Tôi quay về căn nhà trại lúc gần tám giờ. Tra chìa khóa vào ổ, tôi xoay nắm đấm và dùng hông huých vào cửa. Tôi đã gọi điện cho mẹ vài tiếng trước bữa tối; bà đang ở cơ quan để giải quyết vài công việc còn dở, không chắc sẽ về lúc nào, và tôi nghĩ khi về mình sẽ thấy ngôi nhà chìm trong yên ắng, tối tăm và lạnh lẽo.
Ở cú huých thứ ba, cánh cửa đành chịu thua, tôi ném mạnh túi xách vào trong bóng tối rồi giật mình chiếc chìa khóa vẫn còn cắm trong ổ. Từ buổi tối Patch đến đây, ổ khóa ngày càng dở chứng. Không biết lúc nãy Dorothea đã nhận ra điều này chưa.
“Trả-tao-cái-chìa-khóa-ngu-xuẩn-đây!!!” Tôi nổi cáu, cố lắc lắc nó ra.
Chiếc đồng hồ quả lắc trong hành lang điểm chuông, tám tiếng đinh đong lớn dội lại xuyên qua không gian tĩnh lặng. Tôi đang vào phòng khách để nhóm lửa lò sưởi thì phía bên kia căn phòng vang lên tiếng vải sột soạt và tiếng cọt kẹt khe khẽ.
Tôi thét lên.
“Nora!” Mẹ tôi nói, gạt chăn ra và lồm cồm ngồi dậy trên ghế sofa. “Có chuyện gì thế con?”
Tôi đặt một tay lên ngực còn tay kia bấu vào tường để giữ thăng bằng. “Mẹ làm con sợ!”
“Mẹ ngủ quên mất.” Bà vén tóc và chớp chớp mắt nghiêm nghị. “Mấy giờ rồi?”
Tôi thả mình xuống chiếc ghế bành gần nhất và cố hít thở đều để nhịp tim trở lại bình thường. Tôi đã nghĩ đến cặp mắt tàn nhẫn đằng sau chiếc mặt nạ trùm kín. Vì chắc chắn rằng hắn không phải là sản phẩm do trí tưởng tượng của tôi tạo ra, tôi bỗng dưng muốn kể cho mẹ nghe mọi chuyện, từ chuyện hắn lao vào chiếc Neon đến chuyện Vee bị tấn công. Hắn đang theo dõi tôi, cái kẻ hung bạo ấy! Chúng tôi phải thay khóa cửa mới. Và có thể phải nhờ đến sự can thiệp của cảnh sát. Vào ban đêm, tôi sẽ thấy an toàn hơn nhiều nếu có một sĩ quan đỗ xe bên lề đường.
“Mẹ định nói với con chuyện này,” mẹ nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi, “nhưng mẹ không biết lúc nào là thích hợp.”
Tôi cau mày. “Có chuyện gì thế ạ?”
Bà cất tiếng thở dài, băn khoăn. “Mẹ đang định bán căn nhà trại này.”
“Gì ạ? Tại sao ạ?”
“Mẹ con ta đã vật lộn kiếm sống một năm nay, và mẹ không kiếm được nhiều tiền như mong đợi. Mẹ đang định tìm việc làm thêm, nhưng thực sự mẹ không chắc mình có đủ thời gian để làm không.” Bà cười buồn. “Lương của Dorothea không nhiều, nhưng đó là khoản tiền phụ trội mà chúng ta khó có thể chi trả nữa. Điều duy nhất mẹ có thể nghĩ tới là chuyển đến một căn nhà nhỏ hơn. Hoặc một căn hộ chung cư.”
“Nhưng đây là nhà của chúng ta mà mẹ!” Tất cả các ký ức của tôi đều ở đây. Ký ức về bố tôi cũng ở đây. Tôi không thể tin nổi là mẹ lại không nghĩ về điều ấy. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được ở lại ngôi nhà yêu quý này.
“Mẹ sẽ đợi thêm ba tháng nữa,” bà nói. “Nhưng mẹ không muốn con nuôi hy vọng.”
Lúc đó tôi biết mình không thể kể cho bà nghe về kẻ trùm mặt nạ. Nếu không mai bà sẽ bỏ việc. Bà sẽ kiếm một công việc gần nhà, và lúc đó mẹ con tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bán căn nhà trại.
“Hãy nói về thứ gì đó tươi sáng hơn,” mẹ tôi nói và mỉm cười, “Bữa tối thế nào con?”
“Tốt ạ,” tôi buồn rầu nói.
“Còn Vee? Con bé thế nào rồi?”
“Mai nó đi học được rồi ạ.”
Mẹ tôi cười gượng. “May là nó chỉ bị gãy tay trái. Nếu không nó sẽ không thể viết bài được, và mẹ đã tưởng tượng ra điều đó sẽ khiến con bé thất vọng đến mức nào.”
“Ha, ha,” tôi nói. “Con đi pha socola nóng đây,” Tôi đứng dậy và chỉ tay vào bếp. “Mẹ muốn uống không?”
“Hay lắm, mẹ sẽ nhóm lửa.”
Sau một thoáng loay hoay trong bếp để lấy tách, đường cùng bột ca cao, tôi quay lại thì thấy mẹ đã đặt một ấm nước lên lò. Tôi ngồi ghé lên tay ghế sofa và đưa cho bà một cái tách.
“Làm sao mẹ biết được rằng mẹ yêu bố?” Tôi hỏi, cố ra vẻ tự nhiên. Hầu như lần nào nhắc đến bố, mẹ con tôi cũng sụt sùi nước mắt, tôi hy vọng lần này sẽ không thế.
Mẹ ngồi vào ghế sofa và gác chân lên. “Mẹ đã không biết. Cho đến khi bố mẹ lấy nhau được khoảng một năm.”
Đó không phải là câu trả lời mà tôi muốn nghe. “Vậy…sao mẹ lại lấy bố?”
“Vì mẹ đã tưởng là mẹ yêu bố con. Khi con nghĩ rằng con đang yêu, con sẽ sẵn sàng theo đuổi nó đến cùng và biến nó thành tình yêu thực sự.”
“Mẹ có sợ không?”
“Lấy bố con á?” Bà cười. “Đó là một điều thú vị. Đi mua váy cưới, đặt chỗ ở nhà thờ, đeo chiếc nhẫn nạm duy nhất một viên kim cương.”
Tôi hình dung ra nụ cười ranh mãnh của Patch. “Mẹ có bao giờ sợ bố không?”
“Mỗi khi đội New England Patriost thua thôi!”
Mỗi khi đội Patriost thua, bố tôi lại vào ga-ra và khởi động cưa xích. Hai mùa thu trước, ông đã lôi cái cưa xích vào khu rừng sau nhà tôi, đốn mười cái cây rồi chẻ chúng thành củi. Chúng tôi vẫn còn lại hơn một nửa đống củi để đốt.
Mẹ vỗ nhè nhẹ lên bên cạnh, và tôi ngồi vào đó, nép mình vào mẹ, dựa đầu lên vai bà. “Con nhớ bố,” tôi nói.
“Mẹ cũng thế.”
“Con sợ mình sẽ quên mất hình ảnh của bố. Không phải trong những bức ảnh, mà là trong một buổi sáng thứ bảy đẹp trời nào đó, bố mặc bộ đồ nỉ, đi quanh bếp làm món trứng bác cho mẹ con mình…”
Mẹ đan những ngón tay vào tay tôi. “Con lúc nào cũng giống bố con như đúc ấy.”
“Thật không ạ?” Tôi nhổm dậy. “Giống thế nào ạ?”
“Bố con là một học sinh giỏi, rất thông minh. Ông ấy không quá bóng bẩy hay quá bộc trực, nhưng mọi người đều tôn trọng bố con.”
“Bố có bao giờ…bí ẩn không?”
Dường như mẹ tôi đang nghĩ đến điều này. “Những người bí ẩn thường có rất nhiều bí mật. Bố con thì rất cởi mở.”
“Bố có bất trị không?”
Bà bật ra tiếng cười ngắn đầy ngạc nhiên. “Con có thấy bố con như thế không? Harrison Grey, nhân viên kế toán có đạo đức nhất trên thế giới…mà bất trị ư?” Bà thở hổn hển một cách cường điệu. “Lạy Chúa! Bố con một thời từng để tóc dài. Nó gợn sóng và vàng hoe – y như một vận động viên lướt sóng vậy. Tất nhiên là đôi kính gọng sừng của bố con chẳng hợp chút nào với dáng vẻ đó. Mà…mẹ có được quyền hỏi vì sao chúng ta lại nói về chủ đề này không?”
Tôi không biết phải giải thích với mẹ ra sao về những cảm xúc mâu thuẫn của mình dành cho Patch. Tôi không biết phải giải thích ra sao về Patch, thế đấy. Có lẽ mẹ sẽ muốn nghe tôi kể chi tiết về bố mẹ cậu ta, điểm phẩy của cậu ta, những môn thể thao nào cậu ta chơi ở trường, và cậu ta định nộp đơn vào trường đại học nào. Tôi không muốn làm bà lo lắng bằng cách nói rằng tôi sẵn sàng đặt cược cả con lợn đất của mình để cá là Patch từng có tiền sự. “Có một cậu bạn,” tôi nói, không thể ngăn lại một nụ cười khi nghĩ đến Patch. “Gần đây bọn con hay đi cùng nhau. Chủ yếu là vì việc học.”
“Ô, một cậu bạn!” Bà bí ẩn nói. “Thế nào? Cậu ấy ở trong Câu lạc bộ Cờ vua hả? Hay là Hội sinh viên? Hay là đội tennis?”
“Cậu ấy thích bi-a,” tôi lạc quan nói.
“”Một vận động viên bơi lội à! Cậu ấy có dễ thương như Micheal Phelps? Dĩ nhiên, mẹ luôn nghiêng về Ryan Lochte khi xét đến yếu tố ngoại hình.” {Trong tiếng Anh, từ pool có nhiều nghĩa, nghĩa thứ nhất là trò bi-a, nghĩa thứ hai là hồ bơi.}
Tôi định đính chính lại lời mẹ. Nhưng nghĩ lại, có lẽ tốt nhất là không nên nói rõ ra. Bi-a, hồ bơi, bơi lội…cũng gần như nhau, phải không?
Bỗng chuông điện thoại reo và mẹ tôi vươn người qua ghế sofa để trả lời. Sau mười giây, bà ngồi phịch xuống ghế và vỗ tay lên trán. “Không, không sao đâu. Tôi sẽ qua đó, lấy nó, và sáng sớm mai sẽ mang nó đến.”
“Ông Hugo à mẹ?” Tôi hỏi sau khi bà gác máy. Hugo là sếp của mẹ tôi, và nói rằng ông ta là kẻ gọi điện luôn mồm vẫn còn là quá nhẹ. Có lần ông ta đã gọi mẹ tôi đi làm vào chủ nhật chỉ vì ông ta không biết sử dụng máy copy.
“Ông ấy để lại vài giấy tờ chưa hoàn thành ở văn phòng và cần mẹ xem xét. Mẹ phải copy chúng, nhưng mẹ sẽ không đi quá một tiếng đâu. Con làm xong bài chưa?”
“Chưa ạ.”
“Vậy mẹ có thể tự an ủi rằng dù mẹ ở nhà thì mẹ con ta cũng chẳng dành nhiều thời gian cho nhau được.” Bà thở dài và đứng lên. “Một tiếng nữa gặp lại con nhé?”
“Mẹ hãy đề nghị ông Hugo trả thêm tiền cho mẹ.”
Bà cười. “Thêm nhiều ấy chứ!”
Ngay khi chỉ còn lại một mình trong nhà, tôi dọn đĩa rếch khỏi bàn ăn để lấy chỗ đặt sách vở. Văn học, Lịch sử thế giới, Sinh học. Trang bị cho mình một cái bút chì số hai mới toanh, tôi giở cuốn sách trên cùng ra và bắt tay vào việc.
Mười lăm phút sau trí óc tôi bắt đầu nổi loạn, không chịu tiêu hóa thêm một đoạn lịch sử nói về nền phong kiến châu Âu. Không thể tin được. Ăn pizza và xem bóng rổ trên TV? Có lẽ, nhưng hình như không đúng lắm. Chơi cá cược và bi-a ở quán Bo’s? Có vẻ đó là một phán đoán đúng.
Không hiểu sao tôi lại rất muốn lái xe đến Bo’s như lần trước, nhưng ý nghĩ đó nhanh chóng lùi xa bởi một điều đơn giản là tôi không có thời gian. Mẹ sẽ về nhà trước khi tôi kịp thực hiện chuyến lái xe nửa tiếng đồng hồ đến đó. Chưa kể, Patch không phải là mẫu người để tôi có thể đi tìm. Trước đây, những cuộc gặp của chúng tôi đều diễn ra theo thời gian biểu của cậu ta, chứ không phải của tôi. Luôn là như vậy.
Tôi leo lên gác để thay bộ đồ thoải mái hơn. Tôi đẩy cửa phòng ngủ, bước ba bước vào phòng rồi chợt sững lại. Ngăn kéo tủ của tôi bị kéo xệch ra, quần áo vương vãi khắp nơi. Giường bị lột tung lên. Cửa tủ để đồ bị mở, xộc xà xộc xệch. Sách vở và khung ảnh bị vứt bừa trên sàn.
Tôi thấy bóng người chuyển động phía sau cửa sổ đằng sau bèn quay ngoắt lại. Hắn đứng dựa vào bức tường đằng sau tôi, từ đầu đến chân toàn đồ đen, đầu trùm mặt nạ kín mít. Óc tôi bị bao phủ trong một màn sương mù cuộn xoáy, nó vừa mới kịp truyền từ “chạy!” xuống đôi chân tôi thì hắn đã lao đến cửa sổ, mở nó rồi nhảy phốc ra ngoài.
Tôi nhảy ba bước một xuống cầu thang, chạy quanh thanh lan can rồi lao như bay trên hành lang vào bếp và ấn số 911.
Mười lăm phút sau một chiếc xe cảnh sát tấp vào lối xe chạy. Tôi run rẩy mở cửa và hai sĩ quan cảnh sát vào nhà. Viên sĩ quan bước vào đầu tiên thấp và chắc nịch với mái tóc muối tiêu. Người kia cao gầy với mái tóc đen gần bằng tóc Patch, nhưng được cắt ngắn quá tai. Thật lạ lùng, ông ta mơ hồ giống Patch. Nước da Địa Trung hải, khuôn mặt cân đối, đôi mắt sắc.
Họ tự giới thiệu bản thân – viên sĩ quan tóc đen là thám tử Basso. Đồng nghiệp của ông là thám tử Holstijic.
“Cháu là Nora Grey?” Thám tử Holstijic hỏi.
Tôi gật đầu.
“Bố mẹ cháu có nhà không?”
“Mẹ cháu vừa đi được vài phút thì cháu gọi cho 911.”
“Vậy cháu đang ở nhà một mình?”
Tôi lại gật đầu.
“Hãy kể cho chúng tôi chuyện vừa xảy ra đi!” Ông ta hỏi, khoanh tay và đứng dạng chân, trong khi thám tử Basso bước vài bước vào trong nhà và nhìn quanh.
“Cháu về nhà lúc tám giờ và làm một ít bài tập,” tôi nói. “Khi lên phòng ngủ, cháu đã thấy hắn. Mọi thứ bừa bộn khủng khiếp. Hắn đã phá tanh bành phòng cháu.”
“Cháu có nhận ra hắn không?”
“Hắn trùm mặt nạ kín. Mà lúc đó cháu lại chưa bật đèn.”
“Có dấu hiệu nổi bật nào không? Hình xăm chẳng hạn?”
“Không ạ.”
“Chiều cao? Cân nặng?”
Tôi miễn cưỡng lục tìm trong trí nhớ ngắn ngủi của mình. Tôi không muốn nhớ lại khoảng khắc đó, nhưng việc tôi nhớ ra được bất cứ manh mối nào là rất quan trọng. “Cân nặng trung bình, nhưng hơi cao. Gần bằng thám tử Basso.”
“Hắn có nói gì không?”
Tôi lắc đầu.
Thám tử Basso xuất hiện. “Mọi thứ ổn cả.” Nói rồi ông leo lên tầng hai. Ván sàn kêu cọt kẹt phía trên đầu khi ông đi dọc theo hành lang, mở và đóng các cánh cửa.
Thám tử Holstijic mở cửa trước và ngồi xuống kiểm tra chốt khóa. “Khi cháu về nhà, cửa có bị mở hay bị phá không?”
“Không ạ. Cháu đã mở khóa để vào. Mẹ cháu lúc đó đang ngủ trong phòng khách.”
Thám tử Basso xuất hiện trên đỉnh cầu thang. “Cháu chỉ cho chúng tôi thứ gì bị phá phách được không?”
Thám tử Holstijic và tôi cùng leo lên gác đến chỗ thám tử Basso, ông đang đứng ngay trong phòng ngủ của tôi với đôi tay chống nạnh, quan sát căn phòng.
Tôi đờ người ra, sống lưng lạnh toát. Giường tôi vẫn gọn gàng. Bộ đồ ngủ được xếp trên gối, nguyên vị trí như lúc tôi đặt chúng vào buổi sáng. Ngăn kéo tủ vẫn đóng, các khung ảnh được xếp ngay ngắn trên mặt tủ. Cái hòm ở chân giường cũng được đậy kín. Sàn nhà sạch sẽ. Rèm cửa sổ vẫn là những ô vải dài rủ xuống hai bên cánh cửa đang đóng.
“Cháu nói đã trông thấy kẻ xâm nhập?” Thám tử Basso hỏi và nhìn tôi chăm chăm với đôi mắt chăm chú không bỏ sót điều gì. Đôi mắt chuyên sàng lọc những lời nói dối.
Tôi bước vào phòng, nhưng nó không còn vẻ thoải mái và an toàn quen thuộc. Nó ẩn chứa một thông điệp ngầm đầy hiểm nguy. Tôi chỉ vào cửa sổ, cố giữ cho tay không run. “Cháu đi vào, thế là hắn nhảy qua cửa sổ.”
Thám tử Basso nhìn ra cửa sổ. “Quá xa mặt đất,” ông quan sát rồi cố mở nó ra. “Cháu có khóa cửa sổ sau khi hắn nhảy xuống không?”
“Không ạ. Cháu chạy xuống nhà và gọi 911.”
“Có người đã khóa nó.” Thám tử Basso vẫn nhìn tôi với đôi mắt sắc như dao cạo, miệng ông mím lại.
“Không thể tin nổi là có người lại thoát được sau một cú nhảy như thế,” thám tử Holstiji nói rồi đến bên người đồng nghiệp. “Quả là may mắn nếu hắn chạy thoát được với một cái chân gãy.”
“Có lẽ hắn không nhảy, có lẽ hắn đã trèo cây,” tôi nói.
Thám tử Basso quay ngoắt lại. “Nào? Vậy là thế nào? Hắn trèo hay nhảy? Hay là hắn đã xô vào cháu và chạy ra ngoài cửa trước? Nghe hợp lý đấy. Nếu là tôi thì tôi sẽ làm như vậy. Tôi sẽ hỏi một lần nữa. Hãy suy nghĩ thật cẩn thận. Tối nay cháu có thực sự thấy ai trong phòng mình không?”
Ông ta không tin tôi. Ông ta nghĩ tôi đang bịa chuyện. Trong một thoáng, tôi cũng muốn nghĩ như vậy. Tôi bị làm sao thế này? Sao thực tại của tôi cứ rối tinh như mớ bòng bong? Tại sao những sự thật không bao giờ ăn khớp với nhau? May mà tôi vẫn còn minh mẫn, và tôi tự nhủ vấn đề không phải đến từ bản thân mình. Là tại hắn. Cái kẻ trùm mặt nạ. Hắn đang làm thế này. Tôi không biết là bằng cách nào, nhưng chính hắn đã gây ra chuyện này.
Thám tử Holstijic phá vỡ không khí im lặng đầy căng thẳng bằng câu hỏi: “Bao giờ bố mẹ cháu về nhà?”
“Cháu sống với mẹ. Mẹ cháu phải ghé qua văn phòng một lát.”
“Bọn chú phải hỏi hai mẹ con cháu vài câu,” ông ta tiếp tục và ra hiệu cho tôi ngồi lên giường, nhưng tôi lặng lẽ lắc đầu. “Gần đây cháu có chia tay với bạn trai không?”
“Không ạ.”
“Ma túy thì sao? Cháu có từng dùng hay đang dùng ma túy không?”
“Không.”
“Cháu nói rằng cháu sống với mẹ. Thế còn bố cháu. Ông ấy đâu?”
“Chỉ là nhầm lẫn,” tôi nói. “Cháu xin lỗi. Đáng lẽ cháu không nên gọi điện.”
Hai sĩ quan nhìn nhau. Thám tử Holstijic nhắm mắt lại và xoa bóp đầu mắt. Thám tử Basso trông có vẻ như đã lãng phí quá đủ thời gian và đang sẵn sàng cáo lui.
“Chúng tôi còn có việc phải làm,” ông ta nói. “Cháu có thể ở nhà một mình cho đến khi mẹ cháu về không?”
Tôi hầu như không nghe thấy ông ta nói gì; tôi không thể rời mắt khỏi cửa sổ. Hắn đã làm thế nào? Mười lăm phút. Hắn có mười lăm phút để tìm cách quay trở vào trong và dọn dẹp lại căn phòng trước khi cảnh sát đến. Và suốt lúc đó tôi đang ở dưới nhà. Suốt lúc đó chỉ có riêng tôi và kẻ đáng sợ đó ở trong nhà với nhau! Tôi rùng mình.
Thám tử Holstijic đưa danh thiếp ra. “Khi nào mẹ cháu về, cháu bảo bà gọi điện cho chúng tôi được không?”
“Không cần tiễn đâu,” thám tử Basso nói. Ông ta đã đi được nửa hành lang.
Becca Fitzpatrick
Vết sẹo cánh thiên thần
Tôi quay về căn nhà trại lúc gần tám giờ. Tra chìa khóa vào ổ, tôi xoay nắm đấm và dùng hông huých vào cửa. Tôi đã gọi điện cho mẹ vài tiếng trước bữa tối; bà đang ở cơ quan để giải quyết vài công việc còn dở, không chắc sẽ về lúc nào, và tôi nghĩ khi về mình sẽ thấy ngôi nhà chìm trong yên ắng, tối tăm và lạnh lẽo.
Ở cú huých thứ ba, cánh cửa đành chịu thua, tôi ném mạnh túi xách vào trong bóng tối rồi giật mình chiếc chìa khóa vẫn còn cắm trong ổ. Từ buổi tối Patch đến đây, ổ khóa ngày càng dở chứng. Không biết lúc nãy Dorothea đã nhận ra điều này chưa.
“Trả-tao-cái-chìa-khóa-ngu-xuẩn-đây!!!” Tôi nổi cáu, cố lắc lắc nó ra.
Chiếc đồng hồ quả lắc trong hành lang điểm chuông, tám tiếng đinh đong lớn dội lại xuyên qua không gian tĩnh lặng. Tôi đang vào phòng khách để nhóm lửa lò sưởi thì phía bên kia căn phòng vang lên tiếng vải sột soạt và tiếng cọt kẹt khe khẽ.
Tôi thét lên.
“Nora!” Mẹ tôi nói, gạt chăn ra và lồm cồm ngồi dậy trên ghế sofa. “Có chuyện gì thế con?”
Tôi đặt một tay lên ngực còn tay kia bấu vào tường để giữ thăng bằng. “Mẹ làm con sợ!”
“Mẹ ngủ quên mất.” Bà vén tóc và chớp chớp mắt nghiêm nghị. “Mấy giờ rồi?”
Tôi thả mình xuống chiếc ghế bành gần nhất và cố hít thở đều để nhịp tim trở lại bình thường. Tôi đã nghĩ đến cặp mắt tàn nhẫn đằng sau chiếc mặt nạ trùm kín. Vì chắc chắn rằng hắn không phải là sản phẩm do trí tưởng tượng của tôi tạo ra, tôi bỗng dưng muốn kể cho mẹ nghe mọi chuyện, từ chuyện hắn lao vào chiếc Neon đến chuyện Vee bị tấn công. Hắn đang theo dõi tôi, cái kẻ hung bạo ấy! Chúng tôi phải thay khóa cửa mới. Và có thể phải nhờ đến sự can thiệp của cảnh sát. Vào ban đêm, tôi sẽ thấy an toàn hơn nhiều nếu có một sĩ quan đỗ xe bên lề đường.
“Mẹ định nói với con chuyện này,” mẹ nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi, “nhưng mẹ không biết lúc nào là thích hợp.”
Tôi cau mày. “Có chuyện gì thế ạ?”
Bà cất tiếng thở dài, băn khoăn. “Mẹ đang định bán căn nhà trại này.”
“Gì ạ? Tại sao ạ?”
“Mẹ con ta đã vật lộn kiếm sống một năm nay, và mẹ không kiếm được nhiều tiền như mong đợi. Mẹ đang định tìm việc làm thêm, nhưng thực sự mẹ không chắc mình có đủ thời gian để làm không.” Bà cười buồn. “Lương của Dorothea không nhiều, nhưng đó là khoản tiền phụ trội mà chúng ta khó có thể chi trả nữa. Điều duy nhất mẹ có thể nghĩ tới là chuyển đến một căn nhà nhỏ hơn. Hoặc một căn hộ chung cư.”
“Nhưng đây là nhà của chúng ta mà mẹ!” Tất cả các ký ức của tôi đều ở đây. Ký ức về bố tôi cũng ở đây. Tôi không thể tin nổi là mẹ lại không nghĩ về điều ấy. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được ở lại ngôi nhà yêu quý này.
“Mẹ sẽ đợi thêm ba tháng nữa,” bà nói. “Nhưng mẹ không muốn con nuôi hy vọng.”
Lúc đó tôi biết mình không thể kể cho bà nghe về kẻ trùm mặt nạ. Nếu không mai bà sẽ bỏ việc. Bà sẽ kiếm một công việc gần nhà, và lúc đó mẹ con tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bán căn nhà trại.
“Hãy nói về thứ gì đó tươi sáng hơn,” mẹ tôi nói và mỉm cười, “Bữa tối thế nào con?”
“Tốt ạ,” tôi buồn rầu nói.
“Còn Vee? Con bé thế nào rồi?”
“Mai nó đi học được rồi ạ.”
Mẹ tôi cười gượng. “May là nó chỉ bị gãy tay trái. Nếu không nó sẽ không thể viết bài được, và mẹ đã tưởng tượng ra điều đó sẽ khiến con bé thất vọng đến mức nào.”
“Ha, ha,” tôi nói. “Con đi pha socola nóng đây,” Tôi đứng dậy và chỉ tay vào bếp. “Mẹ muốn uống không?”
“Hay lắm, mẹ sẽ nhóm lửa.”
Sau một thoáng loay hoay trong bếp để lấy tách, đường cùng bột ca cao, tôi quay lại thì thấy mẹ đã đặt một ấm nước lên lò. Tôi ngồi ghé lên tay ghế sofa và đưa cho bà một cái tách.
“Làm sao mẹ biết được rằng mẹ yêu bố?” Tôi hỏi, cố ra vẻ tự nhiên. Hầu như lần nào nhắc đến bố, mẹ con tôi cũng sụt sùi nước mắt, tôi hy vọng lần này sẽ không thế.
Mẹ ngồi vào ghế sofa và gác chân lên. “Mẹ đã không biết. Cho đến khi bố mẹ lấy nhau được khoảng một năm.”
Đó không phải là câu trả lời mà tôi muốn nghe. “Vậy…sao mẹ lại lấy bố?”
“Vì mẹ đã tưởng là mẹ yêu bố con. Khi con nghĩ rằng con đang yêu, con sẽ sẵn sàng theo đuổi nó đến cùng và biến nó thành tình yêu thực sự.”
“Mẹ có sợ không?”
“Lấy bố con á?” Bà cười. “Đó là một điều thú vị. Đi mua váy cưới, đặt chỗ ở nhà thờ, đeo chiếc nhẫn nạm duy nhất một viên kim cương.”
Tôi hình dung ra nụ cười ranh mãnh của Patch. “Mẹ có bao giờ sợ bố không?”
“Mỗi khi đội New England Patriost thua thôi!”
Mỗi khi đội Patriost thua, bố tôi lại vào ga-ra và khởi động cưa xích. Hai mùa thu trước, ông đã lôi cái cưa xích vào khu rừng sau nhà tôi, đốn mười cái cây rồi chẻ chúng thành củi. Chúng tôi vẫn còn lại hơn một nửa đống củi để đốt.
Mẹ vỗ nhè nhẹ lên bên cạnh, và tôi ngồi vào đó, nép mình vào mẹ, dựa đầu lên vai bà. “Con nhớ bố,” tôi nói.
“Mẹ cũng thế.”
“Con sợ mình sẽ quên mất hình ảnh của bố. Không phải trong những bức ảnh, mà là trong một buổi sáng thứ bảy đẹp trời nào đó, bố mặc bộ đồ nỉ, đi quanh bếp làm món trứng bác cho mẹ con mình…”
Mẹ đan những ngón tay vào tay tôi. “Con lúc nào cũng giống bố con như đúc ấy.”
“Thật không ạ?” Tôi nhổm dậy. “Giống thế nào ạ?”
“Bố con là một học sinh giỏi, rất thông minh. Ông ấy không quá bóng bẩy hay quá bộc trực, nhưng mọi người đều tôn trọng bố con.”
“Bố có bao giờ…bí ẩn không?”
Dường như mẹ tôi đang nghĩ đến điều này. “Những người bí ẩn thường có rất nhiều bí mật. Bố con thì rất cởi mở.”
“Bố có bất trị không?”
Bà bật ra tiếng cười ngắn đầy ngạc nhiên. “Con có thấy bố con như thế không? Harrison Grey, nhân viên kế toán có đạo đức nhất trên thế giới…mà bất trị ư?” Bà thở hổn hển một cách cường điệu. “Lạy Chúa! Bố con một thời từng để tóc dài. Nó gợn sóng và vàng hoe – y như một vận động viên lướt sóng vậy. Tất nhiên là đôi kính gọng sừng của bố con chẳng hợp chút nào với dáng vẻ đó. Mà…mẹ có được quyền hỏi vì sao chúng ta lại nói về chủ đề này không?”
Tôi không biết phải giải thích với mẹ ra sao về những cảm xúc mâu thuẫn của mình dành cho Patch. Tôi không biết phải giải thích ra sao về Patch, thế đấy. Có lẽ mẹ sẽ muốn nghe tôi kể chi tiết về bố mẹ cậu ta, điểm phẩy của cậu ta, những môn thể thao nào cậu ta chơi ở trường, và cậu ta định nộp đơn vào trường đại học nào. Tôi không muốn làm bà lo lắng bằng cách nói rằng tôi sẵn sàng đặt cược cả con lợn đất của mình để cá là Patch từng có tiền sự. “Có một cậu bạn,” tôi nói, không thể ngăn lại một nụ cười khi nghĩ đến Patch. “Gần đây bọn con hay đi cùng nhau. Chủ yếu là vì việc học.”
“Ô, một cậu bạn!” Bà bí ẩn nói. “Thế nào? Cậu ấy ở trong Câu lạc bộ Cờ vua hả? Hay là Hội sinh viên? Hay là đội tennis?”
“Cậu ấy thích bi-a,” tôi lạc quan nói.
“”Một vận động viên bơi lội à! Cậu ấy có dễ thương như Micheal Phelps? Dĩ nhiên, mẹ luôn nghiêng về Ryan Lochte khi xét đến yếu tố ngoại hình.” {Trong tiếng Anh, từ pool có nhiều nghĩa, nghĩa thứ nhất là trò bi-a, nghĩa thứ hai là hồ bơi.}
Tôi định đính chính lại lời mẹ. Nhưng nghĩ lại, có lẽ tốt nhất là không nên nói rõ ra. Bi-a, hồ bơi, bơi lội…cũng gần như nhau, phải không?
Bỗng chuông điện thoại reo và mẹ tôi vươn người qua ghế sofa để trả lời. Sau mười giây, bà ngồi phịch xuống ghế và vỗ tay lên trán. “Không, không sao đâu. Tôi sẽ qua đó, lấy nó, và sáng sớm mai sẽ mang nó đến.”
“Ông Hugo à mẹ?” Tôi hỏi sau khi bà gác máy. Hugo là sếp của mẹ tôi, và nói rằng ông ta là kẻ gọi điện luôn mồm vẫn còn là quá nhẹ. Có lần ông ta đã gọi mẹ tôi đi làm vào chủ nhật chỉ vì ông ta không biết sử dụng máy copy.
“Ông ấy để lại vài giấy tờ chưa hoàn thành ở văn phòng và cần mẹ xem xét. Mẹ phải copy chúng, nhưng mẹ sẽ không đi quá một tiếng đâu. Con làm xong bài chưa?”
“Chưa ạ.”
“Vậy mẹ có thể tự an ủi rằng dù mẹ ở nhà thì mẹ con ta cũng chẳng dành nhiều thời gian cho nhau được.” Bà thở dài và đứng lên. “Một tiếng nữa gặp lại con nhé?”
“Mẹ hãy đề nghị ông Hugo trả thêm tiền cho mẹ.”
Bà cười. “Thêm nhiều ấy chứ!”
Ngay khi chỉ còn lại một mình trong nhà, tôi dọn đĩa rếch khỏi bàn ăn để lấy chỗ đặt sách vở. Văn học, Lịch sử thế giới, Sinh học. Trang bị cho mình một cái bút chì số hai mới toanh, tôi giở cuốn sách trên cùng ra và bắt tay vào việc.
Mười lăm phút sau trí óc tôi bắt đầu nổi loạn, không chịu tiêu hóa thêm một đoạn lịch sử nói về nền phong kiến châu Âu. Không thể tin được. Ăn pizza và xem bóng rổ trên TV? Có lẽ, nhưng hình như không đúng lắm. Chơi cá cược và bi-a ở quán Bo’s? Có vẻ đó là một phán đoán đúng.
Không hiểu sao tôi lại rất muốn lái xe đến Bo’s như lần trước, nhưng ý nghĩ đó nhanh chóng lùi xa bởi một điều đơn giản là tôi không có thời gian. Mẹ sẽ về nhà trước khi tôi kịp thực hiện chuyến lái xe nửa tiếng đồng hồ đến đó. Chưa kể, Patch không phải là mẫu người để tôi có thể đi tìm. Trước đây, những cuộc gặp của chúng tôi đều diễn ra theo thời gian biểu của cậu ta, chứ không phải của tôi. Luôn là như vậy.
Tôi leo lên gác để thay bộ đồ thoải mái hơn. Tôi đẩy cửa phòng ngủ, bước ba bước vào phòng rồi chợt sững lại. Ngăn kéo tủ của tôi bị kéo xệch ra, quần áo vương vãi khắp nơi. Giường bị lột tung lên. Cửa tủ để đồ bị mở, xộc xà xộc xệch. Sách vở và khung ảnh bị vứt bừa trên sàn.
Tôi thấy bóng người chuyển động phía sau cửa sổ đằng sau bèn quay ngoắt lại. Hắn đứng dựa vào bức tường đằng sau tôi, từ đầu đến chân toàn đồ đen, đầu trùm mặt nạ kín mít. Óc tôi bị bao phủ trong một màn sương mù cuộn xoáy, nó vừa mới kịp truyền từ “chạy!” xuống đôi chân tôi thì hắn đã lao đến cửa sổ, mở nó rồi nhảy phốc ra ngoài.
Tôi nhảy ba bước một xuống cầu thang, chạy quanh thanh lan can rồi lao như bay trên hành lang vào bếp và ấn số .
Mười lăm phút sau một chiếc xe cảnh sát tấp vào lối xe chạy. Tôi run rẩy mở cửa và hai sĩ quan cảnh sát vào nhà. Viên sĩ quan bước vào đầu tiên thấp và chắc nịch với mái tóc muối tiêu. Người kia cao gầy với mái tóc đen gần bằng tóc Patch, nhưng được cắt ngắn quá tai. Thật lạ lùng, ông ta mơ hồ giống Patch. Nước da Địa Trung hải, khuôn mặt cân đối, đôi mắt sắc.
Họ tự giới thiệu bản thân – viên sĩ quan tóc đen là thám tử Basso. Đồng nghiệp của ông là thám tử Holstijic.
“Cháu là Nora Grey?” Thám tử Holstijic hỏi.
Tôi gật đầu.
“Bố mẹ cháu có nhà không?”
“Mẹ cháu vừa đi được vài phút thì cháu gọi cho .”
“Vậy cháu đang ở nhà một mình?”
Tôi lại gật đầu.
“Hãy kể cho chúng tôi chuyện vừa xảy ra đi!” Ông ta hỏi, khoanh tay và đứng dạng chân, trong khi thám tử Basso bước vài bước vào trong nhà và nhìn quanh.
“Cháu về nhà lúc tám giờ và làm một ít bài tập,” tôi nói. “Khi lên phòng ngủ, cháu đã thấy hắn. Mọi thứ bừa bộn khủng khiếp. Hắn đã phá tanh bành phòng cháu.”
“Cháu có nhận ra hắn không?”
“Hắn trùm mặt nạ kín. Mà lúc đó cháu lại chưa bật đèn.”
“Có dấu hiệu nổi bật nào không? Hình xăm chẳng hạn?”
“Không ạ.”
“Chiều cao? Cân nặng?”
Tôi miễn cưỡng lục tìm trong trí nhớ ngắn ngủi của mình. Tôi không muốn nhớ lại khoảng khắc đó, nhưng việc tôi nhớ ra được bất cứ manh mối nào là rất quan trọng. “Cân nặng trung bình, nhưng hơi cao. Gần bằng thám tử Basso.”
“Hắn có nói gì không?”
Tôi lắc đầu.
Thám tử Basso xuất hiện. “Mọi thứ ổn cả.” Nói rồi ông leo lên tầng hai. Ván sàn kêu cọt kẹt phía trên đầu khi ông đi dọc theo hành lang, mở và đóng các cánh cửa.
Thám tử Holstijic mở cửa trước và ngồi xuống kiểm tra chốt khóa. “Khi cháu về nhà, cửa có bị mở hay bị phá không?”
“Không ạ. Cháu đã mở khóa để vào. Mẹ cháu lúc đó đang ngủ trong phòng khách.”
Thám tử Basso xuất hiện trên đỉnh cầu thang. “Cháu chỉ cho chúng tôi thứ gì bị phá phách được không?”
Thám tử Holstijic và tôi cùng leo lên gác đến chỗ thám tử Basso, ông đang đứng ngay trong phòng ngủ của tôi với đôi tay chống nạnh, quan sát căn phòng.
Tôi đờ người ra, sống lưng lạnh toát. Giường tôi vẫn gọn gàng. Bộ đồ ngủ được xếp trên gối, nguyên vị trí như lúc tôi đặt chúng vào buổi sáng. Ngăn kéo tủ vẫn đóng, các khung ảnh được xếp ngay ngắn trên mặt tủ. Cái hòm ở chân giường cũng được đậy kín. Sàn nhà sạch sẽ. Rèm cửa sổ vẫn là những ô vải dài rủ xuống hai bên cánh cửa đang đóng.
“Cháu nói đã trông thấy kẻ xâm nhập?” Thám tử Basso hỏi và nhìn tôi chăm chăm với đôi mắt chăm chú không bỏ sót điều gì. Đôi mắt chuyên sàng lọc những lời nói dối.
Tôi bước vào phòng, nhưng nó không còn vẻ thoải mái và an toàn quen thuộc. Nó ẩn chứa một thông điệp ngầm đầy hiểm nguy. Tôi chỉ vào cửa sổ, cố giữ cho tay không run. “Cháu đi vào, thế là hắn nhảy qua cửa sổ.”
Thám tử Basso nhìn ra cửa sổ. “Quá xa mặt đất,” ông quan sát rồi cố mở nó ra. “Cháu có khóa cửa sổ sau khi hắn nhảy xuống không?”
“Không ạ. Cháu chạy xuống nhà và gọi .”
“Có người đã khóa nó.” Thám tử Basso vẫn nhìn tôi với đôi mắt sắc như dao cạo, miệng ông mím lại.
“Không thể tin nổi là có người lại thoát được sau một cú nhảy như thế,” thám tử Holstiji nói rồi đến bên người đồng nghiệp. “Quả là may mắn nếu hắn chạy thoát được với một cái chân gãy.”
“Có lẽ hắn không nhảy, có lẽ hắn đã trèo cây,” tôi nói.
Thám tử Basso quay ngoắt lại. “Nào? Vậy là thế nào? Hắn trèo hay nhảy? Hay là hắn đã xô vào cháu và chạy ra ngoài cửa trước? Nghe hợp lý đấy. Nếu là tôi thì tôi sẽ làm như vậy. Tôi sẽ hỏi một lần nữa. Hãy suy nghĩ thật cẩn thận. Tối nay cháu có thực sự thấy ai trong phòng mình không?”
Ông ta không tin tôi. Ông ta nghĩ tôi đang bịa chuyện. Trong một thoáng, tôi cũng muốn nghĩ như vậy. Tôi bị làm sao thế này? Sao thực tại của tôi cứ rối tinh như mớ bòng bong? Tại sao những sự thật không bao giờ ăn khớp với nhau? May mà tôi vẫn còn minh mẫn, và tôi tự nhủ vấn đề không phải đến từ bản thân mình. Là tại hắn. Cái kẻ trùm mặt nạ. Hắn đang làm thế này. Tôi không biết là bằng cách nào, nhưng chính hắn đã gây ra chuyện này.
Thám tử Holstijic phá vỡ không khí im lặng đầy căng thẳng bằng câu hỏi: “Bao giờ bố mẹ cháu về nhà?”
“Cháu sống với mẹ. Mẹ cháu phải ghé qua văn phòng một lát.”
“Bọn chú phải hỏi hai mẹ con cháu vài câu,” ông ta tiếp tục và ra hiệu cho tôi ngồi lên giường, nhưng tôi lặng lẽ lắc đầu. “Gần đây cháu có chia tay với bạn trai không?”
“Không ạ.”
“Ma túy thì sao? Cháu có từng dùng hay đang dùng ma túy không?”
“Không.”
“Cháu nói rằng cháu sống với mẹ. Thế còn bố cháu. Ông ấy đâu?”
“Chỉ là nhầm lẫn,” tôi nói. “Cháu xin lỗi. Đáng lẽ cháu không nên gọi điện.”
Hai sĩ quan nhìn nhau. Thám tử Holstijic nhắm mắt lại và xoa bóp đầu mắt. Thám tử Basso trông có vẻ như đã lãng phí quá đủ thời gian và đang sẵn sàng cáo lui.
“Chúng tôi còn có việc phải làm,” ông ta nói. “Cháu có thể ở nhà một mình cho đến khi mẹ cháu về không?”
Tôi hầu như không nghe thấy ông ta nói gì; tôi không thể rời mắt khỏi cửa sổ. Hắn đã làm thế nào? Mười lăm phút. Hắn có mười lăm phút để tìm cách quay trở vào trong và dọn dẹp lại căn phòng trước khi cảnh sát đến. Và suốt lúc đó tôi đang ở dưới nhà. Suốt lúc đó chỉ có riêng tôi và kẻ đáng sợ đó ở trong nhà với nhau! Tôi rùng mình.
Thám tử Holstijic đưa danh thiếp ra. “Khi nào mẹ cháu về, cháu bảo bà gọi điện cho chúng tôi được không?”
“Không cần tiễn đâu,” thám tử Basso nói. Ông ta đã đi được nửa hành lang.
Becca Fitzpatrick
Vết sẹo cánh thiên thần