Hôm nọ tôi và Giản Tự Viễn cùng xem vài đoạn video trên máy tính, do anh ta đặt camera ở phòng khách để quay, sóng vô tuyến sẽ truyền kết quả vào máy tính của mình. Video cho thấy khoảng hai giờ đêm tôi đã gọi điện cho ai đó, khi đối thoại tôi nhắc đến tên Lê Vận Chi và An Hiểu. Khi tôi đề nghị Giản Tự Viễn cho tôi xem lại thì anh ta một mực nói là không hề có video ấy. Cốc Y Dương nát óc với cái máy tính ấy rất lâu cũng không tìm ra bất cứ video nào bị xóa cả. GiảnTự Viễn và Mục Hân Nghi cùng xác nhận rằng trông thấy tôi mộng du, tức là chứng tỏ một điều: tôi thần kinh trục trặc cho nên lời của tôi không đáng tin.
Nhưng tại sao các video ấy biến mất mà không do bị xóa bỏ? Giải thích thế nào đây?
Tôi rất bí, không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Về sau tôi nghĩ kỹ, rồi có được một kết luận, một giả thiết hình như xa vời nhưng hoàn toàn có thể xảy ra: đó là Giản Tự Viễn có hai máy tính giống hệt nhau.
Còn nhớ sau khi xem video xong, tôi sang phòng Cốc Y Dương hỏi anh ba câu hỏi; thời gian đó đủ để Giản Tự Viễn giấu máy tính đi, lấy chiếc thứ hai “sạch sẽ” ra, và tất nhiên chúng tôi không thể tìm thấy video ấy. Chúng tôi trắng tay, ra khỏi phòng Giản Tự Viễn, lúc đó máy tính của anh ta vẫn nằm trên bàn; kể từ đó chúng tôi không ai hành động đơn độc, anh ta cũng không có cơ hội giấu nó dưới đệm nằm. Gã chủ nhân bọn linh miêu đột nhập ngôi nhà, đã cướp sạch các máy tính, kể cả máy của Giản Tự Viễn đang để trên bàn.
Giả thiết anh ta có hai máy tính không sai! Chắc chắn file video mà tôi vẫn băn khoăn phải nằm trong cái máy tính giấu dưới đệm này. Tôi không thiết đi tìm sự thật về con người của Lê Vận Chi nữa, hứng thú của tôi tập trung vào các video “Thật 1” và “Thật 2”. Nếu tôi đoán không nhầm, thì “Thật 1, Thật 2” rất có thể là “Châm 1, Châm 2” được đặt tên chệch đi. Nếu tôi đoán không nhầm thì con nghiện quay phim chụp ảnh Giản Tự Viễn đã hóa rồ, đem đặt camera siêu nhỏ trong phòng khách.
Để làm gì?
Có phải chỉ là sự đổ đốn mất nết của một gã độc thân?
Tôi vào phòng mình và Hân Nghi từng ở chung, tìm được cái ba-lô của tôi nhét chiếc máy tính vào, rồi đi ra tiền sảnh, đến bên cửa sổ nhìn ra xa.
Tuyết vẫn bay, gió vẫn rú rít, bầu trời xám xịt, lúc này là mấy giờ nhỉ? Tôi mở máy ảnh xem thời gian. 3:27 PM.
Chẳng mấy chốc trời sẽ tối.
Lòng tôi lại trĩu nặng.
Cũng may không thấy nột bóng người nào, mong sao tuyết sẽ xóa sạch mọi dấu chân của chúng tôi trên đường.
Tôi lần túi áo lấy ra tấm bản đồ và bức ký họa của Thạch Vi mà Cốc Y Dương đã đưa tôi, chăm chú nhìn ngôi nhà màu trắng ở góc bức tranh, rồi lại xem tấm ảnh ngôi nhà gỗ mà Giản Tự Viễn đã chụp. Tôi thầm ngậm ngùi. Thạch Vi quả là có năng khiếu nghệ thuật: các ngôi nhà gỗ trong tranh ở xa, nhỏ nhưng được vẽ chính xác như thật; ngôi nhà trắng hơi bị nghiêng, cô cũng thể hiện rất chuẩn.
Tôi có cảm giác hai ngôi nhà gỗ trong tranh có điểm gì đó không giống nhau.
Không giống ở đâu?
Có tiếng bước chân. Cốc Y Dương và Giản Tự Viễn bước lại. Giản Tự Viễn nói: “Sao Na Lan lơ đễnh thế, chớ bỏ lọt kẻ địch.”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, có ma nào đâu? Tôi nói: “Tôi để mắt liên tục. Nhưng nếu có kẻ địch đến, chúng sẽ không vào cửa chính, mà là vòng sau nhà hoặc bên cạnh. Tiếc rằng chúng ta chỉ có ba người, không thể quan sát hết các hướng.”
Giản Tự Viễn nói: “Có lý! Cho nên chúng ta phải đào hố bẫy xung quanh đây.” Anh ta mở gian nhà kho ở hành lang lấy ra cái xẻng hôm nọ chúng tôi từng dùng để đắp người tuyết.
Tôi cau mày: “Sắp tối đến nơi, các anh đừng nên lãng phí sức lực vào việc đào hố, chắc gì đã bẫy được ai?”
Giản Tự Viễn dương dương tự đắc: “Yên tâm đi, bọn tôi không đi đào hố đâu. Hãy xem, hiền đệ Y Dương đang phá phách cái gì đó.”
Tôi ngoảnh nhìn, Cốc Y Dương đang cầm con dao phay rạch cái đi-văng ở phòng khách. Tôi ngạc nhiên nói: “Các anh định phá hoại thật à?” Tôi định nói thêm: sẽ phải đền tiền đấy. Nhưng lại nghĩ, tính mạng chúng tôi là trên hết, chuyện vặt ấy có là gì!
Giản Tự Viễn giải thích: “Chúng tôi cần mấy cái lò xo, dỡ các mảnh tôn ốp ở bếp ga nữa, chế thành những cái bẫy kẹp mà thợ săn vẫn dùng, rồi bố trí trên tuyết. Rất có thể sẽ tóm được những đồ súc sinh cao to.”
Tôi hỏi: “Anh Tự Viễn quê ở đâu? Tôi có cảm giác anh vốn là dân miền rừng núi?”
Giản Tự Viễn cố tỏ ra khiêm tốn: “Đâu có! Chẳng qua trước kia sống khổ tương đối nhiều, chứ không được sung sướng như các cô cậu.”
Giản Tự Viễn và Cốc Y Dương dùng dây thép, lò xo, các vòng sắt chế thành bốn cái kẹp cỡ lớn, bố trí trước cửa ra vào và cửa sổ ngôi nhà, rồi chôn nông dưới tuyết. Kẻ xâm nhập giẫm vào thì không thể rút chân lên được nữa.
Hai người vừa làm xong thì trời tối. Chúng tôi cùng ăn một chút thực phẩm còn sót lại, rồi ngồi trong bóng tối, sẵn sàng nắm ngay lấy vũ khí để bên người: gậy trượt tuyết, dao phay, xẻng… để đối phó với kẻ chưa biết là ai.
Tôi nói: “Cứ ngồi thế này chán thật. Tiếc qua, máy tính bị mất hết, muốn chơi game cũng chịu.”
Anh ta nghĩ ngợi, hình như đã hiểu ra: “Thì ra là cô đã tìm thấy nó? Thế thì trả lại tôi đi!”
Tôi nói: “Có thể! Nhưng anh phải… tôi có quá nhiều điều định hỏi anh, nhưng chẳng biết nên bắt đầu hỏi từ đâu. Có phải ở các phòng anh đều đặt camera siêu nhỏ hay không?”
“Không!”
“Anh đặt ở hai phòng nào?” Tôi nghĩ đến “Thật 1 và Thật 2” tức là hai đầu camera “Châm 1, Châm 2”.
“Ở phòng cô với Hân Nghi, và phòng Lê Vận Chi.” Giản Tự Viễn thản nhiên, thậm chí tỏ ra đàng hoàng có lý.
“Tất nhiên là mỹ nhân!” Giản Tự Viễn bỗng thở dài. “Tôi biết cô rất muốn xem xem đêm hôm đó ở phòng Thành Lộ đã xảy ra chuyện gì, tôi nói thật, tôi không đặt camera ở phòng đó.”
“Cho nên anh cố cãi rằng không có video nào hết, anh sợ bị phanh phui là gã háu gái bệnh hoạn chứ gì?”
Giản Tự Viễn lại thở dài: “Đã không tin thì cô còn gặng hỏi tôi làm gì nữa?”
“Anh có muốn tôi nói rõ ra không?”
“Tôi nghe đây.”
Tôi cố nén giận, nói: “Trong thời gian tôi ngủ lịm đi, cái đêm hôm đó, khi anh thấy Mục Hân Nghi ra khỏi phòng chúng tôi, anh đã lén vào và hỏi tôi một lô câu hỏi, đúng không?”
“Sao cô lại…” Giản Tự Viễn đờ ra kinh ngạc.
“Sau khi vào nhà gỗ ở, tôi liền bị nhức đầu, anh đã bỏ thuốc độc đúng không? Thuốc giãn mạch máu dạng nặng! Và lượng lớn moóc-phin! Tôi nhớ ra rằng ngay hôm đầu tiên vào ở, tôi đã bị phản ứng lạ lùng: tối hôm đó rất hưng phấn, sau đó lại bắt đầu nhức đầu, chỉ sau khi uống trà thì mới đỡ nhức. Thế là tôi bị lệ thuộc vào trà, nếu không uống thì lại nhức dữ hơn. Sau đó tôi ngủ mê man thậm chí có ảo giác và mất trí nhớ. Anh đã trộn thuốc độc vào trà túi! Anh có ý đồ gì đây? Muốn đánh thuốc mê tôi, nhân đó khai thác những thông tin quan trọng!”
Giọng kim của Giản Tự Viễn ré lên, đúng là tôi đã đụng đến thần kinh anh ta: “Tôi đâu có kỹ thuật công nghệ pha chế trà túi như cô nói? Trà túi và cà phê hòa tan đều là của Khu nghỉ dưỡng. Tôi đoán có trộn lần thuốc gì đó. Tiếc rằng trong chúng ta chỉ có cô uống trà, Thành Lộ uống cà phê, rồi bị phản ứng khác nhau. Tôi chỉ nhân lúc cô mê sảng hỏi cô vài câu. Cô đừng nghĩ quá xa xôi.”
Tôi cười nhạt: “Tôi lúc đầu nghĩ thật đơn giản, rằng vào nhà này ở là ngẫu nhiên, chỉ là một đợt cùng nhau đi “nghỉ dưỡng”. Nào ngờ lại có kẻ vạch kế hoạch giết người, có kẻ có nhiệm vụ giám sát. Còn anh, có cần tôi nhắc lại không? Khi bớt nhức đầu, tôi đã nhớ ra mấy câu anh hỏi tôi lúc nửa đêm!”
“Đã biết cả rồi, hà tất phải nói toạc ra làm gì? Nhất là trong tình thế hiện nay.” Giọng anh ta ngao ngán.
Tôi nói: “Tôi vẫn cần biết sự thật, và tôi buộc phải biết rõ trong lúc sinh tử như hiện nay, tôi có thể tin tưởng anh hay không?”
“Cô đã biết sự thật rồi.”
“Tôi cần nghe chính mồm anh nói ra! Anh đến đây, kể cả những tiếp xúc với Cốc Y Dương trước kia nữa, có phải vì cái kho báu khốn kiếp ở hồ Chiêu Dương không?” Chắc Giản Tự Viễn nhận ra rằng, “giải độc” giấc ngủ li bì của tôi là cơ hội duy nhất để anh ta khai thác sự thật, cho nên nhân lúc phòng tôi chỉ còn mình tôi, anh ta đã vài lần lẻn vào hỏi tôi một câu hỏi “cô có biết kho báu Bá Nhan dưới đáy hồ đã đi đâu không?”
Cốc Y Dương từ nãy vẫn im lặng, lúc này anh gắt lên: “Anh không phải cán bộ của Cục năng lượng. Đúng không?”
Giản Tự Viễn nói: “Đúng là Giản Tự Viễn làm việc ở Cục năng lượng, nhưng tôi thì không. Lan muội đã khui ra như thế thì tôi đành chơi bài ngửa vậy. Tôi đây!”
Đèn pin bật lên. Anh ta giơ ra tấm thẻ công tác, trên đó dán ảnh Giản Tự Viễn mặc sắc phục công an, có hàng chữ “Thẻ cảnh sát nhân dân”, nhưng tên người lại ghi là Lý Thụ Quân.
Tôi lẩm bẩm: “Sỹ quan Lý”.
“Có nghe nói Phòng 3 của Cục trinh sát hình sự Bộ Công an không?” Giản Tự Viễn nói. “Là đơn vị tương đối đặc biệt, chuyên trinh sát khám phá các vụ án lớn trộm cắp buôn lậu cổ vật. Trưởng phòng Vương của chúng tôi…”
Tôi nói: “Tôi đã từng gặp.”
“Anh ấy nói, sau khi trao đổi với cô, không phát hiện ra tình tiết gì nhưng anh ấy cho rằng cô không chỉ tinh khôn đơn thuần, hình như cô vẫn che giấu điều gì đó… nhất là khi hỏi rằng có phải trước kia cô đã từng tham gia đi tìm kho báu? Cô…”
“Trưởng phòng Vương của các anh quá nhạy cảm hoặc anh ấy đọc hơi nhiều tiểu thuyết về đào trộm mộ cổ… Tôi chỉ là một sinh viên bình thường chứ không phải đạo trích giang hồ.”
Giản Tự Viễn: “Thế đấy! Cũng vì chúng tôi bí quá, không có đầu mối nào khả dĩ hơn, cho nên cô vẫn là một trong những trọng điểm để trinh sát phá án. Còn Y Dương, vì cậu ấy là người yêu cũ của cô nên cũng bị chúng tôi quan tâm. Cả hai người đều có nhiều điểm nghi vấn, ví dụ, tại sao cậu ta đi Bắc Kinh ít lâu thì hai người không quan hệ nữa? Người của chúng tôi phân tích rằng, liệu cậu ấy có phải người từ bên ngoài phối hợp với cô tối hôm đó không? Tức là, sau khi cô phát hiện ra kho báu và các tổ viên của cô cầm “kho báu giả” nổi lên mặt nước, thì Y Dương đối phó với những kẻ tấn công cô và các tổ viên; sau đó Y Dương lặn vào hang chuyển kho báu đi.”
Tôi đáp: “Tôi chỉ có thể nói rằng sức tưởng tượng của các anh thật phong phú. Anh có thể hỏi Y Dương. Anh ấy không biết bơi lội là gì, và hỏi xem buổi tối mà “tổ săn kho báu” chúng tôi hành động thì Y Dương đang ở đâu.”
Giản Tự Viễn nói: “Chúng tôi không biết cậu ta đang ở đâu, nhưng có thể khẳng định cậu ta không ở Bắc Kinh.”
Cốc Y Dương nói: “Tôi đang trên đường đi Thẩm Dương.”
“Nhưng không có ai làm chứng, đúng không?” Giản Tự Viễn nói. “Đúng là hôm sau có người nhìn thấy cậu ở Thẩm Dương, nhưng cậu có đủ thời gian để làm cái việc “khẩn” kia ở Giang Kinh để sáng sớm hôm sau cậu bay đi Thẩm Dương!”
“Vé máy bay là sự thật miễn bàn, các anh thừa sức để tra xem tôi có đi trên chuyến bay đến Thẩm Dương không.”
Giản Tự Viễn cười hì hì: “Tôi nói thế này vậy: tôi dùng chứng minh thư giả “Giản Tự Viễn” mua vé lên máy bay, bay rất ngon lành. Có biết làm giả chứng minh thư rất dễ không?”
Tôi nói: “Nhưng nói quá thế này thì ích gì? Tôi cho anh câu trả lời chuẩn luôn: tôi hoàn toàn không biết kho báu Bá Nhan đã đi đâu. Tôi nghĩ, camera siêu nhỏ của anh có thể chứng minh tôi trong sáng.” Rõ ràng là camera bí mật ấy là nhằm vào tôi. Giản Tự Viễn nghi tôi và Cốc Y Dương liên kết cuỗm đi kho báu dưới đáy hồ Chiêu Dương, nhưng vì chúng tôi đã chia tay, anh ta không có chứng cứ chúng tôi vẫn liên lạc với nhau; chuyến đi nghỉ dưỡng này chúng tôi tái ngộ lần đầu tiên kể từ sau vụ tìm ra kho báu Bá Nhan rồi lại bị mất. Nếu giả thiết của anh ta là đúng, thì chắc chắn tôi và Y Dương phải nói chuyện về đám báu vật ấy, cho nên anh ta bí mật lắp camera ở phòng tôi, hòng nghe lén nội dung chúng tôi bàn bạc.
Tôi bỗng giật mình, liệu ký túc xá của tôi có bị lắp thiết bị theo dõi như thế không?
Những gã khốn nạn xăm xoi bí mật đời tư của người ta!
Giản Tự Viễn nói: “Xem ra, cô vẫn cương quyết đến cùng! Thuốc tác động, kết quả cũng bằng không. Có lẽ chúng tôi nên tin cô thật!”
Cố nén ý nghĩ xông vào đập cho anh ta một trận, tôi lạnh lùng nói: “Anh đã nói thế, thì nhiều chuyện xảy ra đêm hôm đó đều có thể giải thích được: khi anh ra khỏi phòng tôi thì gặp Mục Hân Nghi từ ngoài đi vào, chắc hai người phải căn vặn nhau, rồi cùng nhất trí giữ kín “hành vi bất thường” của nhau; Hân Nghi hứa hợp tác với anh, sẽ nói là thấy tôi mộng du, nhằm chứng minh rằng tôi có vấn đề thần kinh…”
Giản Tự Viễn nói: “Nhưng rõ ràng là đêm hôm đó cô có dậy, rồi đi lên gian gác…”
“Nhưng anh không nhìn thấy. Đúng chưa?”
Giản Tự Viễn kinh ngạc nhìn tôi: “Tại… tại sao cô biết?”
“Tôi đã suy đoán xem mình “mộng du” vào khoảng thời gian nào. Nếu xảy ra trước khi Hân Nghi giết Thành Lộ, thì chắc chắn Hân Nghi phải nhìn thấy. Nhưng giả sử anh cũng nhìn thấy, Hân Nghi biết anh là “cú vọ tuần đêm”, thì cô ta sẽ không mạo hiểm mò vào phòng Thành Lộ để giết chị ấy.Vậy chứng tỏ anh không nhìn thấy tôi. Nếu tôi mộng du vào quãng thời gian Hân Nghi đem xác đi phi tang, thì cô ta đương nhiên không nhìn thấy tôi. Còn anh, khi cô ta đi rồi, anh mò vào phòng chúng tôi rồi hỏi tôi về kho báu kia; hỏi xong, tôi mới mộng du thì anh là người duy nhất biết cái bí mật này, không cần thiết phải chia sẻ với Hân Nghi. Tức là có thể khẳng định tôi không mộng du vào quãng thời gian đó. Vậy thì khả năng duy nhất chỉ có thể là mộng du vào lúc Hân Nghi chuyển xác đi, rồi trở về ngôi nhà gỗ. Không thể có chuyện trùng hợp: khi anh và cô ta chạm trán nhau thì tôi cũng mộng du. Cho nên tôi đoán rằng, tôi đã ra khỏi gường sau 12h đêm đến sáng, tôi ngủ li bì một ngày một đêm rồi dần tỉnh lại, nhớ ra chuyện Lập Phàm từng nói “có thể Thành Lộ sẽ làm chuyện quá đáng,” tôi bèn ra phòng khách xem sao, không thấy chị ấy; tôi đi tìm khắp, kể cả gian gác. Cuối cùng tôi kết luận Lập Phàm chỉ tạm thời giảng hòa với vợ nên lại ra ngủ phòng khách. Mọi hành động của tôi, Hân Nghi đều nhìn thấy; với cô ta, cái đêm ấy rất không bình thường, cô ta đương nhiên không thể ngủ nổi. Còn anh, chính anh từng nói rằng từ sau nửa đêm thì anh ngủ rất say. Cho nên tôi đoán rằng: sáng hôm sau Hân Nghi cho anh biết đêm qua tôi mộng du, cả hai cùng thống nhất để nói ra, thế là tôi chính thức “mộng du” thật! Khi anh nhận ra tôi bị mất trí nhớ - đúng là tôi có mất trí nhớ - tôi không thể nhớ ra La Lập Phàm hai đêm liền ngủ đi-văng phòng khách, thì mọi người càng thấy đúng là tôi mộng du thật.”
Cốc Y Dương hỏi: “Anh ta tại sao phải làm như thế?”
Tôi nói: “Vì anh ta biết, mọi tin từ người đang ở trạng thái ngủ mê man là hành động rất mạo hiểm. Tiềm thức con người rất to lớn, đôi khi có thể khơi dậy những ký ức từ trong vô thức. Nếu chứng minh được thần kinh em không bình thường, thì anh ta có thể phủ nhận những lời nói khác của em – tựa như người bình thường không coi lời nói người tâm thần là thật. Đó là cách anh ta tự bảo vệ mình. Thực ra cũng có lúc em cũng không tin ở trí nhớ của mình nữa. Về sau em đòi xem video trong máy tính thì anh ta cãi bằng được. Tự bảo vệ là thế.”
Cốc Y Dương “xùy” một tiếng rõ dài, nói: “Có điều, mọi người không nghĩ rằng nhiều trường hợp mất trí nhớ chỉ là tạm thời, dù trước đó bị uống thuốc mê. Giờ đây tôi chỉ muốn biết kẻ nào đã trộn thuốc vào các túi trà.”
“Dù sao cũng không phải tôi.” Giản Tự Viễn khăng khăng. “Công an chúng tôi tuyệt đối không làm những chuyện như thế.”
“Là công an mà anh để cho hai vụ án mạng xảy ra ngay trước mũi mình?!” Cốc Y Dương giận dữ.
“Mục Hân Nghi nửa đêm ra ngoài giấu xác thì tôi biết sao được?! Tôi đâu có thể biết La Lập Phàm… Đến giờ tôi vẫn chưa rõ La Lập Phàm chết như thế nào.” Giản Tự Viễn nói chắc nịch.
Cốc Y Dương, Giản Tự Viễn đều nhìn tôi. Tôi im lặng. Rồi lần túi lấy ra lọ thuốc nho nhỏ, hỏi: “Hình như anh có nghiên cứu ít nhiều về thuốc men, có biết đây là thuốc gì không?”
Giản Tự Viễn cầm lọ thuốc, nhìn cái tên Sevoflurance một lúc rồi lắc đầu: “Tôi đâu tài ba như thế, nhưng có thể tìm ra câu trả lời.” Anh ta lấy di động ra, bật máy. “Trong này có nạp dược điển.”
Tên tiếng Anh, Sevoflurance cũng là Travenol, một thứ thuốc gây mê rất mạnh.
Tôi nói: “Tôi tìm thấy trong hành lý của Lê Vận Chi. Cô ta giết La Lập Phàm.” Cả Cốc Y Dương lẫn Giản Tự Viễn đều trợn tròn mắt không tin.
“Nếu tôi đoán không nhầm, thì La Lập Phàm và Lê Vận Chi dan díu với nhau, họ rủ nhau lên gác là đương nhiên. Thắt lưng của Lập Phàm bị rút ra để làm dây treo cổ, nhưng tôi thấy khuy và phéc-mơ-tuya quần anh ta cũng bị mở, tại sao? Tôi nghĩ, chắc họ đang làm tình, khi cả hai đang quấn lấy nhau thì Vận Chi tiêm thuốc Travenol vào Lập Phàm, cô ta đã chuẩn bị từ trước. Tôi nhận ra sau gáy Lập Phàm có một đốm đỏ, chắc là vết cắm kim tiêm. Có thể, lúc đầu Lập Phàm giãy giụa, nhưng tin rằng Vận Chi đã chuẩn bị kỹ, thắt lưng thít cổ Lập Phàm, quá đủ thời gian để thuốc mê ngấm vào cơ thể, cô ta ung dung thít cổ Lập Phàm đến chết!”
Giản Tự Viễn nói: “Sao có thể như thế? Hai người đang có…”
“Đúng là họ có quan hệ, nhưng mục đích của Vận Chi là nhằm khai thác xem Cốc Y Dương đã nói với con người “có phần ngây thơ” Thành Lộ những gì về việc điều tra cái chết của An Hiểu. Nhưng tại sao cô ta lại giết Lập Phàm sau khi Thành Lộ bị giết không lâu? Tôi cho rằng Lập Phàm đã ít nhiều nhận ra Vận Chi xuất hiện ở ngôi nhà gỗ này với động cơ không sạch sẽ. Thành Lộ mất tích, anh ấy nghi ngờ Hân Nghi và cả Vận Chi nữa, thậm chí có lẽ đã biết Vận Chi có chiếc máy bộ đàm, có nút điều khiển từ xa để thả linh miêu vào. Lập Phàm có tật háu gái thật, nhưng chưa cạn lương tâm, sống với vợ ba năm trời, vợ mất tích vẫn khiến anh ấy bị sốc mạnh. Anh ấy nghi ngờ hai cô gái, và đã căn vặn họ; rất có thể anh đã đe dọa Vận Chi rằng sẽ công bố bí mật con người cô ta là ai. Vận Chi dùng máy bộ đàm liên lạc với bên ngoài, nhận được lệnh diệt khẩu, cô ta bèn rủ Lập Phàm lên gác để “vui vẻ” rồi nhân đó ra tay.”
Giản tự Viễn thở dài: “Thực là kinh khủng, nhưng chủ yếu vẫn là suy đoán mà thôi.”
“Thế thì anh có lập luận gì? Cảnh sát Lý?”
Giản Tự Viễn nói: “Tôi chỉ phụ trách mảng trộm cắp cổ vật, chứ những vụ…”
“Súng!” Cốc Y Dương bỗng nói. “Chắc chắn anh phải có súng!”
Giản Tự Viễn im lặng hồi lâu, tức là thừa nhận. Tôi hỏi: “Sao anh không nói sớm? Nếu có súng, thì khi ở trong căn hầm kia chúng ta không phải căng thẳng như vậy, chúng ta có thể xông lên khống chế thằng cha ấy, bắt hắn khai ra mọi nguồn cơn, thì tình cảnh của chúng ta sẽ khác hẳn.” Còn nhớ lúc đó anh ta còn ra vẻ ta đây, muốn bắt chuyện với thằng cha ấy nhưng bị chúng tôi ngăn lại.
“Không! Tình cảnh của chúng ta có thể sẽ tệ hơn! Các cô cậu lúc đó đã tỏ rõ thái độ còn gì?” Giản Tự Viễn dõng dạc nói. “Tôi có súng nhưng không thể địch nổi vài ba con linh miêu đồng thời lao đến! Và ai có thể biết thằng cha ấy có nhưng vũ khí gì, coi chừng bốn chúng ta sẽ biến thành bốn cái xác!”
“Suỵt…”Cốc Y Dương giọng căng thẳng: “Hình như tôi nghe thấy tiếng động gì đó.”
Chương : Lại là căn gác thây ma
Sau hai tiếng đồng hồ, khi tôi cảm thấy khó mà cất thêm một bước nào nữa thì nhìn thấy một ngôi nhà gỗ ở ngay trước mặt! Nó rất giống ngôi nhà gỗ chúng tôi thuê, nóc nhà đọng lớp tuyết rất dày, có cảm giác ngôi nhà sắp bị đè bẹp gí. Nó im lặng đứng đó, mặc kệ gió tuyết tha hồ ngược đãi.
Giản Tự Viễn “hà hà” rất khệnh khạng tự đắc, nói: “Tôi đã bảo mà! Chúng ta quyết định rất chuẩn! Thấy chưa, khung cảnh rất yên tĩnh hiền hòa! Nếu trong nhà có người thì vừa khéo để chúng ta kết bạn. Nếu không có ai thì ta vào uống nước, ăn uống, hưởng thụ lạc thú của chủ nhà!”
Tôi và Hân Nghi đều lừ mắt nhìn anh ta. Mấy ngày như thế này thì còn có lạc thú cái quái gì?
Bên ngoài ngôi nhà, tuyết trắng phau sạch sẽ, không một dấu chân, cứ như nhiều năm qua chẳng bị ai làm phiền; được như thế tất nhiên là do tuyết lớn rơi suốt hai giờ vừa rồi tạo nên.
Cốc Y Dương tháo ván trượt tuyết ra, bước lên trước tiên gõ cửa. Không ai trả lời. Anh đẩy cửa, cửa khóa chặt. Chúng tôi vòng ra phía sau thì thấy một ô cửa sổ đang hé mở, kiểu cửa một cánh đẩy lên kéo xuống, nhìn biết ngay bên trong là nhà vệ sinh. Giản Tự Viễn xung phong trèo lên bậu cửa sổ đẩy cánh cửa lên rồi chui vào trong.
Một phút sau anh ta xuất hiện ở cửa ra vào, hai tay giang rộng, cười rất tươi: “Hoan nghênh các bạn của tôi! Một lần chi tiền được ở hai ngôi biệt thự!”
Tôi lắc đầu cười ngán ngẩm: “Lúc này mà còn cười được? Anh đã xem kỹ chưa? Không có người chứ?”
Giản Tự Viễn chỉ vào phía sau lưng: “Chỉ biết rằng tôi đi từ nhà vệ sinh ra đến đây, giày ủng nện rõ mạnh, không gặp ai hết!”
Bốn chúng tôi cùng đi khắp nhà một lượt, bên trong bố trí hệt như ngôi nhà chúng tôi đã thuê, bốn phòng ở đều không một bóng người. Tôi vòng ra phía sau, cố quan sát toàn cảnh. Giản Tự Viễn đắc ý nói: “Ha ha, vậy là đêm nay ta có thể mỗi người ngủ một phòng, khỏi phải cãi cọ tranh phòng với nhau.”
Hân Nghi nói luôn: “Tôi vẫn muốn ở chung với Na Lan.”
Tôi nói: “Tự Viễn, anh nói đùa à? Dù chỉ ngủ đây một đêm thì chúng ta vẫn phải ở một phòng. Tôi cho rằng chưa chắc nhà này chỉ có chúng ta là khách!”
Cả ba đều ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi bước đến bên tủ tường, mở ra. Bên trong có hai va-li du lịch và một chiếc áo khoác. “Khách ở đây có thói quen luôn thu xếp rất ngăn nắp, trong nhà không để các thứ lặt vặt, trong toa-let vẫn có đủ đồ cần thiết, trên bàn bếp còn có mấy chén trà đã uống.”
Tôi dẫn mọi người sang xem kỹ ba gian phòng còn lại, tủ tường ở hai gian đều xếp ba-lô hành lý và quần áo; một gian còn thấy hai cuốn tiểu thuyết đặt trên bàn.
Giản Tự Viễn có vẻ hơi thất vọng: “Thế là chúng ta không thể một mình hưởng cả ngôi nhà này, nhưng cũng được, có thêm người thì cũng vui.”
Tôi lẩm bẩm: “Nhưng vấn đề là, tuyết lớn thế này, họ đi đâu nhỉ?”
Hân Nghi nói: “Hay là họ mê trượt tuyết quá! Trời này, ra quanh đây trượt tuyết việt dã vẫn rất sướng!”
Tôi nói: “Đúng là họ rất mê trượt tuyết nhưng hôm nay họ không đi trượt tuyết.” Tôi mở cửa gian nhà kho nho nhỏ ở hành lang, bên trong có ba bộ ván và gậy trượt tuyết.
Mọi người im lặng, tin rằng ai cũng đang nghĩ như tôi: họ đi đâu?
Tôi bỗng có linh cảm chẳng lành. “Vẫn còn một chỗ nữa chúng ta chưa xem.”
Cốc Y Dương hơi kinh ngạc, rồi anh bước về phía cuối hàng lang. Tôi đi theo ngay, bước đến chân cầu thang lên gác. Cốc Y Dương bỗng dừng lại, cúi xuống nhìn một giọt hồng sẫm trên sàn gỗ.
Là giọt máu.
Trên cầu thang, bên thành cầu thang, một giọt, hai giọt, vô số giọt máu.
Lặp lại cái cảnh quen thuộc.
Sau lưng tôi, Hân Nghi thét lên kinh hãi.
“Gay rồi!” Giản Tự Viễn bưng miệng, lui lại mấy bước, lùi xa cầu thang và những vết máu.
Cốc Y Dương hô lớn: “Mọi người mau cầm gậy trượt tuyết!” Rồi anh quay lại gian nhà kho vừa nãy lấy ra bốn cây gậy, mỗi người cầm một chiếc. Sau đó anh bước lên cầu thang. Tôi theo sát anh.
Cửa gian gác khép hờ, máu trong nhà lách qua chân cánh cửa chảy ra, đã khô đặc.
Từ từ đẩy cửa ra, nồng nặc mùi tanh, tôi vội đưa tay bịt mồm bịt mũi, ruột gan nhào cuộn lên dữ dội.
Gian gác tối om, Cốc Y Dương chiếu đèn pin rọi khắp. Tôi quá mong gian gác vẫn cứ tối om như cũ thì hơn. Trên sàn gác là ba xác người không còn nguyên thây. Tứ chi nát nhoét đầm đìa máu me, cơ thịt không còn, xương xốt trờ khấc. Quần áo của họ bị xé nát bươm, nhìn phần đầu còn lại có thể đoán ra: hai nam, một nữ, gồm đôi vợ chồng tuổi trung niên và cậu con trai độ tuổi học cấp III.
Cả ba cái xác có chung một đặc điểm: cổ đều bị xé nát nhừ.
“Bọn linh miêu?” Tôi khẽ hỏi.
Cốc Y Dương gật đầu. Bọn linh miêu đã vào đây, chỉ không biết chúng có phải ba con chúng tôi đã gặp không. Cốc Y Dương nói chúng là động vật quý hiếm, nên khó tin rằng chúng lại rất sẵn trong vùng núi rừng này, có lẽ vẫn là ba con ấy. Tôi biết rất ít về trinh sát hình sự và pháp y nhưng cũng có thể nhận ra ba người này chết cách đây không lâu. Hay là chúng thất bại ở chỗ chúng tôi, đói bụng, bèn tìm đến đây kiếm mồi? Quan sát hiện trường, có thể đoán rằng ba người này phát hiện ra linh miêu xâm nhập bèn chạy lên gác ẩn nấp, nào ngờ bọn linh miêu rất tinh ranh vẫn tìm cách lọt vào được.
Tôi nói: “Chúng ta hãy xem đống hành lý ở phòng họ, hình như họ có bốn thậm chí năm người, vậy hai người kia đâu?”
Cốc Y Dương nói: “Dù họ ở đâu, e vẫn là lành ít dữ nhiều.”
Chúng tôi đóng cửa gian gác rồi xuống cầu thang. Sắc mặt Hân Nghi và Giản Tự Viễn xám ngoét. Cốc Y Dương nói: “Là bọn linh miêu.”
Hân Nghi hỏi: “Tại sao lại thế, tại sao bọn linh miêu giết hại những người này?”
Giản Tự Viễn gắt gỏng: “Tại sao cái gì nữa? Tại vì sinh tồn! Khắp nơi là tuyết, có gì mà ăn? Ăn thịt người là lựa chọn ngon lành nhất của chúng!”
Tôi nói: “E rằng không đơn giản thế đâu. Liệu có phải chủ nhân của chúng muốn chúng ta cho rằng bọn linh miêu có thể xuất hiện khắp nơi, chúng là động vật hoang dã? Rất có thể, kẻ đang truy sát chúng tah đã có ý sát hại mấy người vô tội này, một là để cho linh miêu no bụng, hai là khiến chúng ta lơ là cảnh giác cũng nên? Mặt khác, nếu hắn chỉ giết mấy người chúng ta, thì rất có thể cảnh sát sẽ chú ý điều tra phá án, cho nên gã chủ linh miêu bố trí chúng đến đây tàn sát. Và, sau này xác chúng ta bị phát hiện ra, thì cũng chỉ bị coi là tai nạn đơn thuần: linh miêu đói bụng, cắn chết nhiều người ở đây, cũng cắn chết nhiều người ở ngôi nhà gỗ chúng ta thuê. Và thế là tội ác vĩnh viễn chìm trong bóng tối.”
Hân Nghi rùng mình: “Vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?”
Tôi nói: “Trước tiên ta phải ăn một chút đã.” Tôi bỗng thấy câu nói của mình thật nực cười, sau khi chứng kiến cảnh rùng rợn trên căn gác, tôi còn bụng dạ nào để ăn nữa? “Lúc này dù món ngon đến đâu cũng khó nuốt trôi, nhưng vì sinh tồn, chúng ta nên cố ăn một chút, sau đó lên đường.”
“Lên đường à? Đi đâu?” Giản Tự Viễn hỏi, vẻ như không sao tin nổi.
Tôi nói: “Trở về ngôi nhà gỗ của chúng ta.”
“Đầu cô chập mạch rồi à?” Giọng nữ cao của Giản Tự Viễn ré lên rồi chìm xuống đầy sợ hãi, trông anh ta thô bỉ đến cùng cực. “Cô nói, nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất kia mà? Nơi này đã bị linh miêu tắm máu, chúng sẽ không quay lại để ăn thịt người chết nữa, lẽ nào đây không phải nơi an toàn nhất? Tại sao phải trở về?”
Tôi cỗ giữ bình tĩnh ôn hòa: “Phán đoán của chúng ta cần luôn được điều chỉnh theo nhận thức về tình hình. Nếu ta cứ ở đâu, thì có thể vừa khéo trúng kế của kẻ khác. Kẻ bố trí linh miêu đến đây hại người, hắn mong chúng ta cho rằng linh miêu sẽ không trở lại nơi chúng đã ăn no bụng, nên nơi này sẽ an toàn, cứ việc mà ở. Còn bọn chúng, chẳng bao lâu nữa sẽ quay lại đây. Lúc này gã chủ và bọn linh miêu đang đi tuần trong núi, vừa tìm chúng ta vừa gây nên cảnh kinh hoàng. Cho nên, dù nơi này hay ngôi nhà cũ đều không an toàn. Chúng ta chỉ nên dừng chân ở đây, ăn uống qua loa rồi tiếp tục lên đường. Bọn chúng luôn di chuyển thì chúng ta cũng di chuyển, nếu không thì rõ là ngồi chờ chết!”
Giản Tự Viễn cười khẩy: “Ngồi chờ chết, ngồi chờ chết! Câu này tôi nghe cả trăm lần rồi!”
“À…” Anh ta sững người. “Hân Nghi sao bỗng dưng biến đổi khác quá? Em vốn sợ trở về… vì ở đó các xác chết kia mà…”
Hân Nghi nói: “Ở đây không có xác chết hay sao? Nếu về, ít ra ở đó cũng quen hơn ở đây.”
Cốc Y Dương nói: “Nào, chúng ta ăn đã, ăn xong, nghỉ một lát rồi lên đường.”
Giản Tự Viễn thở dài không nói gì nữa, lặng lẽ theo chúng tôi vào bếp. Ăn xong mấy bắp ngô mà Trương Cầm đem đến, Giản Tự Viễn mới nói: “Được, tôi cũng về theo, nhưng về rồi thì chúng ta không đi đâu nữa. Cứ chạy đi chạy lại mãi, tiêu hao sức lực nhiều quá rồi. Đi giữa trời tuyết, tốn ca-lo kinh khủng, chẳng khác gì tự sát.”
Tôi ngẫm nghĩ mấy câu anh ta nói, không phải không có lý. Bèn hỏi: “Anh có cách gì để chúng ta chống lại bọn linh miêu và tên hung thủ giấu mặt kia không?”
Giản Tự Viễn hơi nhếch mép, cười ruồi: “Ta cần lợi dụng tuyết để bắt thầy trò bọn linh miêu sập bẫy, tóm gọn.”
“Sập bẫy, tóm gọn?”
Giản Tự Viễn thò tay vào ba-lô của Trương Cầm để lại, lấy ra một mớ dây thép cuộn tròn. “Nhìn đi, tôi tìm thấy nó trong đống rác ở ngôi nhà gỗ. Cái này nữa.” Anh ta lại lấy ra một cái hộp vuông, mở ra, bên trong có kìm, tuốc-nơ-vít, cờ-lê… “Các bảo bổi này tôi cũng tìm thấy ở đó; kiếm chút vật liệu ngay ở đây nữa, ta sẽ bắt bọn linh miêu phải khốn đốn.”
Tôi bỗng cảm thấy Giản Tự Viễn là con người thật lạ lùng.
Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chapter
Chương 39: Cảnh sát họ Lý
Hôm nọ tôi và Giản Tự Viễn cùng xem vài đoạn video trên máy tính, do anh ta đặt camera ở phòng khách để quay, sóng vô tuyến sẽ truyền kết quả vào máy tính của mình. Video cho thấy khoảng hai giờ đêm tôi đã gọi điện cho ai đó, khi đối thoại tôi nhắc đến tên Lê Vận Chi và An Hiểu. Khi tôi đề nghị Giản Tự Viễn cho tôi xem lại thì anh ta một mực nói là không hề có video ấy. Cốc Y Dương nát óc với cái máy tính ấy rất lâu cũng không tìm ra bất cứ video nào bị xóa cả. GiảnTự Viễn và Mục Hân Nghi cùng xác nhận rằng trông thấy tôi mộng du, tức là chứng tỏ một điều: tôi thần kinh trục trặc cho nên lời của tôi không đáng tin.
Nhưng tại sao các video ấy biến mất mà không do bị xóa bỏ? Giải thích thế nào đây?
Tôi rất bí, không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Về sau tôi nghĩ kỹ, rồi có được một kết luận, một giả thiết hình như xa vời nhưng hoàn toàn có thể xảy ra: đó là Giản Tự Viễn có hai máy tính giống hệt nhau.
Còn nhớ sau khi xem video xong, tôi sang phòng Cốc Y Dương hỏi anh ba câu hỏi; thời gian đó đủ để Giản Tự Viễn giấu máy tính đi, lấy chiếc thứ hai “sạch sẽ” ra, và tất nhiên chúng tôi không thể tìm thấy video ấy. Chúng tôi trắng tay, ra khỏi phòng Giản Tự Viễn, lúc đó máy tính của anh ta vẫn nằm trên bàn; kể từ đó chúng tôi không ai hành động đơn độc, anh ta cũng không có cơ hội giấu nó dưới đệm nằm. Gã chủ nhân bọn linh miêu đột nhập ngôi nhà, đã cướp sạch các máy tính, kể cả máy của Giản Tự Viễn đang để trên bàn.
Giả thiết anh ta có hai máy tính không sai! Chắc chắn file video mà tôi vẫn băn khoăn phải nằm trong cái máy tính giấu dưới đệm này. Tôi không thiết đi tìm sự thật về con người của Lê Vận Chi nữa, hứng thú của tôi tập trung vào các video “Thật 1” và “Thật 2”. Nếu tôi đoán không nhầm, thì “Thật 1, Thật 2” rất có thể là “Châm 1, Châm 2” được đặt tên chệch đi. Nếu tôi đoán không nhầm thì con nghiện quay phim chụp ảnh Giản Tự Viễn đã hóa rồ, đem đặt camera siêu nhỏ trong phòng khách.
Để làm gì?
Có phải chỉ là sự đổ đốn mất nết của một gã độc thân?
Tôi vào phòng mình và Hân Nghi từng ở chung, tìm được cái ba-lô của tôi nhét chiếc máy tính vào, rồi đi ra tiền sảnh, đến bên cửa sổ nhìn ra xa.
Tuyết vẫn bay, gió vẫn rú rít, bầu trời xám xịt, lúc này là mấy giờ nhỉ? Tôi mở máy ảnh xem thời gian. 3:27 PM.
Chẳng mấy chốc trời sẽ tối.
Lòng tôi lại trĩu nặng.
Cũng may không thấy nột bóng người nào, mong sao tuyết sẽ xóa sạch mọi dấu chân của chúng tôi trên đường.
Tôi lần túi áo lấy ra tấm bản đồ và bức ký họa của Thạch Vi mà Cốc Y Dương đã đưa tôi, chăm chú nhìn ngôi nhà màu trắng ở góc bức tranh, rồi lại xem tấm ảnh ngôi nhà gỗ mà Giản Tự Viễn đã chụp. Tôi thầm ngậm ngùi. Thạch Vi quả là có năng khiếu nghệ thuật: các ngôi nhà gỗ trong tranh ở xa, nhỏ nhưng được vẽ chính xác như thật; ngôi nhà trắng hơi bị nghiêng, cô cũng thể hiện rất chuẩn.
Tôi có cảm giác hai ngôi nhà gỗ trong tranh có điểm gì đó không giống nhau.
Không giống ở đâu?
Có tiếng bước chân. Cốc Y Dương và Giản Tự Viễn bước lại. Giản Tự Viễn nói: “Sao Na Lan lơ đễnh thế, chớ bỏ lọt kẻ địch.”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, có ma nào đâu? Tôi nói: “Tôi để mắt liên tục. Nhưng nếu có kẻ địch đến, chúng sẽ không vào cửa chính, mà là vòng sau nhà hoặc bên cạnh. Tiếc rằng chúng ta chỉ có ba người, không thể quan sát hết các hướng.”
Giản Tự Viễn nói: “Có lý! Cho nên chúng ta phải đào hố bẫy xung quanh đây.” Anh ta mở gian nhà kho ở hành lang lấy ra cái xẻng hôm nọ chúng tôi từng dùng để đắp người tuyết.
Tôi cau mày: “Sắp tối đến nơi, các anh đừng nên lãng phí sức lực vào việc đào hố, chắc gì đã bẫy được ai?”
Giản Tự Viễn dương dương tự đắc: “Yên tâm đi, bọn tôi không đi đào hố đâu. Hãy xem, hiền đệ Y Dương đang phá phách cái gì đó.”
Tôi ngoảnh nhìn, Cốc Y Dương đang cầm con dao phay rạch cái đi-văng ở phòng khách. Tôi ngạc nhiên nói: “Các anh định phá hoại thật à?” Tôi định nói thêm: sẽ phải đền tiền đấy. Nhưng lại nghĩ, tính mạng chúng tôi là trên hết, chuyện vặt ấy có là gì!
Giản Tự Viễn giải thích: “Chúng tôi cần mấy cái lò xo, dỡ các mảnh tôn ốp ở bếp ga nữa, chế thành những cái bẫy kẹp mà thợ săn vẫn dùng, rồi bố trí trên tuyết. Rất có thể sẽ tóm được những đồ súc sinh cao to.”
Tôi hỏi: “Anh Tự Viễn quê ở đâu? Tôi có cảm giác anh vốn là dân miền rừng núi?”
Giản Tự Viễn cố tỏ ra khiêm tốn: “Đâu có! Chẳng qua trước kia sống khổ tương đối nhiều, chứ không được sung sướng như các cô cậu.”
Giản Tự Viễn và Cốc Y Dương dùng dây thép, lò xo, các vòng sắt chế thành bốn cái kẹp cỡ lớn, bố trí trước cửa ra vào và cửa sổ ngôi nhà, rồi chôn nông dưới tuyết. Kẻ xâm nhập giẫm vào thì không thể rút chân lên được nữa.
Hai người vừa làm xong thì trời tối. Chúng tôi cùng ăn một chút thực phẩm còn sót lại, rồi ngồi trong bóng tối, sẵn sàng nắm ngay lấy vũ khí để bên người: gậy trượt tuyết, dao phay, xẻng… để đối phó với kẻ chưa biết là ai.
Tôi nói: “Cứ ngồi thế này chán thật. Tiếc qua, máy tính bị mất hết, muốn chơi game cũng chịu.”
Anh ta nghĩ ngợi, hình như đã hiểu ra: “Thì ra là cô đã tìm thấy nó? Thế thì trả lại tôi đi!”
Tôi nói: “Có thể! Nhưng anh phải… tôi có quá nhiều điều định hỏi anh, nhưng chẳng biết nên bắt đầu hỏi từ đâu. Có phải ở các phòng anh đều đặt camera siêu nhỏ hay không?”
“Không!”
“Anh đặt ở hai phòng nào?” Tôi nghĩ đến “Thật 1 và Thật 2” tức là hai đầu camera “Châm 1, Châm 2”.
“Ở phòng cô với Hân Nghi, và phòng Lê Vận Chi.” Giản Tự Viễn thản nhiên, thậm chí tỏ ra đàng hoàng có lý.
“Tất nhiên là mỹ nhân!” Giản Tự Viễn bỗng thở dài. “Tôi biết cô rất muốn xem xem đêm hôm đó ở phòng Thành Lộ đã xảy ra chuyện gì, tôi nói thật, tôi không đặt camera ở phòng đó.”
“Cho nên anh cố cãi rằng không có video nào hết, anh sợ bị phanh phui là gã háu gái bệnh hoạn chứ gì?”
Giản Tự Viễn lại thở dài: “Đã không tin thì cô còn gặng hỏi tôi làm gì nữa?”
“Anh có muốn tôi nói rõ ra không?”
“Tôi nghe đây.”
Tôi cố nén giận, nói: “Trong thời gian tôi ngủ lịm đi, cái đêm hôm đó, khi anh thấy Mục Hân Nghi ra khỏi phòng chúng tôi, anh đã lén vào và hỏi tôi một lô câu hỏi, đúng không?”
“Sao cô lại…” Giản Tự Viễn đờ ra kinh ngạc.
“Sau khi vào nhà gỗ ở, tôi liền bị nhức đầu, anh đã bỏ thuốc độc đúng không? Thuốc giãn mạch máu dạng nặng! Và lượng lớn moóc-phin! Tôi nhớ ra rằng ngay hôm đầu tiên vào ở, tôi đã bị phản ứng lạ lùng: tối hôm đó rất hưng phấn, sau đó lại bắt đầu nhức đầu, chỉ sau khi uống trà thì mới đỡ nhức. Thế là tôi bị lệ thuộc vào trà, nếu không uống thì lại nhức dữ hơn. Sau đó tôi ngủ mê man thậm chí có ảo giác và mất trí nhớ. Anh đã trộn thuốc độc vào trà túi! Anh có ý đồ gì đây? Muốn đánh thuốc mê tôi, nhân đó khai thác những thông tin quan trọng!”
Giọng kim của Giản Tự Viễn ré lên, đúng là tôi đã đụng đến thần kinh anh ta: “Tôi đâu có kỹ thuật công nghệ pha chế trà túi như cô nói? Trà túi và cà phê hòa tan đều là của Khu nghỉ dưỡng. Tôi đoán có trộn lần thuốc gì đó. Tiếc rằng trong chúng ta chỉ có cô uống trà, Thành Lộ uống cà phê, rồi bị phản ứng khác nhau. Tôi chỉ nhân lúc cô mê sảng hỏi cô vài câu. Cô đừng nghĩ quá xa xôi.”
Tôi cười nhạt: “Tôi lúc đầu nghĩ thật đơn giản, rằng vào nhà này ở là ngẫu nhiên, chỉ là một đợt cùng nhau đi “nghỉ dưỡng”. Nào ngờ lại có kẻ vạch kế hoạch giết người, có kẻ có nhiệm vụ giám sát. Còn anh, có cần tôi nhắc lại không? Khi bớt nhức đầu, tôi đã nhớ ra mấy câu anh hỏi tôi lúc nửa đêm!”
“Đã biết cả rồi, hà tất phải nói toạc ra làm gì? Nhất là trong tình thế hiện nay.” Giọng anh ta ngao ngán.
Tôi nói: “Tôi vẫn cần biết sự thật, và tôi buộc phải biết rõ trong lúc sinh tử như hiện nay, tôi có thể tin tưởng anh hay không?”
“Cô đã biết sự thật rồi.”
“Tôi cần nghe chính mồm anh nói ra! Anh đến đây, kể cả những tiếp xúc với Cốc Y Dương trước kia nữa, có phải vì cái kho báu khốn kiếp ở hồ Chiêu Dương không?” Chắc Giản Tự Viễn nhận ra rằng, “giải độc” giấc ngủ li bì của tôi là cơ hội duy nhất để anh ta khai thác sự thật, cho nên nhân lúc phòng tôi chỉ còn mình tôi, anh ta đã vài lần lẻn vào hỏi tôi một câu hỏi “cô có biết kho báu Bá Nhan dưới đáy hồ đã đi đâu không?”
Cốc Y Dương từ nãy vẫn im lặng, lúc này anh gắt lên: “Anh không phải cán bộ của Cục năng lượng. Đúng không?”
Giản Tự Viễn nói: “Đúng là Giản Tự Viễn làm việc ở Cục năng lượng, nhưng tôi thì không. Lan muội đã khui ra như thế thì tôi đành chơi bài ngửa vậy. Tôi đây!”
Đèn pin bật lên. Anh ta giơ ra tấm thẻ công tác, trên đó dán ảnh Giản Tự Viễn mặc sắc phục công an, có hàng chữ “Thẻ cảnh sát nhân dân”, nhưng tên người lại ghi là Lý Thụ Quân.
Tôi lẩm bẩm: “Sỹ quan Lý”.
“Có nghe nói Phòng 3 của Cục trinh sát hình sự Bộ Công an không?” Giản Tự Viễn nói. “Là đơn vị tương đối đặc biệt, chuyên trinh sát khám phá các vụ án lớn trộm cắp buôn lậu cổ vật. Trưởng phòng Vương của chúng tôi…”
Tôi nói: “Tôi đã từng gặp.”
“Anh ấy nói, sau khi trao đổi với cô, không phát hiện ra tình tiết gì nhưng anh ấy cho rằng cô không chỉ tinh khôn đơn thuần, hình như cô vẫn che giấu điều gì đó… nhất là khi hỏi rằng có phải trước kia cô đã từng tham gia đi tìm kho báu? Cô…”
“Trưởng phòng Vương của các anh quá nhạy cảm hoặc anh ấy đọc hơi nhiều tiểu thuyết về đào trộm mộ cổ… Tôi chỉ là một sinh viên bình thường chứ không phải đạo trích giang hồ.”
Giản Tự Viễn: “Thế đấy! Cũng vì chúng tôi bí quá, không có đầu mối nào khả dĩ hơn, cho nên cô vẫn là một trong những trọng điểm để trinh sát phá án. Còn Y Dương, vì cậu ấy là người yêu cũ của cô nên cũng bị chúng tôi quan tâm. Cả hai người đều có nhiều điểm nghi vấn, ví dụ, tại sao cậu ta đi Bắc Kinh ít lâu thì hai người không quan hệ nữa? Người của chúng tôi phân tích rằng, liệu cậu ấy có phải người từ bên ngoài phối hợp với cô tối hôm đó không? Tức là, sau khi cô phát hiện ra kho báu và các tổ viên của cô cầm “kho báu giả” nổi lên mặt nước, thì Y Dương đối phó với những kẻ tấn công cô và các tổ viên; sau đó Y Dương lặn vào hang chuyển kho báu đi.”
Tôi đáp: “Tôi chỉ có thể nói rằng sức tưởng tượng của các anh thật phong phú. Anh có thể hỏi Y Dương. Anh ấy không biết bơi lội là gì, và hỏi xem buổi tối mà “tổ săn kho báu” chúng tôi hành động thì Y Dương đang ở đâu.”
Giản Tự Viễn nói: “Chúng tôi không biết cậu ta đang ở đâu, nhưng có thể khẳng định cậu ta không ở Bắc Kinh.”
Cốc Y Dương nói: “Tôi đang trên đường đi Thẩm Dương.”
“Nhưng không có ai làm chứng, đúng không?” Giản Tự Viễn nói. “Đúng là hôm sau có người nhìn thấy cậu ở Thẩm Dương, nhưng cậu có đủ thời gian để làm cái việc “khẩn” kia ở Giang Kinh để sáng sớm hôm sau cậu bay đi Thẩm Dương!”
“Vé máy bay là sự thật miễn bàn, các anh thừa sức để tra xem tôi có đi trên chuyến bay đến Thẩm Dương không.”
Giản Tự Viễn cười hì hì: “Tôi nói thế này vậy: tôi dùng chứng minh thư giả “Giản Tự Viễn” mua vé lên máy bay, bay rất ngon lành. Có biết làm giả chứng minh thư rất dễ không?”
Tôi nói: “Nhưng nói quá thế này thì ích gì? Tôi cho anh câu trả lời chuẩn luôn: tôi hoàn toàn không biết kho báu Bá Nhan đã đi đâu. Tôi nghĩ, camera siêu nhỏ của anh có thể chứng minh tôi trong sáng.” Rõ ràng là camera bí mật ấy là nhằm vào tôi. Giản Tự Viễn nghi tôi và Cốc Y Dương liên kết cuỗm đi kho báu dưới đáy hồ Chiêu Dương, nhưng vì chúng tôi đã chia tay, anh ta không có chứng cứ chúng tôi vẫn liên lạc với nhau; chuyến đi nghỉ dưỡng này chúng tôi tái ngộ lần đầu tiên kể từ sau vụ tìm ra kho báu Bá Nhan rồi lại bị mất. Nếu giả thiết của anh ta là đúng, thì chắc chắn tôi và Y Dương phải nói chuyện về đám báu vật ấy, cho nên anh ta bí mật lắp camera ở phòng tôi, hòng nghe lén nội dung chúng tôi bàn bạc.
Tôi bỗng giật mình, liệu ký túc xá của tôi có bị lắp thiết bị theo dõi như thế không?
Những gã khốn nạn xăm xoi bí mật đời tư của người ta!
Giản Tự Viễn nói: “Xem ra, cô vẫn cương quyết đến cùng! Thuốc tác động, kết quả cũng bằng không. Có lẽ chúng tôi nên tin cô thật!”
Cố nén ý nghĩ xông vào đập cho anh ta một trận, tôi lạnh lùng nói: “Anh đã nói thế, thì nhiều chuyện xảy ra đêm hôm đó đều có thể giải thích được: khi anh ra khỏi phòng tôi thì gặp Mục Hân Nghi từ ngoài đi vào, chắc hai người phải căn vặn nhau, rồi cùng nhất trí giữ kín “hành vi bất thường” của nhau; Hân Nghi hứa hợp tác với anh, sẽ nói là thấy tôi mộng du, nhằm chứng minh rằng tôi có vấn đề thần kinh…”
Giản Tự Viễn nói: “Nhưng rõ ràng là đêm hôm đó cô có dậy, rồi đi lên gian gác…”
“Nhưng anh không nhìn thấy. Đúng chưa?”
Giản Tự Viễn kinh ngạc nhìn tôi: “Tại… tại sao cô biết?”
“Tôi đã suy đoán xem mình “mộng du” vào khoảng thời gian nào. Nếu xảy ra trước khi Hân Nghi giết Thành Lộ, thì chắc chắn Hân Nghi phải nhìn thấy. Nhưng giả sử anh cũng nhìn thấy, Hân Nghi biết anh là “cú vọ tuần đêm”, thì cô ta sẽ không mạo hiểm mò vào phòng Thành Lộ để giết chị ấy.Vậy chứng tỏ anh không nhìn thấy tôi. Nếu tôi mộng du vào quãng thời gian Hân Nghi đem xác đi phi tang, thì cô ta đương nhiên không nhìn thấy tôi. Còn anh, khi cô ta đi rồi, anh mò vào phòng chúng tôi rồi hỏi tôi về kho báu kia; hỏi xong, tôi mới mộng du thì anh là người duy nhất biết cái bí mật này, không cần thiết phải chia sẻ với Hân Nghi. Tức là có thể khẳng định tôi không mộng du vào quãng thời gian đó. Vậy thì khả năng duy nhất chỉ có thể là mộng du vào lúc Hân Nghi chuyển xác đi, rồi trở về ngôi nhà gỗ. Không thể có chuyện trùng hợp: khi anh và cô ta chạm trán nhau thì tôi cũng mộng du. Cho nên tôi đoán rằng, tôi đã ra khỏi gường sau 12h đêm đến sáng, tôi ngủ li bì một ngày một đêm rồi dần tỉnh lại, nhớ ra chuyện Lập Phàm từng nói “có thể Thành Lộ sẽ làm chuyện quá đáng,” tôi bèn ra phòng khách xem sao, không thấy chị ấy; tôi đi tìm khắp, kể cả gian gác. Cuối cùng tôi kết luận Lập Phàm chỉ tạm thời giảng hòa với vợ nên lại ra ngủ phòng khách. Mọi hành động của tôi, Hân Nghi đều nhìn thấy; với cô ta, cái đêm ấy rất không bình thường, cô ta đương nhiên không thể ngủ nổi. Còn anh, chính anh từng nói rằng từ sau nửa đêm thì anh ngủ rất say. Cho nên tôi đoán rằng: sáng hôm sau Hân Nghi cho anh biết đêm qua tôi mộng du, cả hai cùng thống nhất để nói ra, thế là tôi chính thức “mộng du” thật! Khi anh nhận ra tôi bị mất trí nhớ - đúng là tôi có mất trí nhớ - tôi không thể nhớ ra La Lập Phàm hai đêm liền ngủ đi-văng phòng khách, thì mọi người càng thấy đúng là tôi mộng du thật.”
Cốc Y Dương hỏi: “Anh ta tại sao phải làm như thế?”
Tôi nói: “Vì anh ta biết, mọi tin từ người đang ở trạng thái ngủ mê man là hành động rất mạo hiểm. Tiềm thức con người rất to lớn, đôi khi có thể khơi dậy những ký ức từ trong vô thức. Nếu chứng minh được thần kinh em không bình thường, thì anh ta có thể phủ nhận những lời nói khác của em – tựa như người bình thường không coi lời nói người tâm thần là thật. Đó là cách anh ta tự bảo vệ mình. Thực ra cũng có lúc em cũng không tin ở trí nhớ của mình nữa. Về sau em đòi xem video trong máy tính thì anh ta cãi bằng được. Tự bảo vệ là thế.”
Cốc Y Dương “xùy” một tiếng rõ dài, nói: “Có điều, mọi người không nghĩ rằng nhiều trường hợp mất trí nhớ chỉ là tạm thời, dù trước đó bị uống thuốc mê. Giờ đây tôi chỉ muốn biết kẻ nào đã trộn thuốc vào các túi trà.”
“Dù sao cũng không phải tôi.” Giản Tự Viễn khăng khăng. “Công an chúng tôi tuyệt đối không làm những chuyện như thế.”
“Là công an mà anh để cho hai vụ án mạng xảy ra ngay trước mũi mình?!” Cốc Y Dương giận dữ.
“Mục Hân Nghi nửa đêm ra ngoài giấu xác thì tôi biết sao được?! Tôi đâu có thể biết La Lập Phàm… Đến giờ tôi vẫn chưa rõ La Lập Phàm chết như thế nào.” Giản Tự Viễn nói chắc nịch.
Cốc Y Dương, Giản Tự Viễn đều nhìn tôi. Tôi im lặng. Rồi lần túi lấy ra lọ thuốc nho nhỏ, hỏi: “Hình như anh có nghiên cứu ít nhiều về thuốc men, có biết đây là thuốc gì không?”
Giản Tự Viễn cầm lọ thuốc, nhìn cái tên Sevoflurance một lúc rồi lắc đầu: “Tôi đâu tài ba như thế, nhưng có thể tìm ra câu trả lời.” Anh ta lấy di động ra, bật máy. “Trong này có nạp dược điển.”
Tên tiếng Anh, Sevoflurance cũng là Travenol, một thứ thuốc gây mê rất mạnh.
Tôi nói: “Tôi tìm thấy trong hành lý của Lê Vận Chi. Cô ta giết La Lập Phàm.” Cả Cốc Y Dương lẫn Giản Tự Viễn đều trợn tròn mắt không tin.
“Nếu tôi đoán không nhầm, thì La Lập Phàm và Lê Vận Chi dan díu với nhau, họ rủ nhau lên gác là đương nhiên. Thắt lưng của Lập Phàm bị rút ra để làm dây treo cổ, nhưng tôi thấy khuy và phéc-mơ-tuya quần anh ta cũng bị mở, tại sao? Tôi nghĩ, chắc họ đang làm tình, khi cả hai đang quấn lấy nhau thì Vận Chi tiêm thuốc Travenol vào Lập Phàm, cô ta đã chuẩn bị từ trước. Tôi nhận ra sau gáy Lập Phàm có một đốm đỏ, chắc là vết cắm kim tiêm. Có thể, lúc đầu Lập Phàm giãy giụa, nhưng tin rằng Vận Chi đã chuẩn bị kỹ, thắt lưng thít cổ Lập Phàm, quá đủ thời gian để thuốc mê ngấm vào cơ thể, cô ta ung dung thít cổ Lập Phàm đến chết!”
Giản Tự Viễn nói: “Sao có thể như thế? Hai người đang có…”
“Đúng là họ có quan hệ, nhưng mục đích của Vận Chi là nhằm khai thác xem Cốc Y Dương đã nói với con người “có phần ngây thơ” Thành Lộ những gì về việc điều tra cái chết của An Hiểu. Nhưng tại sao cô ta lại giết Lập Phàm sau khi Thành Lộ bị giết không lâu? Tôi cho rằng Lập Phàm đã ít nhiều nhận ra Vận Chi xuất hiện ở ngôi nhà gỗ này với động cơ không sạch sẽ. Thành Lộ mất tích, anh ấy nghi ngờ Hân Nghi và cả Vận Chi nữa, thậm chí có lẽ đã biết Vận Chi có chiếc máy bộ đàm, có nút điều khiển từ xa để thả linh miêu vào. Lập Phàm có tật háu gái thật, nhưng chưa cạn lương tâm, sống với vợ ba năm trời, vợ mất tích vẫn khiến anh ấy bị sốc mạnh. Anh ấy nghi ngờ hai cô gái, và đã căn vặn họ; rất có thể anh đã đe dọa Vận Chi rằng sẽ công bố bí mật con người cô ta là ai. Vận Chi dùng máy bộ đàm liên lạc với bên ngoài, nhận được lệnh diệt khẩu, cô ta bèn rủ Lập Phàm lên gác để “vui vẻ” rồi nhân đó ra tay.”
Giản tự Viễn thở dài: “Thực là kinh khủng, nhưng chủ yếu vẫn là suy đoán mà thôi.”
“Thế thì anh có lập luận gì? Cảnh sát Lý?”
Giản Tự Viễn nói: “Tôi chỉ phụ trách mảng trộm cắp cổ vật, chứ những vụ…”
“Súng!” Cốc Y Dương bỗng nói. “Chắc chắn anh phải có súng!”
Giản Tự Viễn im lặng hồi lâu, tức là thừa nhận. Tôi hỏi: “Sao anh không nói sớm? Nếu có súng, thì khi ở trong căn hầm kia chúng ta không phải căng thẳng như vậy, chúng ta có thể xông lên khống chế thằng cha ấy, bắt hắn khai ra mọi nguồn cơn, thì tình cảnh của chúng ta sẽ khác hẳn.” Còn nhớ lúc đó anh ta còn ra vẻ ta đây, muốn bắt chuyện với thằng cha ấy nhưng bị chúng tôi ngăn lại.
“Không! Tình cảnh của chúng ta có thể sẽ tệ hơn! Các cô cậu lúc đó đã tỏ rõ thái độ còn gì?” Giản Tự Viễn dõng dạc nói. “Tôi có súng nhưng không thể địch nổi vài ba con linh miêu đồng thời lao đến! Và ai có thể biết thằng cha ấy có nhưng vũ khí gì, coi chừng bốn chúng ta sẽ biến thành bốn cái xác!”
“Suỵt…”Cốc Y Dương giọng căng thẳng: “Hình như tôi nghe thấy tiếng động gì đó.”