Đúng thế, An Hiểu là mối tình đầu của anh. Hai người là đôi kim đồng ngọc nữ hiếm thấy của trường cấp III huyện, họ cùng là những học sinh xuất sắc nhất, có chung mục tiêu là thi vào đại học Giang Kinh danh tiếng ở xa cả ngàn cây số. Họ cùng theo đuổi một kết quả mỹ mãn.
Rồi một đêm đông, An Hiểu phát hiện ra cô bạn Thạch Vi treo cổ.
Thạch Vi là bạn học rất thân của An Hiểu, họ cùng quê thị trấn Ngân Dư, hai gia đình ở sát vách nhau, về sau lại cùng học nội trú ở trường cấp II huyện, ở cùng ký túc xá, luôn cởi mở không giấu nhau chuyện gì. Khi học lớp 12, An Hiểu cảm thấy Thạch Vi hơi khác lạ, cô chỉ nghĩ chắc là do áp lực của đợt thi đại học sắp tới, cô vài lần nói chuyện kỹ với bạn nhưng không có kết quả. Rồi một ngày trong dịp đêm đông, Thạch Vi mất tích.
Cha mẹ Thạch Vi hoảng hốt, An Hiểu cũng rất lo lắng, cô đi tìm khắp vùng xung quanh, hỏi các thầy các bạn, rồi cô nghĩ đến ngôi nhà gỗ xám đen trên núi.
Dịp nghỉ hè sau khi thi hết cấp III, An Hiểu và Thạch Vi phát hiện ra ngôi nhà này. Đó là kỳ nghỉ hè nhàn rỗi vô tư chưa từng có, hai cô gái vào rừng “thám hiểm” một phen. Lúc sắp đi lại thấy sợ, nên An Hiểu bèn rủ Cốc Y Dương là bạn học từ hồi cấp II trên huyện cùng đi. Khi học lớp 6, Cốc Y Dương còn có biệt hiệu là “Ngố đen”, nhưng lên lớp 8 thì đã có vô số nữ sinh thầm mơ tưởng đến cậu, hoặc coi cậu là chuẩn mực của người chồng tương lai. Nhà Cốc Y Dương ở huyện lỵ khá xa, nhưng lời mời của hai người đẹp An Hiểu, Thạch Vi đã cuốn hút Cốc Y Dương đến thị trấn Ngân Dư đúng hẹn, để hộ giá hai nàng lên đường thám hiểm.
Chính trong chuyến đi này họ đã phát hiện ra ngôi nhà gỗ đen mà truyền thuyết nói đến.
Bên trong ngôi nhà treo tấm chăn chiên đen, đầy bụi bặm và gỗ mục, lỏng chỏng vài cái ghế gỗ, ngoài ra không có gì khác. Vật duy nhất khiến ba thanh niên tưởng tượng ra đủ thứ chuyện, là một chiếc đai da buộc thõng ở xà ngang.
Đai da ấy có vẻ cũ kĩ lâu năm, được thắt thành cái thòng lọng buộc trên xà ngang, mẩu đuôi thô nháp lởm chởm, hình như bị mài đứt hoặc bị vật nặng kéo đứt. Cả ba bắt đầu bàn tán tranh luận hồi lâu, sao lại buộc đai da ấy lên xà ngang, nó có tác dụng gì?
Thạch Vi nói chắc nịch đã có người treo cổ ở đây. An Hiểu nói hình như chưa từng thấy ai ở thị trấn nói rằng trên này đã từng có người treo cổ; nhất là bà Phan chủ tiệm tạp hóa “Ngân Hâm”, người biết đủ thứ chuyện lớn nhỏ khắp vùng này, biết nhiều hơn cả mạng Baidu[2], ngay bà ấy còn không nhắc đến chứng tỏ chưa từng có chuyện treo cổ gì hết. Thạch Vi nói: “Nếu là chuyện cách đây trăm năm, bà Phan còn chưa oe oe trào đời thì biết sao được? Huống chi, ngôi nhà trong rừng sâu này là chỗ các thợ đốn gỗ, thợ săn nghỉ chân, họ nay đây mai đó, phần lớn là người nơi khác về đây kiếm ăn, nội bộ có oán thù gì đó, thì bà Phan bán tạp hóa ở thị trấn sao biết được?”
[2] Baidu: mạng tìm kiếm của Trung Quốc, tựa như mạng Google.
An Hiểu nói: “Thế thì đúng rồi, đai da này dùng để giết người. Đàn bà thường hay treo cổ, thợ đốn gỗ đều là nam giới khỏe mạnh, cậu nghĩ xem, đời nào họ lại bi quan để rồi tự treo cổ? Chắc là do cãi cọ đánh nhau hoặc chia chác không đều gì đó… họ tranh chấp, hậu quả là có người bị treo cổ.”
Cốc Y Dương nhân đó ngẫm nghĩ, bổ sung: “Chia chác không đều, không phải là vấn đề của các thợ đốn gỗ mà có thể là của các hưởng mã[3]! Bọn hưởng mã cát cứ ở ngôi nhà đen này, dùng đai da treo cổ đối thủ, có thể là do chia chác không đều; hoặc thậm chí chúng bắt cóc con tin rồi giết hại!”
[3] Hưởng mã: bọn cướp đường; ngựa của chúng thường đeo chuông kêu leng keng, hoặc chung bắn tên đeo nhạc trước khi chặn đường cướp của.
Cuối cùng anh chỉ tay vào đám tro than còn sót trên nền nhà, nói: “Nhưng khả năng lớn nhất là đai da dùng để treo xác động vật sắn bắn được, như hươu nai, kể cả chó sói. Nghe nói các thợ săn thực thụ dám ăn đủ thứ, họ đốt lửa bên dưới, treo con vật bên trên, nướng ăn.”
Kể từ hôm đó, ngôi nhà đen trở thành bí mật riêng của ba người.
Sau khi Thạch Vi mất tích, An Hiểu nghĩ đến ngôi nhà đen, cũng là vì câu nói kia của Thạch Vi. Vì có một thời gian Thạch Vi hay đi mất hút rất lạ lùng, buổi tối không lên lớp ôn tập nữa, tâm trạng cũng buồn vui thất thường, lúc thì cười tươi như hoa, lúc thì ủ ê sụt sịt. An Hiểu quan tâm hỏi han thì Thạch Vi nói: “Đừng lo! Thi đại học có gì là ghê gớm? Dù thi trượt cũng chẳng sao, cùng lắm là tớ sẽ treo cổ ở ngôi nhà đen!”
Nhớ đến ngôi nhà đen và câu nói đó của bạn, An Hiểu đánh liều một mình đi vào rừng, vội quá không kịp gọi Cốc Y Dương.
Và cô đã phát hiện ra Thạch Vi treo cổ ở thanh xà ngang trong ngôi nhà đen ấy.
Thắt lưng da của Thạch Vi thít vào cổ. Còn chiếc đai da cũ kỹ kia thì vẫn treo trên thanh xà đó.
Không để lại thư tuyệt mệnh, không có dấu hiệu nào báo trước, không ai biết tại sao Thạch Vi tự vẫn.
Hay là không phải Thạch Vi tự vẫn?
Sau hôm đó cuộc sống của An Hiểu cũng khác đi. Suốt một thời gian dài, cô thu mình lại; cô gái vốn vui vẻ vô tư, nay lại cứ như người mất hồn. Cô học trò lẽ ra chắc chắn sẽ vươn lên tuyến trên thì lại thi trượt đại học, đành ngồi nhà ôn bài chờ thi năm sau. Cốc Y Dương tuy cũng xúc động mạnh trước vụ việc Thạch Vi nhưng anh vẫn trấn tĩnh để phát huy khả năng và thi đỗ đại học Giang Kinh. Kể từ đó đôi tình nhân cách trở đôi nơi, chỉ gặp nhau qua mạng chat.
An Hiểu đã lấy lại phong độ cũ, lên lớp ngồi ôn tập bài vở, cô vẫn là học sinh giỏi hàng đầu, và mong chờ ngày đoàn tụ với Cốc Y Dương ở đại học Giang Kinh. Nhưng khi bước vào kì nghỉ đông, gần tròn một năm ngày Thạch Vi tự vẫn, thì hồn vía An Hiểu cứ như đã bay đi tận nơi nào.
Khi chat với Cốc Y Dương, cô nói: “Gần đây em gặp bà Phan bán tạp hóa ở thị trấn, bà ấy kể về một điều lưu truyền đã lâu trong dân chúng địa phương rằng, nếu có người bị chết oan, thì ta có thể tìm thấy oan hồn người ấy ở nơi bị chết, điều kiện là phải đến đó vào đúng ngày giỗ.”
Cốc Y Dương cảm thấy căng thẳng: “Chắc em không định…”
An Hiểu: “Em chưa bao giờ cho rằng Thạch Vi tự sát. Hồi còn sống, bạn ấy còn một số chuyện chưa nói với em…”
Cốc Y Dương cảm thấy An Hiểu rất kì quặc: “Thạch Vi khi còn sống chưa nói, nay đã chết rồi, cô ấy sẽ nói cho em biết hay sao? Sao em có thể tin cái chuyện mê tín như thế? Sao lại tin những câu bà Phan nói phứa?”
An Hiểu: “Ít ra em cũng nên thử xem sao.”
Trên mạng chat, Cốc Y Dương không thể can ngăn An Hiểu, anh vội trở về quê gặp để can ngăn người yêu. Đúng buổi tối “ngày giỗ” của Thạch Vi thì anh về đến huyện lỵ, rồi đi tiếp về thị trấn Ngân Dư. Nhưng khi anh đến nhà An Hiểu thì cô đã đi vào núi.
An Hiểu gần như lặp lại số phận của Thạch Vi.
Cốc Y Dương dồn hết sức lực để đi đoạn đường núi. Năm đó tuyết rơi ít, cũng hay có người ra vào núi, nhưng ban đêm rất khó đi, anh lại đi rất vội, suýt bị ngã xuống vực. Khi anh gần như hết hơi kiệt sức chạy đến ngôi nhà đen, thì phát hiện ra An Hiểu đã treo cổ trên xà ngang.
Dường như tham gia một vở kịch luân hồi thảm khốc, Cốc Y Dương đau đớn muốn chết nhưng anh cố trấn tĩnh, đỡ An Hiểu xuống. Anh có chút hiểu biết về sơ cứu, bèn lập tức làm hô hấp nhân tạo, ấn ngực, hà hơi thổi ngạt, đã cứu vãn được sinh mệnh cô.
Không lâu sau đó cha mẹ An Hiểu cũng đến nơi, cùng đưa cô đi viện cấp cứu. May mà Cốc Y Dương đã đến kịp thời, An Hiểu treo cổ cũng chưa lâu, nên cô được cứu sống.
Nhưng đáng buồn là sinh mệnh cô chỉ được cứu vãn một phần.
Vì lúc treo cổ thì máu không lên để nuôi não bộ, nên An Hiểu trở thành người thực vật. Cha mẹ đưa cô đi khắp các bệnh viện Thẩm Dương, Bắc Kinh chạy chữa nhưng các thấy thuốc đều bó tay.
Cô chỉ có thể nằm nhà trong im lặng, cách biệt với thế giới bên ngoài.
Còn Cốc Y Dương, anh chỉ có thể về thăm cô đang ngày một héo hon vào mỗi kì nghỉ phép.
Về sau, cha mẹ An Hiểu thậm chí không muốn Cốc Y Dương đến thăm nữa. Mỗi lần anh đến là một lần khiến hai vị đã bất lực chăm sóc con gái lại bị sốc nặng nề.
Cốc Y Dương cũng hiểu rằng, anh đã gắng hết sức, nay đành cố bước ra khỏi bóng đen nặng nề này.
Tất cả đã giải thích rõ một nỗi khúc mắc trong tôi: tại sao Cốc Y Dương, chàng trai rất phong độ của đại học Giang Kinh, lại không có bạn gái. Cho đến năm thứ tư, mới có Na Lan tôi là “bạn gái đầu tiên”.
Anh gắn bó nồng nàn với tôi chưa đầy một năm, sau khi anh đến Bắc Kinh nhận công tác không lâu, thì một tin rất đặc biệt đã kéo anh trở lại quê nhà.
An Hiểu phục hồi tri giác!
Do trời không nỡ bắt ai phải tuyệt đường, hay là do thể chất của thanh niên vốn tràn trề nhựa sống? Vào một ngày hè đẹp rực rỡ, bà mẹ An Hiểu chợt nhìn thấy đôi mắt vô hồn của cô con gái hơn 4 năm qua làm người thực vật, nay bỗng chớp chớp động đậy.
Một ngày cuối tuần Cốc Y Dương trở về bên giường An Hiểu, anh nhận ra niềm vui tái ngộ và nét lưu luyến chưa hề tiêu tan trong ánh mắt người yêu.
“Cũng vì ánh mắt của cô ấy khi nhìn thấy anh, nên anh phải đối mặt với một câu hỏi cực hóc búa.” Cốc Y Dương đứng dậy, bước đến bên tường, giống như người úp mặt vào tường sám hối.
Tôi hiểu phần tiếp theo là gì: anh chật vật suy nghĩ để đi đến quyết định: sẽ dồn hết tình cảm cho An Hiểu, để cô chóng bình phục.
Đáng ngợi ca, và cũng đáng buồn.
“Nhưng ít ra anh cũng nên cho em biết.” Tôi nói.
“Anh có thể nói gì? Anh không biết nên nói với em thế nào. Anh chỉ nghĩ, phải chờ… chờ anh nghĩ ra rồi anh sẽ cho em biết. Đúng là việc này anh đã xử lí không tốt. Anh từng gặp riêng Thành Lộ hỏi xem nên thế nào, cô ấy cũng thấy bí.” Cốc Y Dương thở dài. “Thế rồi anh bèn nghĩ rằng, phải lạnh nhạt và cắt đứt với em, em hận anh thì anh cũng đành vậy.”
Tôi xúc động nói: “Vậy ra anh và Thành Lộ nhiều lần gặp nhau là vì chuyện này?”
Cốc Y Dương cười buồn: “Nếu anh nói đúng là vì chuyện này, liệu em có tin không?”
“Không!”
“Đúng là anh đã gặp Thành Lộ nhiều lần, vì một nguyên nhân rất đáng buồn: kể từ mùa hè năm ngoái, Thành Lộ cảm thấy La Lập Phàm có chuyện ngoại tình. Cô ấy định theo dõi anh ta… em biết rồi: cô ấy là con người đơn giản, có thể nói là không thể khá lên được, bám theo vài bước thì hoặc là để lạc mất mục tiêu hoặc là mình bị phát hiện. Cho nên cô ấy tìm anh, nhờ anh theo dõi La Lập Phàm xem xem có đúng thế không. Anh rất ghét làm cái việc ấy, nhưng Thành Lộ là chị họ của em, anh rất thông cảm với cô ấy nên anh nhận lời. Các lần gặp nhau, là để anh “báo cáo công việc” với Thành Lộ. Tại sao em lại biết chuyện đó?”
Tôi ngẫm nghĩ từng câu anh nói, rồi lại tự hỏi mình. Tôi cảm thấy gần như đã khôi phục niềm tin đối với anh. Tôi nói: “Em đoán rằng, hai thám tử non nớt đã bị đối phương theo dõi lại rồi!”
Cốc Y Dương mím môi, im lặng. Tôi nhẹ nhàng an ủi: “Hai người, tính cách thuộc loại cởi mở phóng khoáng, đấu trí với La Lập Phàm, sẽ thua ngay từ hiệp đầu.”
“Nhưng em thấy không, gần đây Thành Lộ vẫn rất cởi mở phóng khoáng! Nhất là buổi tối đầu tiên đến đây, cô ấy uống rượu say mềm khiến ai cũng xót xa, không rõ La Lập Phàm đã dùng cách gì để tra tấn tinh thần cô ấy?” Cốc Y Dương nói.
Anh đã đụng đến nỗi đau âm thầm trong lòng tôi.
“Chắc anh nghi ngờ việc Thành Lộ mất tích có liên quan đến La Lập Phàm?” Tôi hỏi thẳng luôn.
“Không nghi ngờ anh ta thì còn nghi ai? Nghe nói em đã từng làm việc với cảnh sát hình sự, chắc em phải biết: khi vợ xảy ra chuyện, kẻ đầu tiên bị nghi ngờ là người chồng. Anh không hiểu nổi, nếu đúng là La Lập Phàm làm thì anh ta khiến Thành Lộ biến mất bằng cách nào.” Tay Cốc Y Dương nắm thành nắm đấm rõ chặt, thế mà trước mặt La Lập Phàm anh vẫn tỏ ra bình thản được!
Tôi chỉ ra ngoài cửa sổ: “Cũng chẳng khó gì, anh xem, tuyết dày thế kia, có thể vùi vô số thứ. Các anh đã lấy xẻng thăm dò, nhưng nếu bị vùi ở chỗ xa hơn thì sao?”
Có phải tôi đang giả thiết rằng Thành Lộ bị hại? Có lẽ tại tôi cứ nhức đầu dai dẳng, hay tại ăn uống thiếu chất, không đủ dướng khí cung cấp cho não bộ? Tôi bỗng thấy mình không thể suy nghĩ, không thể gạn lọc suy luận gì được nữa.
Tôi lại hỏi: “Vậy anh nói thẳng xem, việc tổ chức đi trượt tuyết lần này có liên quan gì đến cái chết của An Hiểu không?”
Cốc Y Dương ngạc nhiên: “Sao lại nói thế?” Anh luôn là người có thể “đọc được” ý nghĩ của người khác.
“Hôm đó em đã đi theo anh đến nghĩa trang.”
Vẻ mặt anh thoáng bực dọc: “Sao em lại…”
“Lê Vận Chi đến bãi trượt tuyết tìm anh, ai cũng nhìn thấy cả, em cũng biết anh và Thành Lộ có vấn đề, em muốn tìm hiểu rõ đó là gì, nên mới đi theo anh. Sau đó thấy Lê Vận Chi cũng đi theo anh đến nghĩa trang, cô ấy cho em biết ngôi mộ đó là của An Hiểu, nhưng cô ấy không nói rõ đầu đuôi, cuối cùng An Hiểu ra đi như thế nào.” Tôi đáp.
Cốc Y Dương lắc đầu, mắt rơm rớm: “Sau khi bệnh tình An Hiểu chuyển biến rõ rệt, cô ấy được cha mẹ đưa đi Thẩm Dương, vào viện số 2 Đại học Y điều trị. Nửa tháng sau đã khá lên, tuy vẫn chưa nói chưa đi lại được nhưng cổ và tứ chi đã hơi nhúc nhắc được. Thấy anh, cô ấy khẽ mỉm cười… và anh nhận ra rằng…” Anh ngẩng đầu, hình như sợ nước mắt sẽ rơi xuống. “Cha mẹ cô ấy đưa con về nhà và cho cô ấy tập luyện phục hồi chức năng, tiến triển chậm nhưng tình hình vẫn sáng sủa, có thể ngồi dậy tựa vào đầu giường, đưa tay lấy quần áo; cũng biết cố gắng tập nói. Bác sĩ cho biết sớm muộn gì cô ấy cũng sẽ đi lại và nói được.”
Tôi không biết mình có đủ can đảm nghe tiếp không, mắt tôi rơm rớm, tôi chờ đoạn kết của bi kịch.
“Nào ngờ, một hôm, cha cô ấy đi làm, bà mẹ đi chợ mua thức ăn khoảng nửa giờ, thì cô ấy đã làm một việc không ai hiểu nổi. Cô ấy mở ngăn kéo đầu giường lấy ra cái kéo rồi rạch cổ tay. Khi cha mẹ phát hiện ra thì cô ấy đã mất máu quá nhiều, cấp cứu tiếp máu cũng không kịp nữa…”
Sự việc ấy mới xảy ra cách đây gần hai tháng, ký ức đau khổ vẫn gần như mới đối với Cốc Y Dương; điều tôi có thể làm là giúp anh lau nước mắt.
Chờ khi không khí bi thương trong phòng đã dịu bớt, tôi mới nói: “Vậy thì em hoàn toàn có thể hiểu được: anh ngờ rằng An Hiểu không tự sát, vì tình trạng cô ấy đang khá lên.”
“Nhưng xét về tâm lý người bệnh thì lại không phải thế. Cô ấy dường như sống lại sau khi chết não, dần dần nhận ra tình trạng của mình, tuy có chút tiến triển nhưng vẫn là bế tắc, cảm giác đó rất nặng nề. Sức chịu đựng của con người có hạn, một người bệnh suốt năm gắn liền với cái giường, tự biết mình còn rất trẻ mà phải nhờ cha mẹ hầu hạ ăn uống, tắm gội, thu dọn đủ thứ, tất nhiên sẽ mặc cảm trầm uất. Ai dám bảo đảm vài năm sau hay vài chục năm sau sẽ trở lại cuộc sống bình thường? Tuổi xuân thì sao, ai sẽ trả lại cho cô ấy? Nếu cô ấy nhận ra mình có thể bị tàn phế, thì liệu cô ấy có được hưởng tình yêu vĩnh viễn của đối phương không? Cô ấy trở thành người thực vật năm 18 tuổi, tâm trạng của cô ây giờ đây là gì, không ai biết; nhưng cô ấy u uất vì cảnh ngộ của mình hiện giờ. Rất có thể là như vậy.”
Cốc Y Dương nói: “Ý em là… rất có khả năng cô ấy tự sát?”
Tôi chầm chậm lắc đầu: “Còn tùy xem anh có thể cho em biết những gì. Ví dụ, tại sao anh đến khu trượt tuyết này để “nghỉ dưỡng”?”
Cốc Y Dương hơi lưỡng lự. Tôi hiểu rằng anh còn có nhiều uẩn khúc.
Tôi chờ đợi. Tôi bước lại gần anh, ôn tồn nói: “Thế này vậy, anh nói xem, tại sao anh lại tổ chức chuyến đi này, và lại chỉ định em tham gia nữa?”
Lần này thì anh không lưỡng lự: “Vì anh vẫn yêu em… nhiều lúc anh rất cắn rứt, kể cả những khi ở bên giường An Hiểu chăm sóc cô ấy, hình ảnh em vẫn hiện lên trong tâm trí anh.”
Tôi đang định nói: lẽ nào anh vẫn chưa tin em? Anh còn điều gì chưa thể cho em biết?
Nhưng cửa bỗng mở toang.
Lê Vận Chi xộc vào.
“Hai người đã nói xong chưa?” Rất không giống Lê Vận Chi mọi lần, vì đôi mắt cô bỗng thẫn thờ, giọng nói thì lạc hẳn đi.
“Sắp rồi.” Tôi cảm thấy không ổn. “Chúng tôi cần thêm vài…” Câu cuối cùng tôi định hỏi là về cô ấy: Cốc Y Dương, anh quen Lê Vận Chi như thế nào?
“Không thấy anh ấy đâu, anh ấy cũng mất tích rồi!”
“Ai?” Tôi và Cốc Y Dương cùng hỏi.
“La Lập Phàm!” Lê Vận Chi đau đớn nói ra ba chữ này, cô bỗng đưa tay bưng mặt, khóc rưng rức.
Chương : Đồng hành ban đêm
“Anh đang làm gì, sao câm như hến thế? Định dọa nhau chắc?” Tôi không còn tâm trạng nào để lựa chọn từ ngữ nữa.
“Suỵt… nói khẽ thôi được không?” Giản Tự Viễn nén giọng thật thấp, “mùi hương” ở miệng anh ta phả ngay trước mũi khiến tôi phải lùi lại.
“Sao thậm thụt gì thế?” Tôi căn vặn.
Giản Tự Viễn nói: “Có một đầu mối quan trọng… tôi nghĩ, tốt nhất là cho cô biết trước. Tôi đoán thế nào cô cũng tìm đến đây nên tôi ngồi đây chờ.”
“Nói ngay lúc nãy cũng được mà, sao phải đợi đến lúc này mới cho tôi biết?”
“Rồi cô sẽ hiểu. Vừa rồi La Lập Phàm hỏi mọi người đêm qua có nghe thấy hay nhìn thấy gì không, suýt nữa tôi nói ra; nhưng vì lo lại thêm rắc rối nên lúc này tôi mới nói.” Giản Tự Viễn ngừng một lát, nghĩ ngợi, để nói cho có đầu có đuôi thì phải. Khi anh ta nói ra, thì đúng là tôi phải nghi ngờ cái thế giới này.
“Nửa đêm qua, tôi nhìn thấy cô…” Anh ta nói chậm rãi, từng chữ từng chữ, hình như sợ tôi nghe nhầm.
“Đâu có chuyện đó? Tôi đang ngủ…”
“Nhìn thấy cô ở đây… đang trèo lên gác này. Lúc đó khoảng hơn giờ sáng." Nói xong, anh ta thở ra một hơi thật dài.
Tôi thấy hình như mình tắc thở, cả thế giới này dừng lại, đầu óc tê dại của tôi đang khốn khổ tìm kiếm một chút sinh lực.
“Anh nói bừa hết mức rồi! Ai cũng biết tôi đã ngủ liền một ngày một đêm!” Tôi phản bác. Tôi biết sơ sơ về Giản Tự Viễn, nói nhăng nói cuội là sở trường của anh ta.
“Tôi biết cô ngủ một ngày một đêm, lúc gần bữa cơm tối, tôi còn gọi cô dậy để bàn cách chia thực phẩm, nhưng cô vẫn ngủ. Cô được nhẹ mình, còn chúng tôi thì phải vất vả một phen.” Anh ta hừ hừ mấy tiếng, hình như lấy làm tiếc vì ăn không đủ no.
Cảm ơn anh ta đã nhắc, lúc này tôi mới nhận ra mình đang đói cồn cào. Suốt tiếng đồng hồ không chút gì vào bụng, chả trách đầu tôi cứ ong ong, ý nghĩ trì trệ, chân tay rã rời. Tôi hỏi: “Anh nói thế là sao? Lẽ nào tôi bị mộng du? Sao tôi chẳng nhớ tý gì cả?”
Có thật thế không? Tại sao tôi lại có cảm giác đứng trên cao nhìn xuống? Tại sao “trong mơ” tôi lại nhìn thấy Thành Lộ lững thững ở cửa ngôi nhà gỗ? Vậy thì tất cả dường như không phải ngẫu nhiên, có lẽ cảnh trong mơ không có gì là ly kỳ khó hiểu.
Giản Tự Viễn tỏ ra biết nhẫn nại: “Không phải cô mộng du, mà là tôi mộng du. Cô quên rằng tôi có sở thích mất ngủ à?”
Đêm đầu tiên vào ở ngôi nhà gỗ, cũng tức là sau khi tôi và Thành Lộ “tâm sự”, tôi đã nhìn thấy mấy tấm ảnh Thành Lộ gặp gỡ “người bạn nam giới”, tôi trở về phòng mình lặng lẽ “hưởng thụ” cảm giác chơi vơi và nhức đầu.
Nhắm mắt lại, mấy tấm ảnh ấy vẫn lượn lờ trước mắt tôi giống như một đoạn phim hoạt hình chất lượng kém.
Cốc Y Dương, anh khiến tôi quá thất vọng.
Người chị họ mà tôi rất mến thương, Thành Lộ, cũng khiến tôi quá thất vọng.
Có thể giải thích được không? Tại sao lại thế?
Cả Tần Hoài nữa. Lịch sử sai lầm đang tái diễn êm ả. Vẫn có câu: cục diện thiên hạ, tan rồi phải hợp, hợp rồi phải tan.
Lịch sử sai lầm là như thế đấy.
Tôi mất ngủ.
Tôi nằm trên giường giở mình không biết bao nhiêu lần, khí lò sưởi nghi ngút trong nhà khiến người tôi nóng hầm hập, đã thế thì khỏi cần ngủ nữa. Xin đầu hàng. Tôi ngây nhìn những ngôi sao gần như có thể thò tay với được ở ngoài cửa sổ, khí nóng tra tấn tôi không chịu nổi nữa, tôi bèn khóa lò sưởi lại. Trà trong cốc giữ nhiệt vẫn còn ấm, tôi ực mấy ngụm, gần hết; tôi bước ra khỏi phòng, định vào bếp lấy ít nước sôi.
Đi trong bóng tối, tôi thấy sảng khoái nhẹ nhõm hơn nhiều, cũng bớt nhức đầu, chắc là vì bên ngoài không ngột ngạt như địa ngục. Tôi lâng lâng đi vào phòng khách.
Căn bếp không cửa, liền kề với phòng khách. Vừa bước đi mấy bước bỗng nghe thấy những tiếng động rất khẽ, hình như từ trong bếp vọng ra.
Mắt tôi đã thích nghi với bóng tối nên có thể nhận rõ đi-văng, ghế bành ở gần, nhưng không thể nhìn xa hơn. Chỉ lờ mờ nhìn thấy một bóng đen trên bàn bếp đun.
Có lẽ đó là xoong nồi hoặc ấm đun nước.
“Có ai ở đây không?” Tôi khẽ hỏi, và sờ trên tường lần tìm công-tắc đèn.
Bóng đen ấy biến mất, như tan vào bóng tối.
Gần như đồng thời, có cái gì đó chạm nhẹ vào mắt cá chân tôi. Hình như có một người vô hình vừa lướt đi bên tôi.
“Ai?” Tôi quay ngoắt lại.
Không rõ có phải tôi bị ảo giác không: hình như trong bóng tối có một cặp mắt xanh lục đang nhìn tôi rất nhanh, rồi biến mất.
Tôi sải bước đuổi theo, thì đâm sầm vào một người.
“Ôi!” Tôi kinh hãi kêu lên.
“Suỵt… đừng kêu. Tôi đây mà.” Một giọng nam, cố nói thật khẽ. Tôi căng tai phân biệt và nhận ra đó là Giản Tự Viễn mới gặp hôm nay.
“Có nhìn thấy không?” Tôi hỏi.
“Nhìn thấy gì?” Rõ ràng anh ta không biết tôi đang nói gì.
“Vừa nãy có… một người… hoặc một cái gì đó… trong bếp, sau đó chạy ra phòng khách rồi mất hút.”
“Mắt cô tinh thật, tối thế này mà cũng nhìn ra được?” Giản Tự Viễn không nhìn thấy gì, và cũng không tin.
“Anh đang làm gì trong bóng tối này?” Tôi không định thuyết phục anh ta nữa.
“Tôi cũng có thể hỏi cô câu ấy được không?” Lần đầu tiên tôi biết mùi hôi miệng “khó quên” của Giản Tự Viễn là thế nào.
Tôi nói: “Tôi không ngủ được, bèn ra ngoài cho thoáng, tiện thể lấy thêm ít nước sôi.”
“Đêm khuya còn uống trà? Cô định thức trắng đến sáng à?” Anh ta “chậc chậc” tặc lưỡi.
“Anh thì sao? Tôi nghĩ, anh là người hay né tránh trả lời, chắc anh đang giấu giếm điều gì đó?” Có lẽ tôi không bằng lòng với anh ta, bắt đầu có ấn tượng không tốt về anh ta nên tôi mới công kích như thế.
Giản Tự Viễn cười chiếu lệ, nói: “Nghe nói cô là nghiên cứu sinh Tâm lý học, nên nói năng cũng khác thật!”
Tôi nghĩ anh nói năng mới khác chứ! “Quá khen rồi! Sư phụ tâm lý học thứ thiệt sẽ không nói năng bỗ bã, không nói vỗ mặt như tôi để không được nghe câu trả lời đâu!”
Giản Tự Viễn lại cười chiếu lệ: “Đâu có khó đoán đến thế? Tôi cũng mất ngủ như cô! Nếu ở Bắc Kinh thì lúc này tôi vẫn đang chơi đêm ở khu danh thắng Hậu Hải. Tôi có tiền sử mất ngủ kinh niên, thường xuyên phải uống thuốc an thần. Đêm nay tôi ở đây để làm một việc rất lý thú, cô xem!” Anh ta bỗng bật công-tắc gì đó, một chớp sáng lóe lên, tôi nhận ra mình đang đối diện với một chấm đèn sáng nhỏ xíu ở chỗ xa xa, “Nào, cười lên!”
“Máy ảnh? Anh ta đang làm trò gì thế?”
“Đúng! Máy ảnh có hệ thống hồng ngoại, liên lạc vô tuyến với máy tính và ổ cứng di động của tôi; có thể tức khắc đưa ngay lên mạng chuyến du ngoạn ban đêm vui vẻ của chúng ta…” Anh ta rất hể hả đắc ý.
Tôi đưa tay lên che ống kính, nói: “Anh đã được sự đồng ý của tôi chưa? Ai cho phép anh?!”
Giản Tự Viễn ngạc nhiên: “Ơ kìa, tự làm cho vui, sao phải được ai cho phép? Cô cứ hỏi Cốc Y Dương xem, tôi đã chụp cho anh ta rất nhiều ảnh sống động, đâu có cần ai cho phép?”
Hai tháng trước, vào bữa trưa ở nhà ăn Cục năng lượng, một nam trung niên mặt bèn bẹt, đeo kính không gọng, bước đến bên bàn Cốc Y Dương chìa ra mấy tấm ảnh. Cốc Y Dương ngẩn người, nhận ra đó là ảnh chụp các tư thế “hiên ngang” của anh trong trận đấu bóng rổ do Đoàn thanh niên của Cục tổ chức; anh cười: “Tôi nhớ ra rồi, hình như anh là người phụ trách chụp ảnh? Ảnh chụp rất chuyên nghiệp!”
Người ấy tự giới thiệu là Giản Tự Viễn, làm ở Phòng chính sách thông tin Cục năng lượng. “Không nói khoác đâu, tôi không nỡ bỏ việc công chức cơ quan, nếu không, tôi ra ngoài mở ảnh viện thì chắc chắn cũng kiếm khối tiền. Khi nào cưới vợ cậu cứ bảo tôi chụp ảnh dã ngoại cho!”
Lúc đó sắc mặt Cốc Y Dương hơi xị xuống, nói: “Tôi mới tốt nghiệp đại học, đến khi tôi cưới vợ, chắc anh đã râu tóc bạc phơ rồi!”
“Cậu rất đẹp trai, chắc đã có bạn gái rồi chứ?” Ấn tượng đầu tiên của Cốc Y Dương về Giản Tự Viễn không hay lắm, có cảm giác anh ta như một phóng viên ngành giải trí.
Cốc Y Dương nói sang chuyện khác, nói mình là “Ta ba-lô”, khi nào tổ chức đi du lịch nhất định sẽ mời Giản Tự Viễn đi giúp sức. Giản Tự Viễn cho Cốc Y Dương số máy di động, chào hỏi mấy câu. Chuyến đi trượt tuyết ở Diên Phong lần này, Cốc Y Dương đã đặt thuê ngôi nhà gỗ nhưng không mời Giản Tự Viễn tham gia. Lúc sắp đi, cả hai chạm trán nhau ở nhà ăn, Giản Tự Viễn hỏi Cốc Y Dương mùa xuân này có chương trình gì, về quê hay ở lại Bắc Kinh… Cốc Y Dương trả lời qua loa rằng sẽ cùng mấy người bạn đi trượt tuyết ở gần quê mình. Giản Tự Viễn sáng mắt lên: “Nghe nói núi Trường Bạch về mùa đông cảnh sắc tuyệt vời. Tôi chụp cảnh tuyết ở Bắc Kinh đã phát chán, phải đi núi tuyết thật sự mới đã, hãy cho tôi làm thợ ảnh phục vụ các bạn, được không?”
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Chương 17: Điềm gở ở ngôi nhà đen
Đúng thế, An Hiểu là mối tình đầu của anh. Hai người là đôi kim đồng ngọc nữ hiếm thấy của trường cấp III huyện, họ cùng là những học sinh xuất sắc nhất, có chung mục tiêu là thi vào đại học Giang Kinh danh tiếng ở xa cả ngàn cây số. Họ cùng theo đuổi một kết quả mỹ mãn.
Rồi một đêm đông, An Hiểu phát hiện ra cô bạn Thạch Vi treo cổ.
Thạch Vi là bạn học rất thân của An Hiểu, họ cùng quê thị trấn Ngân Dư, hai gia đình ở sát vách nhau, về sau lại cùng học nội trú ở trường cấp II huyện, ở cùng ký túc xá, luôn cởi mở không giấu nhau chuyện gì. Khi học lớp 12, An Hiểu cảm thấy Thạch Vi hơi khác lạ, cô chỉ nghĩ chắc là do áp lực của đợt thi đại học sắp tới, cô vài lần nói chuyện kỹ với bạn nhưng không có kết quả. Rồi một ngày trong dịp đêm đông, Thạch Vi mất tích.
Cha mẹ Thạch Vi hoảng hốt, An Hiểu cũng rất lo lắng, cô đi tìm khắp vùng xung quanh, hỏi các thầy các bạn, rồi cô nghĩ đến ngôi nhà gỗ xám đen trên núi.
Dịp nghỉ hè sau khi thi hết cấp III, An Hiểu và Thạch Vi phát hiện ra ngôi nhà này. Đó là kỳ nghỉ hè nhàn rỗi vô tư chưa từng có, hai cô gái vào rừng “thám hiểm” một phen. Lúc sắp đi lại thấy sợ, nên An Hiểu bèn rủ Cốc Y Dương là bạn học từ hồi cấp II trên huyện cùng đi. Khi học lớp 6, Cốc Y Dương còn có biệt hiệu là “Ngố đen”, nhưng lên lớp 8 thì đã có vô số nữ sinh thầm mơ tưởng đến cậu, hoặc coi cậu là chuẩn mực của người chồng tương lai. Nhà Cốc Y Dương ở huyện lỵ khá xa, nhưng lời mời của hai người đẹp An Hiểu, Thạch Vi đã cuốn hút Cốc Y Dương đến thị trấn Ngân Dư đúng hẹn, để hộ giá hai nàng lên đường thám hiểm.
Chính trong chuyến đi này họ đã phát hiện ra ngôi nhà gỗ đen mà truyền thuyết nói đến.
Bên trong ngôi nhà treo tấm chăn chiên đen, đầy bụi bặm và gỗ mục, lỏng chỏng vài cái ghế gỗ, ngoài ra không có gì khác. Vật duy nhất khiến ba thanh niên tưởng tượng ra đủ thứ chuyện, là một chiếc đai da buộc thõng ở xà ngang.
Đai da ấy có vẻ cũ kĩ lâu năm, được thắt thành cái thòng lọng buộc trên xà ngang, mẩu đuôi thô nháp lởm chởm, hình như bị mài đứt hoặc bị vật nặng kéo đứt. Cả ba bắt đầu bàn tán tranh luận hồi lâu, sao lại buộc đai da ấy lên xà ngang, nó có tác dụng gì?
Thạch Vi nói chắc nịch đã có người treo cổ ở đây. An Hiểu nói hình như chưa từng thấy ai ở thị trấn nói rằng trên này đã từng có người treo cổ; nhất là bà Phan chủ tiệm tạp hóa “Ngân Hâm”, người biết đủ thứ chuyện lớn nhỏ khắp vùng này, biết nhiều hơn cả mạng Baidu[2], ngay bà ấy còn không nhắc đến chứng tỏ chưa từng có chuyện treo cổ gì hết. Thạch Vi nói: “Nếu là chuyện cách đây trăm năm, bà Phan còn chưa oe oe trào đời thì biết sao được? Huống chi, ngôi nhà trong rừng sâu này là chỗ các thợ đốn gỗ, thợ săn nghỉ chân, họ nay đây mai đó, phần lớn là người nơi khác về đây kiếm ăn, nội bộ có oán thù gì đó, thì bà Phan bán tạp hóa ở thị trấn sao biết được?”
[2] Baidu: mạng tìm kiếm của Trung Quốc, tựa như mạng Google.
An Hiểu nói: “Thế thì đúng rồi, đai da này dùng để giết người. Đàn bà thường hay treo cổ, thợ đốn gỗ đều là nam giới khỏe mạnh, cậu nghĩ xem, đời nào họ lại bi quan để rồi tự treo cổ? Chắc là do cãi cọ đánh nhau hoặc chia chác không đều gì đó… họ tranh chấp, hậu quả là có người bị treo cổ.”
Cốc Y Dương nhân đó ngẫm nghĩ, bổ sung: “Chia chác không đều, không phải là vấn đề của các thợ đốn gỗ mà có thể là của các hưởng mã[3]! Bọn hưởng mã cát cứ ở ngôi nhà đen này, dùng đai da treo cổ đối thủ, có thể là do chia chác không đều; hoặc thậm chí chúng bắt cóc con tin rồi giết hại!”
[3] Hưởng mã: bọn cướp đường; ngựa của chúng thường đeo chuông kêu leng keng, hoặc chung bắn tên đeo nhạc trước khi chặn đường cướp của.
Cuối cùng anh chỉ tay vào đám tro than còn sót trên nền nhà, nói: “Nhưng khả năng lớn nhất là đai da dùng để treo xác động vật sắn bắn được, như hươu nai, kể cả chó sói. Nghe nói các thợ săn thực thụ dám ăn đủ thứ, họ đốt lửa bên dưới, treo con vật bên trên, nướng ăn.”
Kể từ hôm đó, ngôi nhà đen trở thành bí mật riêng của ba người.
Sau khi Thạch Vi mất tích, An Hiểu nghĩ đến ngôi nhà đen, cũng là vì câu nói kia của Thạch Vi. Vì có một thời gian Thạch Vi hay đi mất hút rất lạ lùng, buổi tối không lên lớp ôn tập nữa, tâm trạng cũng buồn vui thất thường, lúc thì cười tươi như hoa, lúc thì ủ ê sụt sịt. An Hiểu quan tâm hỏi han thì Thạch Vi nói: “Đừng lo! Thi đại học có gì là ghê gớm? Dù thi trượt cũng chẳng sao, cùng lắm là tớ sẽ treo cổ ở ngôi nhà đen!”
Nhớ đến ngôi nhà đen và câu nói đó của bạn, An Hiểu đánh liều một mình đi vào rừng, vội quá không kịp gọi Cốc Y Dương.
Và cô đã phát hiện ra Thạch Vi treo cổ ở thanh xà ngang trong ngôi nhà đen ấy.
Thắt lưng da của Thạch Vi thít vào cổ. Còn chiếc đai da cũ kỹ kia thì vẫn treo trên thanh xà đó.
Không để lại thư tuyệt mệnh, không có dấu hiệu nào báo trước, không ai biết tại sao Thạch Vi tự vẫn.
Hay là không phải Thạch Vi tự vẫn?
Sau hôm đó cuộc sống của An Hiểu cũng khác đi. Suốt một thời gian dài, cô thu mình lại; cô gái vốn vui vẻ vô tư, nay lại cứ như người mất hồn. Cô học trò lẽ ra chắc chắn sẽ vươn lên tuyến trên thì lại thi trượt đại học, đành ngồi nhà ôn bài chờ thi năm sau. Cốc Y Dương tuy cũng xúc động mạnh trước vụ việc Thạch Vi nhưng anh vẫn trấn tĩnh để phát huy khả năng và thi đỗ đại học Giang Kinh. Kể từ đó đôi tình nhân cách trở đôi nơi, chỉ gặp nhau qua mạng chat.
An Hiểu đã lấy lại phong độ cũ, lên lớp ngồi ôn tập bài vở, cô vẫn là học sinh giỏi hàng đầu, và mong chờ ngày đoàn tụ với Cốc Y Dương ở đại học Giang Kinh. Nhưng khi bước vào kì nghỉ đông, gần tròn một năm ngày Thạch Vi tự vẫn, thì hồn vía An Hiểu cứ như đã bay đi tận nơi nào.
Khi chat với Cốc Y Dương, cô nói: “Gần đây em gặp bà Phan bán tạp hóa ở thị trấn, bà ấy kể về một điều lưu truyền đã lâu trong dân chúng địa phương rằng, nếu có người bị chết oan, thì ta có thể tìm thấy oan hồn người ấy ở nơi bị chết, điều kiện là phải đến đó vào đúng ngày giỗ.”
Cốc Y Dương cảm thấy căng thẳng: “Chắc em không định…”
An Hiểu: “Em chưa bao giờ cho rằng Thạch Vi tự sát. Hồi còn sống, bạn ấy còn một số chuyện chưa nói với em…”
Cốc Y Dương cảm thấy An Hiểu rất kì quặc: “Thạch Vi khi còn sống chưa nói, nay đã chết rồi, cô ấy sẽ nói cho em biết hay sao? Sao em có thể tin cái chuyện mê tín như thế? Sao lại tin những câu bà Phan nói phứa?”
An Hiểu: “Ít ra em cũng nên thử xem sao.”
Trên mạng chat, Cốc Y Dương không thể can ngăn An Hiểu, anh vội trở về quê gặp để can ngăn người yêu. Đúng buổi tối “ngày giỗ” của Thạch Vi thì anh về đến huyện lỵ, rồi đi tiếp về thị trấn Ngân Dư. Nhưng khi anh đến nhà An Hiểu thì cô đã đi vào núi.
An Hiểu gần như lặp lại số phận của Thạch Vi.
Cốc Y Dương dồn hết sức lực để đi đoạn đường núi. Năm đó tuyết rơi ít, cũng hay có người ra vào núi, nhưng ban đêm rất khó đi, anh lại đi rất vội, suýt bị ngã xuống vực. Khi anh gần như hết hơi kiệt sức chạy đến ngôi nhà đen, thì phát hiện ra An Hiểu đã treo cổ trên xà ngang.
Dường như tham gia một vở kịch luân hồi thảm khốc, Cốc Y Dương đau đớn muốn chết nhưng anh cố trấn tĩnh, đỡ An Hiểu xuống. Anh có chút hiểu biết về sơ cứu, bèn lập tức làm hô hấp nhân tạo, ấn ngực, hà hơi thổi ngạt, đã cứu vãn được sinh mệnh cô.
Không lâu sau đó cha mẹ An Hiểu cũng đến nơi, cùng đưa cô đi viện cấp cứu. May mà Cốc Y Dương đã đến kịp thời, An Hiểu treo cổ cũng chưa lâu, nên cô được cứu sống.
Nhưng đáng buồn là sinh mệnh cô chỉ được cứu vãn một phần.
Vì lúc treo cổ thì máu không lên để nuôi não bộ, nên An Hiểu trở thành người thực vật. Cha mẹ đưa cô đi khắp các bệnh viện Thẩm Dương, Bắc Kinh chạy chữa nhưng các thấy thuốc đều bó tay.
Cô chỉ có thể nằm nhà trong im lặng, cách biệt với thế giới bên ngoài.
Còn Cốc Y Dương, anh chỉ có thể về thăm cô đang ngày một héo hon vào mỗi kì nghỉ phép.
Về sau, cha mẹ An Hiểu thậm chí không muốn Cốc Y Dương đến thăm nữa. Mỗi lần anh đến là một lần khiến hai vị đã bất lực chăm sóc con gái lại bị sốc nặng nề.
Cốc Y Dương cũng hiểu rằng, anh đã gắng hết sức, nay đành cố bước ra khỏi bóng đen nặng nề này.
Tất cả đã giải thích rõ một nỗi khúc mắc trong tôi: tại sao Cốc Y Dương, chàng trai rất phong độ của đại học Giang Kinh, lại không có bạn gái. Cho đến năm thứ tư, mới có Na Lan tôi là “bạn gái đầu tiên”.
Anh gắn bó nồng nàn với tôi chưa đầy một năm, sau khi anh đến Bắc Kinh nhận công tác không lâu, thì một tin rất đặc biệt đã kéo anh trở lại quê nhà.
An Hiểu phục hồi tri giác!
Do trời không nỡ bắt ai phải tuyệt đường, hay là do thể chất của thanh niên vốn tràn trề nhựa sống? Vào một ngày hè đẹp rực rỡ, bà mẹ An Hiểu chợt nhìn thấy đôi mắt vô hồn của cô con gái hơn 4 năm qua làm người thực vật, nay bỗng chớp chớp động đậy.
Một ngày cuối tuần Cốc Y Dương trở về bên giường An Hiểu, anh nhận ra niềm vui tái ngộ và nét lưu luyến chưa hề tiêu tan trong ánh mắt người yêu.
“Cũng vì ánh mắt của cô ấy khi nhìn thấy anh, nên anh phải đối mặt với một câu hỏi cực hóc búa.” Cốc Y Dương đứng dậy, bước đến bên tường, giống như người úp mặt vào tường sám hối.
Tôi hiểu phần tiếp theo là gì: anh chật vật suy nghĩ để đi đến quyết định: sẽ dồn hết tình cảm cho An Hiểu, để cô chóng bình phục.
Đáng ngợi ca, và cũng đáng buồn.
“Nhưng ít ra anh cũng nên cho em biết.” Tôi nói.
“Anh có thể nói gì? Anh không biết nên nói với em thế nào. Anh chỉ nghĩ, phải chờ… chờ anh nghĩ ra rồi anh sẽ cho em biết. Đúng là việc này anh đã xử lí không tốt. Anh từng gặp riêng Thành Lộ hỏi xem nên thế nào, cô ấy cũng thấy bí.” Cốc Y Dương thở dài. “Thế rồi anh bèn nghĩ rằng, phải lạnh nhạt và cắt đứt với em, em hận anh thì anh cũng đành vậy.”
Tôi xúc động nói: “Vậy ra anh và Thành Lộ nhiều lần gặp nhau là vì chuyện này?”
Cốc Y Dương cười buồn: “Nếu anh nói đúng là vì chuyện này, liệu em có tin không?”
“Không!”
“Đúng là anh đã gặp Thành Lộ nhiều lần, vì một nguyên nhân rất đáng buồn: kể từ mùa hè năm ngoái, Thành Lộ cảm thấy La Lập Phàm có chuyện ngoại tình. Cô ấy định theo dõi anh ta… em biết rồi: cô ấy là con người đơn giản, có thể nói là không thể khá lên được, bám theo vài bước thì hoặc là để lạc mất mục tiêu hoặc là mình bị phát hiện. Cho nên cô ấy tìm anh, nhờ anh theo dõi La Lập Phàm xem xem có đúng thế không. Anh rất ghét làm cái việc ấy, nhưng Thành Lộ là chị họ của em, anh rất thông cảm với cô ấy nên anh nhận lời. Các lần gặp nhau, là để anh “báo cáo công việc” với Thành Lộ. Tại sao em lại biết chuyện đó?”
Tôi ngẫm nghĩ từng câu anh nói, rồi lại tự hỏi mình. Tôi cảm thấy gần như đã khôi phục niềm tin đối với anh. Tôi nói: “Em đoán rằng, hai thám tử non nớt đã bị đối phương theo dõi lại rồi!”
Cốc Y Dương mím môi, im lặng. Tôi nhẹ nhàng an ủi: “Hai người, tính cách thuộc loại cởi mở phóng khoáng, đấu trí với La Lập Phàm, sẽ thua ngay từ hiệp đầu.”
“Nhưng em thấy không, gần đây Thành Lộ vẫn rất cởi mở phóng khoáng! Nhất là buổi tối đầu tiên đến đây, cô ấy uống rượu say mềm khiến ai cũng xót xa, không rõ La Lập Phàm đã dùng cách gì để tra tấn tinh thần cô ấy?” Cốc Y Dương nói.
Anh đã đụng đến nỗi đau âm thầm trong lòng tôi.
“Chắc anh nghi ngờ việc Thành Lộ mất tích có liên quan đến La Lập Phàm?” Tôi hỏi thẳng luôn.
“Không nghi ngờ anh ta thì còn nghi ai? Nghe nói em đã từng làm việc với cảnh sát hình sự, chắc em phải biết: khi vợ xảy ra chuyện, kẻ đầu tiên bị nghi ngờ là người chồng. Anh không hiểu nổi, nếu đúng là La Lập Phàm làm thì anh ta khiến Thành Lộ biến mất bằng cách nào.” Tay Cốc Y Dương nắm thành nắm đấm rõ chặt, thế mà trước mặt La Lập Phàm anh vẫn tỏ ra bình thản được!
Tôi chỉ ra ngoài cửa sổ: “Cũng chẳng khó gì, anh xem, tuyết dày thế kia, có thể vùi vô số thứ. Các anh đã lấy xẻng thăm dò, nhưng nếu bị vùi ở chỗ xa hơn thì sao?”
Có phải tôi đang giả thiết rằng Thành Lộ bị hại? Có lẽ tại tôi cứ nhức đầu dai dẳng, hay tại ăn uống thiếu chất, không đủ dướng khí cung cấp cho não bộ? Tôi bỗng thấy mình không thể suy nghĩ, không thể gạn lọc suy luận gì được nữa.
Tôi lại hỏi: “Vậy anh nói thẳng xem, việc tổ chức đi trượt tuyết lần này có liên quan gì đến cái chết của An Hiểu không?”
Cốc Y Dương ngạc nhiên: “Sao lại nói thế?” Anh luôn là người có thể “đọc được” ý nghĩ của người khác.
“Hôm đó em đã đi theo anh đến nghĩa trang.”
Vẻ mặt anh thoáng bực dọc: “Sao em lại…”
“Lê Vận Chi đến bãi trượt tuyết tìm anh, ai cũng nhìn thấy cả, em cũng biết anh và Thành Lộ có vấn đề, em muốn tìm hiểu rõ đó là gì, nên mới đi theo anh. Sau đó thấy Lê Vận Chi cũng đi theo anh đến nghĩa trang, cô ấy cho em biết ngôi mộ đó là của An Hiểu, nhưng cô ấy không nói rõ đầu đuôi, cuối cùng An Hiểu ra đi như thế nào.” Tôi đáp.
Cốc Y Dương lắc đầu, mắt rơm rớm: “Sau khi bệnh tình An Hiểu chuyển biến rõ rệt, cô ấy được cha mẹ đưa đi Thẩm Dương, vào viện số 2 Đại học Y điều trị. Nửa tháng sau đã khá lên, tuy vẫn chưa nói chưa đi lại được nhưng cổ và tứ chi đã hơi nhúc nhắc được. Thấy anh, cô ấy khẽ mỉm cười… và anh nhận ra rằng…” Anh ngẩng đầu, hình như sợ nước mắt sẽ rơi xuống. “Cha mẹ cô ấy đưa con về nhà và cho cô ấy tập luyện phục hồi chức năng, tiến triển chậm nhưng tình hình vẫn sáng sủa, có thể ngồi dậy tựa vào đầu giường, đưa tay lấy quần áo; cũng biết cố gắng tập nói. Bác sĩ cho biết sớm muộn gì cô ấy cũng sẽ đi lại và nói được.”
Tôi không biết mình có đủ can đảm nghe tiếp không, mắt tôi rơm rớm, tôi chờ đoạn kết của bi kịch.
“Nào ngờ, một hôm, cha cô ấy đi làm, bà mẹ đi chợ mua thức ăn khoảng nửa giờ, thì cô ấy đã làm một việc không ai hiểu nổi. Cô ấy mở ngăn kéo đầu giường lấy ra cái kéo rồi rạch cổ tay. Khi cha mẹ phát hiện ra thì cô ấy đã mất máu quá nhiều, cấp cứu tiếp máu cũng không kịp nữa…”
Sự việc ấy mới xảy ra cách đây gần hai tháng, ký ức đau khổ vẫn gần như mới đối với Cốc Y Dương; điều tôi có thể làm là giúp anh lau nước mắt.
Chờ khi không khí bi thương trong phòng đã dịu bớt, tôi mới nói: “Vậy thì em hoàn toàn có thể hiểu được: anh ngờ rằng An Hiểu không tự sát, vì tình trạng cô ấy đang khá lên.”
“Nhưng xét về tâm lý người bệnh thì lại không phải thế. Cô ấy dường như sống lại sau khi chết não, dần dần nhận ra tình trạng của mình, tuy có chút tiến triển nhưng vẫn là bế tắc, cảm giác đó rất nặng nề. Sức chịu đựng của con người có hạn, một người bệnh suốt năm gắn liền với cái giường, tự biết mình còn rất trẻ mà phải nhờ cha mẹ hầu hạ ăn uống, tắm gội, thu dọn đủ thứ, tất nhiên sẽ mặc cảm trầm uất. Ai dám bảo đảm vài năm sau hay vài chục năm sau sẽ trở lại cuộc sống bình thường? Tuổi xuân thì sao, ai sẽ trả lại cho cô ấy? Nếu cô ấy nhận ra mình có thể bị tàn phế, thì liệu cô ấy có được hưởng tình yêu vĩnh viễn của đối phương không? Cô ấy trở thành người thực vật năm 18 tuổi, tâm trạng của cô ây giờ đây là gì, không ai biết; nhưng cô ấy u uất vì cảnh ngộ của mình hiện giờ. Rất có thể là như vậy.”
Cốc Y Dương nói: “Ý em là… rất có khả năng cô ấy tự sát?”
Tôi chầm chậm lắc đầu: “Còn tùy xem anh có thể cho em biết những gì. Ví dụ, tại sao anh đến khu trượt tuyết này để “nghỉ dưỡng”?”
Cốc Y Dương hơi lưỡng lự. Tôi hiểu rằng anh còn có nhiều uẩn khúc.
Tôi chờ đợi. Tôi bước lại gần anh, ôn tồn nói: “Thế này vậy, anh nói xem, tại sao anh lại tổ chức chuyến đi này, và lại chỉ định em tham gia nữa?”
Lần này thì anh không lưỡng lự: “Vì anh vẫn yêu em… nhiều lúc anh rất cắn rứt, kể cả những khi ở bên giường An Hiểu chăm sóc cô ấy, hình ảnh em vẫn hiện lên trong tâm trí anh.”
Tôi đang định nói: lẽ nào anh vẫn chưa tin em? Anh còn điều gì chưa thể cho em biết?
Nhưng cửa bỗng mở toang.
Lê Vận Chi xộc vào.
“Hai người đã nói xong chưa?” Rất không giống Lê Vận Chi mọi lần, vì đôi mắt cô bỗng thẫn thờ, giọng nói thì lạc hẳn đi.
“Sắp rồi.” Tôi cảm thấy không ổn. “Chúng tôi cần thêm vài…” Câu cuối cùng tôi định hỏi là về cô ấy: Cốc Y Dương, anh quen Lê Vận Chi như thế nào?
“Không thấy anh ấy đâu, anh ấy cũng mất tích rồi!”
“Ai?” Tôi và Cốc Y Dương cùng hỏi.
“La Lập Phàm!” Lê Vận Chi đau đớn nói ra ba chữ này, cô bỗng đưa tay bưng mặt, khóc rưng rức.