anh thường so sánh mình như một con mèo, nếu không còn chuột nữa thì mèo liệu có còn là mèo không? Nhưng, giờ anh không muốn chơi nữa, cho dù anh không thể làm mèo.
Sau khi họ đi Thượng Hải, Lữ tổng quản từng hỏi anh :“Chúng ta nên làm thế nào?”
Ánh mắt Diệp Quán Ngữ lơ đễnh, tay nghịch chiếc nhẫn ngọc bích trong suốt lung linh, hỏi lại ông: “Phải làm thế nào mới có thể khiến chim không bay lên được?”
Lữ tổng quản không suy nghĩ, đáp: “Đương nhiên là bỏ cái cánh của nó đi rồi!”
“Sai rồi! Bỏ cánh đi rồi thì có còn là chim không? Nó sẽ chết... Tôi không muốn anh ta chết, tôi muốn anh ta sống, muốn bay lại không bay được, như vậy mới đúng là sống không bằng chết.”
“Vậy thì hãy làm cho anh ta một cái lồng thật kiên cố.”
Diệp Quán Ngữ không trả lời, nhìn ngắm tẩn mẩn chiếc nhẫn trong tay, rồi lại giơ lên soi trước ánh đèn, như thể đang ngắm một vật quý giá hiếm có trên thế gian, lơ đễnh như thể không nghe thấy lời Lữ tổng quản vừa nói.
Lữ tổng quản ngầm hiểu ý ông chủ, vội tiếp lời: “Diệp tổng, nếu không có chuyện gì thì tôi đi trước nhé.”
Diệp Quán Ngữ không nhìn ông, nhẹ nhàng hôn lên chiếc nhẫn.
Lúc này đây anh đang ngồi trong sân, lại đang ngắm nhìn chiếc nhẫn ngọc bích đeo trên ngón tay trái, một vòng xanh biếc quấn quanh ngón tay, phát ra ánh huỳnh quang màu xanh lục trong suốt dưới ánh nắng, thứ ánh sáng thật khác thường, tựa như bản thân nó có linh hồn, như đang lặng lẽ kể lể điều gì đó...
Hơn mười năm rồi, ngoài chiếc nhẫn này ra, chẳng có ai biết anh đã từng xuống địa ngục. Người bò lên từ địa ngục thì hầu như chẳng còn chút nhân tính gì đáng nói. Cho dù là thế, anh vẫn muốn trở lại làm một con người bình thường. Bà Bối La đã từng nói, cảm giác thù hận thật sự quá đau khổ, nếu như được lựa chọn, bà nguyện chọn yêu chứ không chọn hận. Vì vậy bà Bối La thường khuyên bảo anh, con trai, hãy từ bỏ hận thù của cậu đi, rồi cuối cùng sẽ có một ngày cậu sẽ phát hiện ra rằng cái giúp cậu sống đến mãi tận lúc cuối ấy lại chính là tình yêu, chứ không phải là hận thù... Thực ra, đúng là anh muốn từ bỏ, chỉ vì trong lòng quyến luyến người con gái đó. Nhưng đến giờ cô ấy đã yêu rồi, nghe nói lại còn yêu cái thằng điên ấy, bỗng nhiên anh mơ màng, mất cô, mất đi tình yêu, anh chỉ còn lại hận thù, làm sao anh còn có thể yêu được nữa... Thật đáng tiếc, bà Bối La không còn nữa, nếu không nhất định bà sẽ nói cho anh biết câu trả lời.
Anh ngẩng đầu lên nhìn ngói lợp xanh biếc trên mái nhà, cả dây trường xuân bò dài giăng dợ trên tường, năm này qua năm khác, cho dù đã trải qua phong ba bão táp như thế nào thì những dây trường xuân và rêu xanh ấy vẫn luôn như hình với bóng, không nỡ nào khô héo, không nỡ nào chết đi, cũng giống như những người đã từng sống trong dinh thự này, mặc dù được chôn cất mỗi người một nơi nhưng họ chưa bao giờ rời xa nhau, mãi luôn ở đây. Mỗi khi đêm khuya vắng lặng, một mình trong sân thở khẽ lắng nghe, thậm chí anh còn có thể nghe thấy âm thanh của những người ở thời đại ấy, những chuyện của thời đại ấy, có tiếng thở dài, cũng có cả tiếng bước chân đi...
Một buổi chiều gió hiu hiu, ngửi hương thơm phảng phất khắp sân thế này sẽ rất dễ nhớ lại chuyện cũ. Diệp Quán Ngữ nhắm mắt lại, chợt cảm thấy thời gian như quay lại thời điểm hơn mười năm về trước. Khi đó anh còn đang làm thuê ở Đồng Thành, được ông chủ sắp xếp cho tính giá thành trong một công ty sửa chữa lắp ráp. Lần nào Diệp Quán Ngữ cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, giá xây dựng tính ra khiến ông chủ và khách hàng đều rất hài lòng. Điều duy nhất mà ông chủ chưa ưng ở anh, đó là anh không đủ cứng rắn, lại quá thật thà, làm bao nhiêu thì tính bấy nhiêu, bảo anh tính khéo một chút anh cũng không chịu. Ông chủ có lần còn nói xẵng: “Cậu cứ thế này thì cả đời chỉ có làm thuê mà thôi. Nếu muốn tương lai trở thành một ông chủ như tôi đây, thì cái đầu tiên mà cậu phải học đó là phải nhẫn tâm, không nhẫn tâm thì cứ ở đó bị người ta bóc lột đi.”
Diệp Quán Ngữ lúc đó chỉ cười không đáp. Anh không hề nghĩ rằng, sau này, câu nói ấy của ông chủ đã linh nghiệm ngay trên chính bản thân anh. Sự tàn khốc của hiện thực, sự bỉ ổi của nhân tính, khi đó, ở tuổi của anh vẫn còn chưa cảm nhận được.
Một hôm, lúc ông chủ ra ngoài về đã vỗ vai anh, vui vẻ nói: “Mau về Thanh Thủy Đường đi, bà Bối La gọi điện đến bảo anh dù thế nào cũng phải về, nói là có chuyện quan trọng. Bà ấy rất hài lòng về cái chậu hoa mà cậu chọn cho bà ấy lần trước, khen anh hết lời, nói anh tốt bụng, có tố chất... Chà chà, tiểu tử, cậu đi nhanh về nhanh, tiện gửi lời hỏi thăm sức khỏe của tôi đến bà ấy, hi vọng sau này bà quan tâm nhiều, giới thiệu mấy ông chủ giàu có cho chúng ta.”
“Bà ấy không nói là có chuyện gì sao?” Diệp Quán Ngữ cẩn thận hỏi lại.
“Cậu lo chuyện này làm cái gì, bà ấy bảo cậu đi thì cậu cứ đi, có phải ăn thịt cậu đâu mà sợ!” Ông chủ mặt mày dữ tợn, vẻ thần bí nói, “Đừng thấy bà già ấy đã lớn tuổi, lại chỉ là một người bình thường, tôi nói cho các anh biết, bà ấy mới là người giàu có thực sự, chúng ta nịnh hót bà ấy còn chẳng xong nữa là!”
“Ông chủ, làm sao mà ông biết bà ấy giàu?” Một bác thợ sơn bên cạnh hỏi.
“Anh thì biết cái khỉ gì! Tôi nghe người ta nói, hồi trẻ bà này là một gì gì đó, dù sao thì cũng không phải là vợ chính của một ông quan to của tỉnh, ông quan lớn đó là một nhà tư bản, giàu có vô đối. Hồi ‘Cách mạng văn hóa’ ông ta bị xử tử rồi, trước lúc lâm chung còn để lại cho bà này một đống tiền, còn nhiều như thế nào, nếu không khoa trương thì nghe nói có thể mua được cả nửa cái Đồng Thành này đây, còn nếu khoa trương thì tiền còn dư để mua cả cái Đồng Thành này. Cái dinh thự mà bà ấy đang à bây giờ chính là ông quan to ấy tặng đấy, nghe nói dưới đất còn chôn cả vàng nữa...”
“Phét! Làm gì có chuyện đó.” Các bác thợ chẳng ai tin.
Diệp Quán Ngữ cũng không tin. Anh quen biết bà Bối La cũng hoàn toàn là do công việc, bà ấy muốn tân trang lại dinh thự, chính là Thanh Thủy Đường, căn nhà thời xưa có tường ngói xanh bao quanh cả sân vườn rộng, kiểu kiến trúc điển hình thời dân quốc. Mặc dù vẫn nhìn ra được hơi hướng ngày xưa nhưng thời gian đã trải qua mưa gió hơn nửa thế kỉ, không kể tới mối mọt làm gì, tường nhiều chỗ cũng đã bị nứt, mái nhà cũng bị dột. Không biết ông chủ làm cách nào mà tìm được vụ làm ăn béo bở này, bảo Diệp Quán Ngữ qua đó tính toán giá thành tân trang, lại còn dặn kĩ tính nhiều lên một chút cững không sao nói là bà ấy vừa mới bên nước ngoài về, nhiều tiền lắm. Nhưng Dỉệp Quán Ngữ vẫn không chịu nghe, tính toán chi li rõ ràng mạch lạc, không những không hề khai man giá thành, thậm chí lại còn đưa ra rất nhiều ý kiến, góp ý về cách bài trí cảnh quan bên ngoài lẫn trong nhà, khiến bà rất hài lòng. Sau khi công trình hoàn công, bà thường mời Diệp Quán Ngữ đến chơi, mời anh dùng cơm, nhà có vấn đề gì cũng chỉ tìm anh.
Nhưng dịp để Diệp Quán Ngữ và bà Bối La trở thành bạn bè không câu nệ tuổi tác đó chính là vào mùa xuân trước đó, bà Bối La muốn treo mấy cái đèn lồng trong sân, và mời Diệp Quán Ngữ qua giúp. Diệp Quán Ngữ vui vẻ đến giúp, không những giúp bà treo đèn, mà còn đích thân viết một câu đối dán trước cửa, khiến bà vui quá cười mãi, kết quả là vui sướng quá, ngất ngã vật xuống đất. Diệp Quán Ngữ giật bắn mình, vừa gọi người khác trong dinh thự gọi xe cấp cứu, vừa thực hiện biện pháp cấp cứu đơn giản cho bà lão, may vì cấp cứu kịp thời nên đã cứu được mạng sống. Bà vô cùng cảm kích, sau khi xuất viện cầm một xấp tiền nhét cho anh, Diệp Quán Ngữ kiên quyết không nhận, lại còn giận dỗi hẩy tay bỏ về. Chuyện này khiến bà cảm thấy Diệp Quán Ngữ là người có chí khí, liền cho thư kí đến tận công ty lắp đặt sửa chữa xin lỗi anh, còn mời anh đến dinh thự dùng cơm, nói mà khiến người ta cảm động rơi nước mắt.
Đương nhiên, Diệp Quán Ngữ không hề chấp nhặt bà, liền tỏ ý rằng mình không để bụng gì. Cũng chính từ hôm đó, bà coi Diệp Quán Ngữ như người nhà mình, có việc hay không có việc gì cũng gọi anh đến nói chuyện gia đình, chuyện trò, nói về cuộc đời, mỗi lần như thế Diệp Quán Ngữ không bao giờ từ chối. Anh cảm thấy ở bà có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đầu tóc bạc phơ, thoạt nhìn là biết bà là người trải qua bao cuộc bể dâu của thời cuộc, lại thông kim bác cổ, trong trường hợp nào cũng có kiến giải đặc biệt về cuộc sống và số phận, coi tiền tài danh lợi như mây khói phù du. Mặc dù bà không nói chuyện, ngồi dưới gốc cây hải đường trong sân phe phẩy chiếc quạt, ngước nhìn bầu trời, ánh hào quang phát ra trên khắp người cũng khiến người ta thực sự khâm phục. Một già một trẻ gạt đi tuổi tác và số phận, từ đó trở thành một đôi bạn vong niên, có thể tám đủ mọi chuyện trên trời dưới bể.
Khi đó, Diệp Quán Ngữ còn trẻ, có gì khó khăn nghi hoặc gì đều nói với bà lão, họ nói về tất cả mọi chuyện, chỉ có tình yêu là không bao giờ nói đến, dường như đây là điều cấm kị của bà. Bà có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào cho Diệp Quán Ngữ, chỉ riêng về chuyện tình yêu là không. Bà không nói rõ vì sao, dường như đó là mối trắc trở của bà, hễ động tới chủ đề này là bà lại chìm vào im lặng, như thể linh hồn đã bị đánh cắp đi vậy, không thể nói thêm một từ nào nữa.
Vậy nên, Diệp Quán Ngữ cố gắng tránh khỏi chủ đề kiểu như thế.
Rất nhiều lúc anh cảm thấy bà như một câu đố vậy.
Về thân thế, hoàn cảnh của bà lão thì đã nghe mọi người bàn tán xôn xao, nói thế nào cũng có, nhưng đại khái là bà rất giàu có, có rất nhiều, rất rất nhiều tiền. Còn về tiền đó từ đâu mà ra thì cũng chẳng ai có thể đưa ra kiến giải một cách chắc chắn. Diệp Quán Ngữ chỉ phong thanh ba mươi năm trước bà sang Pháp định cư, mãi đến tận hai năm trước mới về nước, ở nước ngoài có gia đình hay không, có con cái gì hay không anh cũng không hề biết. Nhưng anh lờ mờ hiểu rằng bà đúng là người rất có thân thế, một bà già đơn thân mà lại có đến ba thư kí, mấy người bảo mẫu, lại còn y tá, đầu bếp, lái xe riêng, vân vân, họ đều ở trong dinh thự, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đợi bà sai khiến.
Lại nhìn đến cách ăn mặc của bà, tuy kiểu dáng bình thường nhưng chất liệu đều là hàng cao cấp, phần lớn thời gian bà mặc xường xám hoặc áo kép kiểu Trung Quốc, đeo trang sức ngọc bích, nhẫn, vòng tay, khuyên tai, tất cả đều bằng ngọc bích. Bà lại là một người nhã nhặn, rất ít khi đeo vàng, lại càng không nói đến đá quý, Diệp Quán Ngữ có cảm giác, với bà, những thứ đó đều tục quá. Cả cái cách bà nói chuyện cũng đủ để người ta thán phục, luôn giữ cho mình tâm thế ung dung thong thả, một cái nhăn mặt hay một cái cười cũng đầy ý vị, cũng giống như mùi nước hoa trên người bà, trong cái vẻ nho nhã lại có vài phần hiu quạnh, khiến người ta mê mẩn. Diệp Quán Ngữ cảm phục trước vẻ hấp dẫn của bà nhưng cũng không hề tìm hiểu quá sâu về bà, cũng như không hề muốn giải đáp câu đố bí ẩn của bà vì dù sao đó cũng là chuyện riêng của cá nhân bà.
Hôm đó, bà gọi Diệp Quán Ngữ đến Thanh Thủy Đường anh cũng lờ mờ cảm thấy có chuyện gì đó.
Trong sân Thanh Thủy Đường trồng rất nhiều hoa nhài, phía sau nhà là cả rừng cây rậm rạp. Hình như bà rất thích hoa nhài, không cho phép trồng thêm bất cứ một loài hoa cỏ nào khác. Khi đó chưa phải là mùa nhài nở, trong sân chỉ một màu xanh biếc, màu xanh loang lổ ấy cũng rất giống với những trang sức ngọc bích mà bà đang đeo kia. Căn dinh thự ẩn hiện trong màu xanh biếc đó có tất cả ba tầng, tầng một là phòng khách và phòng ăn, tầng hai là phòng ngủ và phòng đọc sách của bà, thường là cấm người khác lên đó. Mọi thiết kế bài trí trong nhà đều là kiểu tây cả, có lẽ liên quan đến việc bà sống ở nước ngoài nhiều năm. Thảm, rèm cửa, đèn treo tường và cả đồ đạc nội thất, tất cả đều là đồ chuyển từ nước ngoài về sau khi dinh thự được tân trang lại... Chỉ có tầng ba là vẫn để đồ đạc cũ, giấy dán tường tuy có thay mới nhưng được bà tìm một nhà sản xuất đặt theo y hệt nguyên mẫu cũ.
Bà lão rất cố chấp, tuyệt đối không cho thay đổi bất cứ đồ đạc gì trong phòng, dịch chuyển một chút thôi cũng không được, vậy nên mỗi lần lên tầng ba, Diệp Quán Ngữ đều có cảm giác như đi xuyên qua cánh cửa thời gian vậy, như thể trở lại thời ngày xưa, một cái đèn để bàn te tua, một cái ghế dài mài nhẵn thín cả sơn, tất cả đều toát lên một màu sắc của những thăng trầm, vắng lặng của năm tháng. Thế nên, Diệp Quán Ngữ biết, bà vẫn còn sống trong quá khứ, chưa bao giờ chịu bước ra.
Lúc đó đã chập choạng tối, hoàng hôn còn sót lại chiếu xuyên qua rèm cửa sổ, hắt vào trong phòng khiến mặt thảm vàng rực, những bông hoa hồng trắng bày trên tủ phía đầu giường cũng khoác thêm màu cổ xưa.
Bà Bối La dựa trên một đống những gối mềm phía đầu giường, có một khoảng thời gian không gặp mà trông bà già yếu đi nhiều, có thể là có liên quan đến việc bà chưa trang điểm. Bà là người rất giữ lễ tiết và được giáo dục bài bản, bình thường mỗi khi tiếp khách đều trang điểm, đầu tóc cũng không bao giờ rối, vấn gọn lại đằng sau trông thật nho nhã. Nhưng hôm nay bà không chú ý nhiều đến như vậy, có thể là vì đầu tóc rối quá nên bà đội một chiếc mũ chụp ngủ trông lại càng tiều tụy và cẩu thả, tuy thế, bà vẫn toát lên vẻ cao quý lạ thường.
“Quán Ngữ, cuối cùng cậu cũng đã đến rồi, ta cứ tưởng ta sắp không còn gặp được cậu nữa.” Bà chìa tay về hướng Diệp Quán Ngữ, dưới ánh hoàng hôn, màu sơn đỏ trên móng tay bà cũng vô cớ mang một chút thê lương. Bà nắm lấy tay Diệp Quán Ngữ, run run, “Con trai, gặp được con đúng là giờ phút tốt đẹp nhất trong ngày, còn hiệu quả hơn là uống bất kỳ thứ thuốc nào...”
“Bà ơi, bà ốm rồi à?” Diệp Quán Ngữ ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường, nhìn thấy dáng vẻ ốm yếu của bà mà thấy nhói lòng. Bà Bối La cười nói: “Đừng gọi ta là bà, thực ra ta chỉ lớn tuổi hơn mẹ con một chút thôi, nhưng lại không có phúc được như mẹ con, có được một đứa con trai tốt thế này, ta thật ngưỡng mộ mẹ con quá...”
Nói tới đó mắt bà ngân ngân nước.
“Bà...”
“Đứa bé ngoan, hôm nay có lẽ là lần cuối cùng ta gặp được con, hai ngày nữa ta phải quay lại Pháp, có lẽ cả đời này sẽ không bao giờ về nữa, không về được nữa...” Bà Bối La thở dài, đau buồn nhìn Diệp Quán Ngữ, thật tình không nỡ lòng nào.
Diệp Quán Ngữ rất ngạc nhiên: “Bà phải đi sao?”
“Đúng vậy, bệnh phổi của ta lại tái phát rồi, phải quay lại Pháp để dưỡng bệnh, vốn dĩ ta muốn chết ở đây cũng tốt, nhưng bên đó còn quá nhiều việc cần ta sang xử lý, hơn nữa ở đây cũng chẳng có người thân nào cả, có chết rồi thì ngay đến người thăm mồ thăm mả cũng không có.”
Bệnh phổi? Sao trước giờ có nghe bà nói gì đâu?”
“Ừ, bệnh cũ đã mấy chục năm nay rồi, lần này tái phát dữ lắm, sợ không qua khỏi.” Bà vẫn mỉm cười, nói chuyện sống chết mà cứ bình thường như đang nói chuyện thời tiết vậy, “Hôm nay ta gọi cậu đến đây là muốn hỏi cậu, có muốn cùng ta sang Pháp không? Đừng vội trả lời, nghe ta nói đã, ta quý cậu, con trai ạ. Nếu cậu muốn, ta sẽ nhận con làm con nuôi. Sang Pháp, con có thể có được tất cả mọi thứ mà con muốn, ta không con không cái, cũng chẳng có người thân nào còn sống cả, tất cả mọi thứ của ta đều là của con...”
“Không, không, bà ơi, không thể được!” Diệp Quán Ngữ vẫn quen gọi bà là “Bà”, anh lắc đầu, “Cháu không thể bỏ lại người thân mà đi một mình được, mẹ cháu, còn cả em trai cháu đều cần có cháu chăm sóc. Hơn nữa, cháu không hiểu biết tí gì về nước ngoài cả, đi rồi lại chẳng làm được việc gì, cháu phải ở lại đây bên cạnh người thân của cháu.”
“Con đúng là một đứa con hiếu thảo, khiến ta rất cảm động, cũng khiến ta lại càng yêu quý con hơn, Quán Ngữ.” Bà lão thở dài, giọng nói trước đó vốn khàn khàn bỗng nhiên trở nên nghẹn ngào, “Nhưng thực sự ta rất nuối tiếc nếu phải xa con, không ngờ những năm tuổi già lại có thể gặp được một người có thể khiến ta vui như con, khiến ta nghĩ đến rất nhiều chuyện ngày xưa, rất nhiều, rất rất nhiều chuyện... Trong con người của con, ta thấy được hình bóng rất quen thuộc, cho dù là rất mơ hồ, nhưng vẫn cảm thấy như được an ủi, thậm chí là cảm kích, cảm ơn Thượng đế đã cho ta được gặp con trong đoạn cuối cuộc đời này...”
“Bà ơi, bà đừng nản lòng, bệnh của bà sẽ khỏi thôi...”
“Không, không, điều ta muốn không phải là vậy.” Bà lão yếu ớt xua tay, từ từ nhắm mắt lại, có lẽ là bệnh đã lâu lắm rồi, nói mấy câu chuyện mà người đã mệt mỏi lắm.
Thế nên Diệp Quán.Ngữ không nói nữa, im lặng nhìn bà, để bà nghỉ ngơi.
Ánh hoàng hôn của mặt trời giờ chỉ còn lại một góc nghiêng nghiêng. Trong phòng vắng lặng đến lạ kỳ, chỉ còn tiếng kêu tích tắc của chiếc đồng hồ trên tường cho biết rằng thời gian vẫn đang trôi.
“Quán Ngữ, cháu có muốn biết quá khứ của ta không?” Mãi lâu sau, bà Bối La mới lại mở mắt ra, trong mắt hình như có lệ, nhưng tinh thần bà đột nhiên phấn chấn hẳn lên, như vừa có quyết định gì to tát lắm, phấn khích đến nỗi ngực cũng phập phồng vì thở mạnh, “Ta muốn nói! Con à, ta đã kìm nén suốt ba mươi mấy năm, ta sợ nếu cứ tiếp tục không nói ra thì ta sẽ phải mang những chuyện đó xuống mồ mất. Ta không cam tâm một mình lặng lẽ ra đi, lại càng không muốn mang theo tất cả những vướng bận thế tục, ta muốn có người để giao phó, sau khi đã giao phó xong hết tất cả ta mới yên tâm mà đi được...”
“Bà, hình như bà mệt rồi, bà nghỉ cho khỏe lại đã rồi hãy nói...”
“Không sao, ta không yếu đến mức như vậy đâu, hãy để ta nói, biết đâu ta lại thay đổi ý định ngay đấy.” Bà Bối La nãy còn ốm yếu là vậy thế nhưng đột nhiên như được chích thuốc kích thích, bà suýt nữa là ngồi hẳn dậy, tay bà đặt lên ngực, cố gắng điều chỉnh tâm trạng cho bình tĩnh lại đôi chút. Bà cười, cứ cười vậy thôi, như bông hồng đằm thắm mùa hạ. Chưa bao giờ bà đẹp như vậy, gò má vốn trắng bệch giờ lại hơi hơi ửng hồng, như thiếu nữ chớm yêu gặp được người yêu đã xa cách lấu ngày, xúc động khó lòng kiềm chế nổi cảm xúc.
Thế rồi bức màn che của thời gian nhẹ nhàng được vén lên, câu chuyện thuộc về thời đại xa xưa đó lại được mở ra khi màn đêm sắp buông xuống, mỗi trang đều lóe lên ánh hào quang cổ xưa.
Bà Bối La nói, xuất thân của bà không hề thần kì như mọi người trong phường bàn ra tán vào, bố mẹ bà đều là những người dân bình thường, thời chiến loạn cũng từng sống lang bạt nay đây mai đó, hồi còn nhỏ bà cũng cùng bố mẹ chịu nhiều khổ cực. Kháng chiến kết thúc, bố dạy học ở một trường trong tỉnh thành, vốn dĩ cả gia đình sống rất yên bình. Khi bà mười bảy tuổi, trông vô cùng xinh đẹp, lại rất giỏi ca múa. Trong một lần hội diễn văn nghệ đón Tết, tiết mục của trường bà được chọn, buổi biểu diễn thành công tốt đẹp, có thể nói là nó đã thay đổi cả cuộc đời của bà. Tiết mục đó là một bài múa “Hoa nhài”, bà là người dẫn đầu một nhóm thiếu nữ xinh như hoa, cầm giỏ hoa vui múa tung tăng, trong tiếng nhạc cảm động lòng người, nụ cười của bà thật đúng là nghiêng nước nghiêng thành. Đến giờ bà vẫn còn giữ một tấm ảnh biểu diễn hồi đó, vẻ đẹp cả đời chỉ nở rộ trong chính giây phút đó. Vì nở rộ quá, nên mới lại khiến tuổi thanh xuân của bà lụi tàn quá sớm... bà ngập ngừng nói như vậy.
Buổi biểu diễn kết thúc, mấy người trông có vẻ như lãnh đạo bước lên sân khấu bắt tay các diễn viên, trong đó có một người đàn ông trung niên đeo kính nắm tay bà, nắm mãi đến hẳn một phút lận, lại còn chụp ảnh chung với bà. Bối La ngày đó ngây thơ chẳng thấy gì đặc biệt, dưới ánh đèn mờ ảo của sân khấu, thậm chí người đàn ông đó trông như thế nào bà cũng không nhìn rõ. Nhưng chính vào lúc đó, cuộc đời đã bắt đầu bày trận mai phục, khi bà đã bị lọt vào trong đó, ngoài sự thận trọng và sợ hãi của thiếu nữ thì chẳng còn gì khác. Tất cả mọi thứ đều không nằm trong tầm kiểm soát của bà, ngay từ khi người đàn ông đó tấn công bà đã bị chiếm đóng, không một chút phòng bị. Tuổi tác của ông ta cũng đáng tuổi bố của bà, thế mà lại có được tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất của bà, và cả cơ thể còn đang bó nụ chờ nở của bà.
Để tránh khỏi tai mắt của mọi người, ông ta tìm lý do đưa bà đến Đồng Thành, sắp xếp cho bà ở trong một dinh thự rất đẹp, chính là Thanh Thủy Đường ngày hôm nay. Sự chiều chuộng mà ông dành cho bà đúng là đặc biệt, không có lời nào diễn tả. Khi nỗi sợ hãi được thay thế bởi sự ngưỡng mộ và sùng bái, bà dần dần bị sự quả quyết của người đàn ông này khuất phục. Nghe nói, người đàn ông này là một nhà đại tư bản, tổ tiên mở tiệm thuốc, đã từng du học nước ngoài, thế lực gia tộc rất lớn. Đêm trước của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa thành lập, vì đã giúp chính phủ xây bệnh viện, phát triển ngành y dược nên cũng dần dần bước chân vào con đường chính trị, thăng quan tiến chức rất nhanh. Cả gia tộc hi vọng ông sẽ làm nên thành tựu lớn trong giới chính trị, nào ngờ sự việc bại lộ, chuyện của ông và bà bị người ta lật tẩy.
Đúng lúc đó Bối La lại mang thai, nếu như mọi chuyện bị vạch trần thì tiền đồ của ông coi như tiêu tan hết. Thế nên gia tộc nhà họ yêu cầu bà phải bỏ đứa bé đi, bà không đồng ý, kiên quyết đòi sinh ra. Nhưng một người con gái yếu mềm làm sao đối phó được với cả một gia tộc lớn như vậy, bà bị bắt ép đến bệnh viện phá thai, khi đó thai nhi đã được tám tháng, trong quá trình giằng co, bà bị động thai phải vội vàng đưa đến bệnh viện. Kết quả đứa bé bị sinh non, bà cũng mất quá nhiều máu, suýt nữa thì ngay đến cả mạng sống cũng không giữ được. Sau khi xuất viện, bà lập tức bị điều đi ngoại tỉnh.
“Cả đời ta cũng vẫn nhớ tình cảnh ngày hôm đó, người nhà bọn họ đến rất đông, lôi ta đến bệnh viện, bất kể ta có khóc, có van xin thế nào cũng vô ích. Đã hơn tám tháng rồi, đứa bé cũng đã sắp sinh ra rồi mà họ cũng không chút động lòng, tàn nhẫn giết chết đứa con ngay trong bụng ta. Ngay đến mặt con ta cũng không được nhìn thấy, chỉ biết nó là một đứa con trai... Đáng hận là, sự việc từ đầu đến cuối ta không hề nhìn thấy ông ấy, sự lẩn tránh của ông ấy chính là ngầm bị khuất phục bởi chuyện này rồi. Mấy chục năm đã qua, ta vẫn hay mơ thấy đứa con đang khóc, duy nhất là không mơ thấy hình dáng con thế nào...”
Nói đến đây bà dường như đã lấy hết sức bình sinh, khuôn mặt đầy những nếp nhăn đã tràn trề nước mắt. Thật khó mà tưởng tượng được, một con người đã phải chịu đựng nỗi đau thương suốt ba mươi mấy năm trời thì dằn vặt đến thế nào! Nỗi đau đó sẽ không bao giờ mất đi theo dòng chảy của năm tháng, bà nghiêng người cúi mặt xuống nức nở. Diệp Quán Ngữ ngồi xuống bên giường vỗ vai bà, bà xua tay, lại nói tiếp: “Đừng lo cho ta, nói ra được là tốt rồi, đã chôn vùi trong lòng suốt hơn ba chục năm trời, giờ thì cuối cùng cũng giải thoát được khỏi lòng. Nếu không lại phải mang theo xuống dưới mồ, làm sao ta yên nghỉ được.”
“Vậy sau đó thì sao?” Diệp Quán Ngữ không muốn hỏi, nhưng lại rất tò mò muốn biết.
“Sau đó, sau đó... Cách cũng khoảng mười năm sau đó, cha ta qua đời, ta mang tro cốt của cha ta về tỉnh thành mai táng cũng không biết bằng cách nào mà ông ấy biết được chuyện này mà tìm thấy ta... Khi đó, ông ấy đã là một quan chức cao, thân phận hiển hách, ông ấy sám hối với ta, nói khi xưa cũng là do không thể làm chủ được bản thân, làm sao ta nghe cho lọt tai được chứ... Nhưng ta lại không thể nào rời khỏi tỉnh thành được, vì mẹ ta cứ kiên quyết không chịu đi, bà muốn ở lại bầu bạn với cha ta. Con người ta một khi đã già rồi thì chỉ muốn lá rụng về cội mà thôi. Hai năm sau mẹ ta cũng qua đời, không lâu sau, ‘Cách mạng văn hoá’ nổ ra, ông ấy phải chịu đả kích vì vốn xuất thân là một nhà tư bản, ta cũng bị liên lụy, bị Hồng vệ quân bắt lôi đi biểu tình. Sau khi ông ấy biết được tình hình liền thức trắng đêm phái người đưa ta đến Hồng Kong, rồi lại chuyển đường đưa đi Pháp. Đến Pháp rồi ta mới biết, thực ra phần lớn gia sản gia tộc nhà họ đều ở nước ngoài... Ta sống một mình ở Pháp, không hề rõ tình hình trong nước, chỉ biết là gia tộc bọn họ phải chịu đả kích rất lớn, ông ấy đã không thể cố gắng đến phút cuối, và đã qua đời vào thời cuối của cuộc ‘Cách mạng văn hóa’. Đêm trước khi ông ấy qua đời còn gửi cho ta một bức thư, phó thác cho ta rất nhiều chuyện, hi vọng kiếp sau sẽ đến bù đắp những gì ông ấy đã nợ ta...”
“Đã bao năm rồi, ta sống một mình ở Pháp, bên cạnh còn có cả một lũ người vây quanh, nhưng sao ta luôn có cảm giác cô đơn đến thế... Ta cũng đã hạ quyết tâm lớn lắm mới về nước xem thế nào. Thanh Thủy Đường vẫn bộ dạng như ngày xưa, vừa bước vào cái sân này là ta đã biết, ông ấy chưa bao giờ ngủ trong tim ta, ông ấy vẫn luôn sống mãi... Mỗi hòn gạch ở đây, mỗi viên ngói ở đây đều đã chứng kiến ân oán giữa ta và ông ấy, hơn ba chục năm đã trôi qua rồi, ngoảnh đầu lại nhìn, ta phát hiện thứ chống đỡ để ta sống đến được tận ngày hôm nay thực ra không phải là hận ông ấy, mà là yêu, là yêu! Ta yêu ông ấy, chưa bao giờ thay đổi cả! Trong dinh thự này, nơi đâu cũng có hình bóng của ông ấy, tối ngủ, ta luôn nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy vọng lại trong đêm, còn cả tiếng thở dài nữa.
Bỗng nhiên ta hiểu ra, nguyên nhân mà ban đầu khi rời khỏi Trung Quốc vì sao ông ấy lại khăng khăng đòi chuyển tên dinh thự này sang tên ta. Ông ấy nói, sớm muộn gì em cũng sẽ trở về, tôi sẽ ở đây đợi em, nhất định em sẽ cảm thấy được tôi đang ở bên cạnh em, như vậy, em sẽ không còn hận tôi nữa, trăm năm sau, nơi đây sẽ là phần đất mộ của tôi và em... Lúc đó, khi ta nghe thấy những lời này, ta khóc đến suýt ngất... Nhưng ta vẫn không muốn được chôn ở đây, cả đời này ta đã chịu đựng đủ những đau khổ mà ông ấy và gia đình ông ấy đem đến cho ta, ta muốn ra đi thật nhẹ nhàng, sạch sẽ, kiếp sau ta cũng không muốn nhận ra ông ấy nữa, cứ coi như là một giấc mộng thật dài thật dài, giấc mộng này đã kéo dài suốt cả cuộc đời ta, cuối cùng cũng đã đến lúc kết thúc rồi...”
Bà Bối La kể xong câu chuyện này dường như đã thanh thản nhẹ nhõm hơn rất nhiều, bà cười thư thái, cùng lúc đó tháo chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay của bà ra, đưa cho Diệp Quán Ngữ: “Con trai, hôm nay ta gọi con đến, chính là muốn kết thúc một việc cuối cùng, con là người duy nhất đáng để ta tín nhiệm trên thế giới này, vì vậy xin con hãy nhận lấy cái này, dù thế nào con cũng phải nhận lấy, sau này sẽ cần dùng đến.”
Đây là một chiếc nhẫn ngọc bích màu xanh biếc, màu xanh bí ẩn, để lộ thứ ánh sáng mờ gom lại bên trong, đó là thứ ánh sáng lấp lánh đọng lại qua năm tháng, cho dù là trong căn phòng tối tăm cũng phát ra vầng sáng chói lóa khiến người ta không dám nhìn thẳng vào. Anh cầm chiếc nhẫn nhìn ngắm rất kĩ, nhìn thấy mặt trong chiếc nhẫn khắc hai chữ “Bỉnh Sinh”.
“Bỉnh Sinh?” Diệp Quán Ngữ không hiểu nghĩa của nó.
“Đó là tên tự của ông ấy.” Bà Bối La giơ tay lên cho anh xem, “Ban đầu đó là vật đính ước ông ấy tặng cho ta. Ta không muốn đem xuống mồ, vậy nên quyết định tặng nó cho con...”
“Không, không, vật quý trọng như vậy làm sao cháu có thể nhận được?” Diệp Quán Ngữ giật mình, vội đưa lại chiếc nhẫn.
Bà Bối La nói: “Con trai, con nhất định phải nhận lấy! Đây không phải là một chiếc nhẫn bình thường, mà là một tín vật, giá trị thực của nó không chỉ đơn giản là giá trị của một chiếc nhẫn thôi đâu, sau lưng nó là cả một tài sản khổng lồ, lớn đến mức con không thể nào tưởng tượng nổi. Ta giao nó cho con vì ta cảm thấy con là một người thành thật và chính trực, ta không còn người thân nào khác nữa, nếu không tìm được người phó thác trước khi nằm xuống thì chiếc nhẫn này sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại của nó, tài sản sau lưng nó cũng sẽ tiêu tan như mây khói, con có hiểu ý của ta không?”
Diệp Quán Ngữ vẫn có vẻ mù mờ chưa hiểu, bà Bối La liền đặt chiếc nhẫn trong một cái hộp, nói bằng giọng như ra lệnh: “Nếu con không chịu nhận, thì ta sẽ chẳng sống được đến khi trời sáng đâu!”
“Bà...” Diệp Quán Ngữ nắm chiếc hộp mà cảm giác nó như thể nặng ngàn cân vậy, không dám tùy tiện gật đầu.
“Đừng từ chối nữa, nếu không ta sẽ trách con đấy. Dưới đáy cái hộp này có một địa chỉ, đến khi nào con cần được giúp đỡ, thì hãy mang chiếc nhẫn này đến Pháp gặp ta, cho dù ta không còn trên đời này nữa, thì chỉ cần có chiếc nhẫn này, nó sẽ giúp con đạt được nguyện vọng của mình, nhớ kĩ lấy, không được để mất! Nghe rõ chưa?”
Cuộc sống vẫn diễn ra như thường.
Diệp Quán Ngữ còn nhớ, khi đó anh cẩm chiếc nhẫn và suy nghĩ rất nhiều ngày, anh luôn không hiểu ngoài một chiếc nhẫn ra thì nó còn có thể có ý nghĩa gì nữa. Nhưng anh nghĩ, nếu đã là đồ bà Bối La tặng thì cho dù nó chỉ là cái nhẫn cũng phải giữ gìn thật tốt, đây là một sự giao phó và tín nhiệm nặng nề đầy trách nhiệm! Anh không hề hi vọng chiếc nhẫn này sẽ mang đến kì tích gì cho tương lai của mình, với cuộc sống của anh bây giờ, mơ ước chính là thứ nhỏ bé không đáng tiền nhất. Nhưng những lúc đêm khuya vắng lặng, một mình anh lại thẫn thờ dưới ánh trăng trên mảnh đất hoang ngoài lán công trường, tâm trạng khó mà bình tĩnh được. Nỗỉ xức động mà bà Bối La mang lại cho anh khiến anh không bao giờ trở về lại được với sự đơn thuần của ngày xưa, lần đầu tiên anh thấy cuộc đời con người lại là một chuyện phức tạp đến vậy, một giấc mơ, lại có thể mơ mãi suốt cả cuộc đời...
Đúng vậy, một giấc mơ có thể mơ suốt cả một cuộc đời.
“Anh, anh đang nghĩ gì vậy?” Không biết Văn Uyển Thanh đã ra từ lúc nào, cầm cốc cà phê đặt trước mặt anh, Diệp Quán Ngữ giờ mới định thần lại, ngước mắt lên nhìn cô. Đang trong những ngày xuân ấm áp, Văn Uyển Thanh mặc một chiếc váy may thêu màu hồng mỏng, chiếc váy rộng thoải mái kiểu Hàn Quốc vẫn không che đi được cái bụng đang hơi nhô lên. Ánh mắt của Diệp Quán Ngữ dừng lại trên cái bụng của cô, “Mấy tháng rồi?”
Diệp Quán Ngữ mặt tỉnh bơ: “Em định sinh nó thật à?”
Văn Uyển Thanh vừa nghe vậy liền cuống cả lên, cô hiểu Diệp Quán Ngữ nhất, khi mặt anh tỉnh bơ chính là lúc anh đáng sợ nhất, một ánh mắt thiếu thận trọng cũng có thể dồn người ta vào chỗ chết. Lức này, ánh mắt của anh lạnh đến nỗi khiến người ta khiếp sợ. Văn Uyển Thanh vô cùng sợ hãi, theo bản năng, cô lùi lại phía sau: “Anh, anh hãy tha cho đứa bé này đi, nó vô tội nó là con của em, em sẽ không để nó mang họ Lâm đâu...”
“Nó không mang họ Lâm thì không phải là con cái nhà họ Lâm sao?” Diệp Quán Ngữ cầm cốc cà phê lên, trên mặt không một chút xúc cảm, vẫn không nhìn ra được một chút manh mối gì. Nhưng đôi mắt anh đã hơi nheo lại, ánh mắt vô tình hay hữu ý nhìn vào bụng của Văn Uyển Thanh, đây thực sự là một tín hiệu nguy hiểm. Mỗi khi anh nheo mắt nhìn ai đó, đa phần là người đó sẽ gặp rắc lối, Văn Uyển Thanh bước lên phía trước, “phịch” một tiếng, quỳ xuống trước mặt anh: “Anh, em biết anh rất không vui, nhưng ngoài đứa con này ra, em đã không còn gì nữa rồi, bao năm qua, thực ra chẳng có gì thuộc về em cả,.,”
“Em thật là ngang bướng!” Diệp Quán Ngữ vung tay, cốc cà phê văng ra xa, vỡ tan tành, “Chỉ tại tôi nuông chiều quá nên em mới đâm hư ra thế này! Em có đầu óc suy nghĩ hay không vậy, sinh một đứa trẻ ra, để nó không có bố, như thế có phải là thái độ chịu trách nhiệm không? Ngày xưa em có vượt quá giới hạn đến thế nào tôi cũng đều có thể nhân nhượng được, ban đầu em lấy Lâm Hy, rồi cuối cùng lại diễn kịch giả thành thật, tôi cũng đã dung nạp em rồi, nhưng em lại muốn sinh đứa con của hắn ra, em đặt tôi ở đâu vậy, hả? Em đừng quên, em là người đàn bà của tôi, thế mà lại sinh con cho gã họ Lâm đó, em tưởng rằng tôi sẽ cho phép sao?”
“Anh...” Văn Uyển Thanh ôm lấy chân anh, òa khóc, “Không phải là em không muốn báo thù cho anh, nhưng đến mãi phút cuối, em mới phát hiện ra rằng, tình yêu mãi mãi quan trọng hơn cả thù hận, chính là tình yêu khiến em sống được đến ngày hôm nay. Em yêu anh ấy, cho dù em cũng hận anh ấy... Mà chính nhờ đứa bé này khiến em hiểu được thế nào là yêu, nó chính là tất cả hi vọng còn lại của em...”
Diệp Quán Ngữ bỗng thất thần trong giây lát, “Lại là yêu...”
“Bao năm qua anh như một người anh trai, luôn chăm sóc, yêu thương em, là anh đã cho em cuộc sống được ăn ngon mặc đẹp, còn đưa em đi nước ngoài du học, nhưng anh ơi, anh hãy tự hỏi lại mình xem, thứ mà anh cho em là tình yêu sao? Anh yêu em sao? Em chẳng qua chỉ là vật thay thế mà thôi, một thứ để gửi gắm, bởi trong em có hình bóng của người con gái trong tim anh, anh nuông chiều em như thể em là cô ấy... Em đã nhận ra từ lâu rồi, rất nhiều năm trước, khi lần đầu tiên em nhìn thấy bức ảnh của Thư Mạn trong ngăn kéo bàn. của anh, em mới bỗng nhiên tỉnh ngộ. Nhưng em không nói ra, bởi em sợ anh sẽ ruồng bỏ em...
Sau này dần dần lớn lên, em không muốn cả đời làm một vật thay thế nhỏ bé đáng thương như thế, em muốn có một tình cảm thuộc về chính bản thân mình, cho dù là phải rời xa anh dưới hình thức là đi báo thù, em cũng nguyện mỉm cười bước đi vào nơi nguy hiểm. Thực ra, tìm Lâm Hy báo thù, nói cho cùng cũng chỉ là mượn danh nghĩa thế thôi, em chỉ muốn rời xa anh, em sợ sau này chết rồi, em sợ trên bia mộ của em sẽ khắc tên một người phụ nữ khác không phải là em. Điều đó thật đáng sự! Cũng thật đáng thương! Thế rồi em lấy Lâm Hy, khi đó em đã có dự cảm em sẽ yêu anh ấy, cũng rất kỳ vọng rằng anh ấy có thể cho em tình yêu, nhưng sự việc lại không như người ta mong muốn, em vẫn không thể có được cái mà em khao khát... Đứa bé, chỉ có đứa bé này mới là thứ duy nhất em có được, cũng là chỗ dựa duy nhất của em trong quãng đời còn lại, anh, xét vì bao năm qua em đã ở bên anh, bầu bạn cùng anh, xin anh đừng cướp đi đứa bé này của em, em xin anh, anh ơi...”
Diệp Quán Ngữ không nói gì, vung tay bước đi.
Mặc cho Văn Uyển Thanh có gào khóc thế nào, anh cũng không thèm ngoái đầu nhìn lại.
Ra khỏi cổng dinh thự, Lữ tổng quản lập tức ra mở cửa xe cho anh. Lên xe, dè dặt hỏi anh: “Ngài có gì dặn dò không ạ?”
Ý ông là, anh dự định xử lý đứa bé trong bụng Văn Uyển Thanh thế nào.
Diệp Quán Ngữ vẫn còn bực mình không chịu nổi, xẵng giọng: “Để xem đã.”
“Vâng.” Lữ tổng quản đành gật đầu, nhưng do dự một lúc, vẫn nói thêm một câu: “Có điều, Quán Ngữ, thường thì chuyện gì cũng tốt nhất là đừng để lại hậu họa...”
“Hậu họa?”
“Đúng vậy, thằng bé được sinh ra rồi, dòng máu chảy trong người nó là máu của nhà họ Lâm.”
Diệp Quán Ngữ sao mà thông minh thế, vừa nghe vậy đã phì cười: “Ý ông là, sau này khi lớn lên, nó sẽ tìm tôi để báo thù hả?”
“Chúng ta không thể bỏ qua mối lo ngại này.”
“Không phải là lo ngại, mà là tuyệt đối sẽ có khả năng này!” Diệp Quán Ngữ cười phá lên, “Vậy thì tôi phải để cô ấy sinh đứa bé này ra mới được, tôi muốn xem xem, sau này cái giống lai này sẽ tìm tôi để báo thù như thế nào đây. Thú vị, thú vị quá đi chứ! Đời người là những kiếp luân hồi không ngừng, tôi tiêu diệt nhà họ Lâm, rồi lại để lại cho họ một cái gốc, sau này khi tôi đến độ tuổi của Lâm Sỹ Diên nhất định sẽ rất cô đơn, có lẽ sau này, cái giống tạp lai này sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh thú vị trong những năm tuổi già của tôi. Sống đến già, đấu tranh già, vậy mới không uổng sống một đời chứ, ha ha ha...”
“Quán Ngữ...”
“Thôi, thôi, chuyện này cứ quyết như thế đi. Mấyngày nữa mang chút đồ dinh dưỡng đến, bố trí ổn thỏa đời sống cho Uyển Thanh, để cô ấy sinh ra một thằng nhóc mũm mĩm khỏe mạnh đợi sau này tôi già còn chơi với tôi.” Diệp Quán Ngữ mỉm cười nheo mắt lại, đáy mắt lại vô cớ trào lên một đám sương, họng như bị một vật gì chặn lại, giọng anh thoát nhiên trở nên khàn đục, “Cuộc đời này vốn tôi đã không muốn sống nữa rồi, định sẵn là sẽ già và cô đơn cho đến lúc chết, không có người yêu, không có người thân, củng không có bạn bè, chỉ có kẻ thù... Nếu đã không thể có tình yêu, vậy thì hãy để người ta hận tôi đi, đây cũng là một cách để người ta nhớ đến mình. Chú Lữ, chú nói có phải không?”
Lữ tổng quản bỗng chốc nghẹn ngào: “Quán Ngữ, cậu nói vậy sao, cái thằng con trai này...”
“Cảm ơn chú, chú Lữ, trên đời này chỉ có chú gọi tôi là ‘con trai’ thôi.” Diệp Quán Ngữ mệt mỏi ngẩng mặt lên, chỉ trước mặt Lữ tổng quản anh mới thi thoảng thể hiện cảm xúc thật của mình ra, “Lúc bà Bối La còn sống, thi thoảng bà ấy cũng gọi tôi là ‘con trai’. Sau khi bà ấy ra đi, tôi mới thực sự cảm nhận được thế nào là cô đơn không nơi nương tựa. Ngay từ đầu tôi đã biết, có lẽ đến cuối đời tôi cũng không có được thứ mà tôi muốn có, quả nhiên là vậy, nhớ thương cô bé đó suốt mười mấy năm trời, cuối cùng cô ấy lại yêu người khác...”
Câu nói ấy khiến Lữ tổng quản như sực nhớ: “À, đứng rồi, vừa mới nhận được tin tức, cô Thư Mạn...” Lữ tổng quản nói đến đó thì ngập ngừng, vế tiếp sau đó không biết nói thế nào.