Một nụ cười nở trên mặt Jenny khi nàng đứng ở cửa sổ mở ra ban công, nhìn xuống sân lâu đài, trái tim nàng ngập tràn những kỉ niệm đêm qua. Căn cứ theo góc độ của mặt trời thì lúc đó đã là gần trưa, và nàng chỉ mới tỉnh dậy gần một giờ trước - đây là lần nàng dậy muộn nhất từ xưa tới nay.
Royce đã làm tình với nàng rất lâu và nhiều lần sáng nay, lần này với sự dịu dàng cực kì tinh tế và thận trọng khiến cho ngay cả lúc này mà mạch máu của Jenny vẫn loạn nhịp. Chàng không hề nói với nàng rằng chàng yêu nàng, nhưng chàng đã yêu nàng - ngay cả một người thiếu kinh nghiệm tình trường như nàng cũng có thể nhận ra, và nàng chắc chắn về điều đó. Còn có thể vì cái gì khác được khiến cho chàng hứa với nàng một điều như thế? Hay là chăm sóc nàng đến thế khi nàng ở trên giường của chàng?
Mải miết trong suy nghĩ, Jenny không hề biết Agnes đã vào trong phòng. Nụ cười vẫn còn vương trong mắt nàng, Jenny quay lại phía người hầu đang cầm trên tay một bộ váy áo chữa vội nữa cho nàng, bộ này làm bằng vải ca sơ mia mềm mại màu kem. Mặc kệ vẻ nghiêm nghị, khó chịu của cô hầu, Jenny đã dứt khoát sẽ vượt qua mọi rào cản và kết bạn với những người hầu của nàng. Chắc chắn nếu nàng đã có thể làm mềm lòng một con sói, thì không có gì khó khăn trong việc kết bạn với người hầu cả.
Tìm kiếm điều gì đó để nói với cô hầu, nàng nhận bộ váy rồi chú ý đến cái bồn đặt trong góc phòng. Túm lấy đề tài có vẻ an toàn đó, nàng nói, “Cái bồn này đủ lớn cho bốn đến năm người ấy nhỉ. Ở nhà, chúng ta hoặc là tắm trên hồ, hoặc là tắm trong một cái chậu gỗ nhỏ chỉ chứa đủ nước đến bụng mà thôi.”
“Đây là nước Anh, thưa phu nhân,” Agnes trả lời khi cô ta nhặt lên bộ váy mà Jenny đã mặc tối qua. Jenny giật mình liếc mắt nhìn cô ta, không chắc chắn liệu giọng điệu của nàng có bị cho là kẻ cả hay không.
“Chẳng lẽ tất cả những ngôi nhà lớn ở nước Anh đều có những cái bồn tắm rộng như thế này và một lò sưởi thật sự và-” nàng giơ tay lên và làm thành một cử chỉ quét qua cả căn phòng xa hoa lộng lẫy với những màn nhung và thảm dày trải khắp sàn nhà, “và tất cả những thứ như thế này -?”
“Không, thưa phu nhân. Nhưng phu nhân đang ở Claymore, và Ông Albert - tổng quản ở đây và cũng đã là tổng quản cho chủ cũ - được lệnh phải giữ cho Claymore thích hợp với một vị vua. Các đồ bằng bạc được đánh bóng mỗi tuần, và không có một chút bụi nào được phép lưu trên các tấm màn, cũng như trên sàn nhà. Và nếu có gì đó bị hỏng, nó sẽ bị vứt đi ngay lập tức để thay thế cái mới.
“Chắc hẳn phải cần rất nhiều công sức thì mới giữ cho nó hoàn hảo đến thế,” Jenny nhận xét.
“Vâng, nhưng chủ nhân mới đã bảo Ông Albert những việc phải làm, và Ông Albert, một người cứng rắn, kiêu hãnh như ông ấy, sẽ làm những gì được bảo - bất kể trong lòng ông cảm thấy như thế nào về những việc đó.”
Lời nhận xét đáng chú ý cuối cùng nhuốm nhiều cay đắng và oán giận đến nỗi Jenny không thể tin là nàng đã nghe chính xác. Đôi lông mày nàng nhíu lại khi nàng đi vòng quanh để nhìn rõ hơn người hầu gái. “Agnes, ý cô là gì?”
Agnes rõ ràng là đã nhận ra cô ta nói quá nhiều, bởi vì cô ta trở nên trắng bệch và cứng ngắc, nhìn chằm chằm vào Jenny bằng đôi mắt sợ hãi. “Tôi không có ý gì cả, thưa phu nhân. Không có gì.! Tất cảchúng tôi đều rất tự hào vì chủ nhân mới đã trở về nhà, và nếu tất cả những kẻ thù của ngài ấy tới đây, chắc chắn là chúng sẽ tới, chúng tôi sẽ tự hào được dâng hết lương thực và sức người và con cái chúng tôi cho những trận chiến của ngài. Tự hào!” cô ta nói bằng giọng trầm, cực kì tuyệt vọng vẫn còn chứa đầy oán giận. “Chúng tôi là những thần dân tốt, trung thành, và không hề có những ý nghĩ xấu về chủ nhân vì những gì ngài ấy đã làm. Và chúng tôi cũng hi vọng ngài ấy không nghĩ xấu về chúng tôi.”
“Agnes,” Jenny khẽ nói, “cô không cần phải sợ ta. Tasẽ không phản bội lại những điều cô đã nói. Cô nói ‘những việc ngài ấy đã làm’ là ý gì?”
Người phụ nữ khốn khổ run mạnh đến nỗi khi Royce mở cửa và thò đầu vào trong để nhắc Jenny cùng chàng đi xuống nhà ăn trưa, thì Agnes đánh rơi bộ váy nhung. Chộp lấy nó, cô ta ào ra khỏi phòng. Nhưng khi cô ta kéo cánh cửa gỗ sồi nặng nề ra, cô ta liếc về phía Royce, và lần này Jennifer chắc chắn nhìn thấy cô ta làm dấu thánh một lần nữa.
Vẫn cầm bộ váy ca sơ mia trên tay, Jenny nhìn đăm đăm vào cánh cửa đóng, trán nàng nhăn lại suy tư.
Đại sảnh không còn mấy dấu vết của cuộc vui đêm qua; cái bàn dài chiếm hết cả căn phòng đã được dỡ xuống và dời đi. Thực ra, tàn dư duy nhất của bữa tiệc đêm qua là khoảng một tá hiệp sĩ vẫn còn đang ngủ trên những cái ghế dài dọc các bức tường, tiếng ngáy của họ trồi lên trụt xuống đều đặn. Bất chấp không khí rộn ràng này, Jenny để ý với một chút cảm thông là những người hầu di chuyển rất chậm chạp, và hơn một người đã không tránh được cú đá thẳng cánh từ một hiệp sĩ càu nhàu trên ghế băng, khi anh ta không muốn giấc ngủ bị làm phiền.
Royce nhìn lên khi Jennifer tới bàn ăn và nhẹ nhàng, duyên dáng dứng bật dậy như một con mèo, khả năng này luôn làm nàng thấy ngưỡng mộ. “Chào buổi sáng,” chàng nói bằng giọng trầm, thân mật. “Ta tin là nàng ngủ rất ngon?”
“Vâng, rất ngon,” Jenny nói thì thào vì xấu hổ, nhưng đôi mắt nàng rạng rỡ và long lanh khi nàng ngồi xuống bên cạnh chàng.
“Chào cháu, cháu yêu quí!” Bà dì Elinor líu lo vui vẻ, khi bà nhìn lên lúc đang cắt một miếng thịt nhỏ nhắn từ cái đĩa thịt lạnh ngắt trước mặt bà. “Sáng nay trông cháu có vẻ rất vui.”
“Cháu chào bà, Bà Elinor,” Jenny nói, gửi cho bà một nụ cười trấn an; rồi nàng bối rối nhìn lên nhìn xuống cái bàn khắp những người đàn ông im lặng đang có mặt: Stefan, Ngài Godfrey, Ngài Lionel, Ngài Eustace, Arik, và Cha Gregory. Nhận thức được sự im ắng lạ kì và những đôi mắt cúi gằm của họ, nàng nói với một nụ cười dè dặt, “Chào buổi sáng, mọi người.”
Năm gương mặt chậm rãi ngẩng lên nhìn nàng - những khuôn mặt nhợt nhạt, không thoải mái trong đó biểu hiện biến đổi từ đau đớn thẫn thờ cho đến bối rối mụ mị. “Chào buổi sáng, phu nhân,” họ nhắc lại một cách lịch sự, nhưng ba người nhăn nhó và hai người khác lấy tay che mắt. Chỉ có Arik là vẫn có vẻ bình thường sáng nay, tức là chẳng có biểu hiện gì cả, và hoàn toàn không nói một câu nào với bất kì ai. Hoàn toàn lờ anh ta đi, Jenny nhìn vào Cha Gregory, người dường như cũng chẳng khoẻ khoắn hơn những người khác là bao, rồi nàng nhìn vào Royce. “Chuyện gì xảy ra với bọn họ thế?” nàng hỏi.
Royce lấy cho mình một ổ bánh mỳ trắng và thịt nguội đặt trên bàn, và những người đàn ông miễn cưỡng làm theo. “Họ đang phải trả giá cho trận nhậu bí tỉ đêm qua và những cô ha- à, say xỉn,” Royce chữa lại, mỉm cười.
Jenny ngạc nhiên liếc nhìn Cha Gregory, ông ta vừa nâng một li rượu lên môi. “Cả Cha nữa ư, Cha Gregory?” nàng hỏi, và người đàn ông tội nghiệp bị sặc rượu.
“Ta mắc lỗi thứ nhất, phu nhân,” ông ta lắp bắp tủi hổ, “nhưng ta hoàn toàn không liên quan gì đến tội lỗi sau.”
Jenny không để ý đến những lời mà Royce đã nhanh chóng nuốt lại, nhìn cha xứ một cách bối rối, nhưng Bà dì Elinor nói lảnh lót, “Ta đã lường trước được sự bê bối này, cháu yêu ạ, và sáng sớm nay, ta đã đi xuống nhà bếp để chuẩn bị một liều thuốc bổ, nhưng ta chẳng tìm thấy đến một nhúm nghệ tây!”
Lời nhận xét về nhà bếp ngay lập tức khiến Royce chú ý, và lần đầu tiên chàng nhìn Bà dì Elinor với vẻ quan tâm. “Bà có thấy nhà bếp của ta còn thiếu những thứ gì khác không - những thứ có thể làm cho tất cả những thứ này-” chàng chỉ vào thứ súp nhạt nhẽo còn thừa từ tối qua, “vừa miệng hơn?”
“Chắc chắn rồi, công tước,” bà trả lời ngay lập tức. “Ta hơi kinh ngạc trước một cái bếp nghèo nàn ghê gớm đến thế. Có lá hương thảo và húng tây, nhưng lại không có nho khô, hay là gừng, cũng không có mâm xôi và những thứ khác[2] nữa. Và ta không hề nhìn thấy một loại hạt nào, trừ một hạt dẻ mốc meo! Các loại hạt là những thứ gia vị tuyệt vời cho các loại nước sốt ngon lành và các món điểm tâm tuyệt cú-”
[2] Chỗ này còn kể một loạt canel, oregano blah blah nữa nhưng chịu chết chẳng biết nó là loại gia vị gì, hị hị.
Ngay khi nhắc đến “các loại nước sốt ngon lành và các món điểm tâm tuyệt cú”, Bà dì Elinor lập tức trở thành tâm điểm chú ý của đám đàn ông. Chỉ có Arik vẫn điềm nhiên không quan tâm, tỏ ra thích thú với món thịt ngỗng lạnh ngắt anh ta đang ăn hơn là nước sốt béo và các món điểm tâm.
“Nói tiếp đi,” Royce mời bà, đôi mắt tính toán của chàng nhìn xoáy vào bà với sự vui thích chăm chú. “Bà có thể làm được những món gì - giả như khi đã có đủ các loại nguyên liệu cần thiết, tất nhiên?”
“Chà, để ta nghĩ,” bà nói, trán bà hơi nhăn nhó. “Cả thập kỉ rồi ta không điều khiển một căn bếp như khi ta làm trong lâu đài đáng yêu của chính mình, nhưng - đúng rồi, có món bánh thịt nướng vỏ cứng giòn tan và đáng yêu khi chúng tan trong miệng ta; và - lấy ví dụ món gà mà anh đang ăn,” bà nói với Ngài Godfrey, hài lòng với vị trí chuyên gia mới giành được của bà. “Thay vì nướng trên cái xiên và dọn ra khô và cứng như miếng vải thế kia, đáng lẽ nó nên được ninh cùng với một nửa nước suýt, một nửa rượu, cùng với cây đinh hương, vỏ nhục đậu khấu, thì là và hạt tiêu, rồi đặt trên một cái mâm để cho nước sốt thấm vào làm bánh mỳ tăng hương vị.
“Và có rất nhiều món có thể làm với hoa quả như táo, lê, và quả mộc qua, nhưng ta cần thêm mật ong và quả hạnh và quả chà là để lên men và, cả mâm xôi nữa, nhưng như ta đã nói, chẳng thể tìm thấy một chút gì trong cái căn bếp đó cả.”
Royce nhìn bà chăm chú, món ngỗng hoàn toàn bị quên lãng. “Liệu bà có thể tìm thấy những thứ mà bà cần ở Claymore hay có lẽ trong chợ làng được không?”
“Phần lớn, ta nghĩ vậy,” Bà dì Elinor nhanh chóng trả lời.
“Trong trường hợp đó,” Royce nói bằng giọng ban bố sắc lệnh, “việc bếp núc bây giờ thuộc quyền bà, và chúng ta đều trông mong những bữa ăn ngon miệng trong tương lai.” Liếc về phìa Ông Albert Prisham, người đang đứng gần cái bàn, Royce đứng dậy và thông báo với ông ta, “Ta vừa giao việc cai quản bếp núc cho Quí bà Elinor.”
Khuôn mặt gầy nhẳng của lão tổng quản thận trọng không biểu hiện điều gì, và ông ta cúi đầu lịch sự, nhưng bàn tay đặt trên cây gậy trắng nắm lại thành một nắm đấm khi ông ta đáp, “Như tôi đã nói, thức ăn rất ít quan trọng với tôi.”
“Ấy, nó phải là thứ cực kì quan trọng với ông, Ông Albert,” Bà Elinor thông báo với ông ta một cách trịnh trọng, “vì ông toàn ăn những thứ không đúng. Những người mắc bệnh gút không bao giờ nên ăn củ cải, những thức ăn béo, và pho mát cứng.”
Khuôn mặt ông ta cứng lại. “Tôi không mắc bệnh gút, thưa bà.”
“Rồi ông sẽ mắc!” Bà dì Elinor tiên đoán khi cả bà cũng đứng dậy, sẵn sàng bắt đầu cuộc săn lùng nguyên liệu trong vườn và rừng cây.
Ông Albert lờ bà đi và nói với chủ nhân của ông ta, “Nếu ngài đã sẵn sàng để bắt đầu chuyến đi thăm lãnh địa, chúng ta cần đi ngay lập tức.” Và khi Royce gật đầu, ông ta nói thêm một cách lạnh lùng, “Tôi tin rằng ngài sẽ không thấy ở đâu khác ngoài căn bếp mà thiếu sự quản lí của tôi.”
Royce ném cho ông ta một cái nhìn kì lạ, sắc lẻm, rồi chàng cười với Jenny và lịch sự hôn vào má nàng, nhưng chàng thì thầm trong tai nàng, “ta đề nghị nàng hãy ngủ trưa thật lâu, bởi vì ta đã định sẽ lại giữ nàng thức suốt đêm.”
Jenny cảm thấy hơi nóng bốc lên hai má nàng khi Arik đứng dậy, rõ ràng là định ở bên cạnh Royce trong chuyến đi thị sát. Royce ngăn anh ta lại. “Hãy đi theo Bà Elinor trong cuộc thám hiểm của bà ấy,” chàng nói, rồi với giọng hàm ý, kì cục chàng nói tiếp, “và không để điều gì thất lễ xảy ra nhé.”
Khuôn mặt Arik đông cứng lại trước mệnh lệnh rõ ràng bắt anh ta phải hộ tống một bà già. Anh ta bước đi, toát ra vẻ oán giận và bị xúc phạm, trong khi Bà Elinor vui vẻ đuổi theo bước chân anh ta. “Chúng ta sẽ có khoảng thời gian vui vẻ, chàng trai ạ,” bà nói một cách háo hức, “mặc dù việc này có thể mất vàingày, chứ không chỉ một đâu, vì chúng ta cần toàn bộ nguyên liệu cho các loại thuốc uống và thuốc bôi của ta, cũng như các loại gia vị cho thức ăn. Ta sẽ cần cây đinh hương để làm mềm cơ bắp, và nhục đậu khấu nữa, tất nhiên rồi! Anh biết đấy, nhục đậu khấu ngăn ngừa cơn đau bụng, cũng như các cơn tiêu chảy - và rồi cả hạt nhục đậu khấu, rất có hiệu quả đối với một lá lách yếu và bị lạnh. Và ta sẽ đặc biệt chăm sóc bữa ăn cho anh, vì anh không khoẻ, anh biết không. Anh lúc nào cũng có tâm trạng ủ dột - ta đã để ý ngay lập tức...”
Ngài Eustace nhìn khắp các hiệp sĩ khác, cười tinh quái. “Lionel,” anh ta kêu to lên đủ để tên khổng lồ đang đi cũng nghe thấy, “anh có thấy là Arik của chúng ta lúc này trông “ủ dột” hay không? Hay là ‘tức khí’ mới đúng?”
Ngài Lional dừng nhai và quan sát cái lưng rộng cứng ngắc của Arik, đôi mắt ánh lên vui vẻ khi anh ta đáp lời sau một giây cân nhắc, “Arik trông tức điên.”
Ngài Godfrey vươn người dậy để tự mình nhìn. “Bị bắt nạt,” anh ta kết luận.
“Bị đau bụng,” Stefan Westmoreland nói thêm với một nụ cười. Chia sẻ sự thân mật, những người đàn ông nhìn về phía Jennifer, mời nàng tham gia trò vui của họ, nhưng nàng không cần phải từ chối bởi vì ngay lúc đó, Arik đã quay lại và ném một cái nhìn đen tối về phía bọn người đang tụ tập, cái nhìn có thể nghiền nát một tảng đá và dễ dàng hù doạ phần lớn những người đàn ông. Không may là, nó lại phản tác dụng trước các hiệp sĩ, họ nhìn trả lại anh ta và phá lên cười, tiếng cười của họ thoát ra khỏi những bức tường và vang mãi theo bước chân Arik ra ngoài trời.
Chỉ có chàng trai trẻ Gawin, người vừa mới đi đến kịp lúc để nhìn thấy Arik và Bà Elinor rời đi, là nói thay cho Arik. Quắc mắt nhìn đám đông khi anh ta ngồi xuống bàn, anh ta nói, “Đó không phải là một việc làm phù hợp với một hiệp sĩ - hộ tống một bà già đi loanh quanh để hái thảo dược và thu lượm các loại hạt. Đó là công việc của hầu gái, không phải một hiệp sĩ.”
Lionel giành cho chàng trai một cú thụi trêu đùa. “Chính cái ý nghĩ như thế khiến cho cậu suốt đời không được lòng Tiểu thư Anne, cậu nhóc. Nếu cậu mà hộ tống nàng đi loanh quanh để hái hoa, thì cậu sẽ được lòng nàng hơn nhiều so với việc xù lông nhím và cố gây ấn tượng với nàng bằng sức mạnh đàn ông của cậu - giống như cách cậu đã làm tối qua.”
Quay sang Jennifer, Ngài Lionel nói, “Cái kẻ nửa mùa này thích dùng vũ lực hơn là sự hào hoa. Cậu ta nghĩ nó đàn ông hơn, nàng thấy đó. Và trong khi cậu ta ra uy, thì Roderick khiêu vũ với Tiểu thư Anne và chiếm được trái tim nàng thiếu nữ. Nàng có thể thức tỉnh cậu ta bằng ý kiến của một phụ nữ được không?”
Nhạy cảm với nỗi hổ thẹn trai tráng của Gawin, Jenny nói, “Tôi không thể nói thay Tiểu thư Anne, nhưng với tôi, tôi chẳng thấy bất kì điều gì có thể khiến một phụ nữ ngoái nhìn Ngài Roderick.”
Sự biết ơn dâng lên trong đôi mắt Gawin trước khi anh ta bắn một cái nhìn tự mãn về phía đồng đội và rồi cắm cúi vào khẩu phần nhạt nhẽo của anh ta.
Jenny dành thời gian còn lại của buổi sáng và một phần buổi chiều trong buồng riêng cùng với những người thợ may mà Ông Albert đã thuê từ làng để giúp nàng may chỗ vải vóc. Người quản gia chắc chắn là làm việc hiệu quả, Jenny nghĩ khi nàng bới trong các hòm xiểng đã được mang đến cho nàng. Hiệu quả và lạnh lùng. Nàng không thích ông ta chút nào, mặc dù nàng không chắc chắn lắm là tại sao. Dựa vào những lời nói sáng nay của Agnes, có thể thấy tất cả gia nhân tại Claymore chắc chắn đều rất quí trọng người đàn ông gày gò đó. Kính trọng và đôi chút sợ hãi. Bối rối trước những phản ứng kì lạ, cảm tính của nàng đối với mọi người nơi đây, và với sự im lặng kéo dài, khó chịu của những người phụ nữ trong phòng, nàng quan sát những cuộn vải sặc sỡ được dàn hàng ngang qua giường và vắt lên trên ghế.Chúng nằm đó như những mảnh đá quí lỏng rực sáng - lụa hồng ngọc điểm vàng, viền vàng và bạc, nhung thạch anh tím, vải bóng sa phia lung linh như thể được dát kim cương, và sa tanh quí giá, sặc sỡ ở mọi sắc độ từ màu ngọc trai cho đến ngọc lục bảo đến đá mã não. Bên cạnh chúng là vải len mềm mại của Anh trong mọi kích thước và màu sắc, từ màu vàng nhạt nhất và màu đỏ tươi đến màu kem, xám, đồng, và đen. Còn có vải bông của Ý, kẻ dọc và ngang; vải lanh thêu đắt tiền dành cho váy, và áo sơ mi, vải lanh mỏng, gần như trong suốt cho áo lót và quần áo trong; vải dệt mỏng tang cho khăn trùm; và da để may găng tay và dép đi trong nhà.
Ngay cả khi đã may đủ một tủ quần áo cho Royce và cho chính nàng cũng như Bà dì Elinor, Jenny vẫn không thể nghĩ ra hết cách sử dụng nhiều vải vóc như thế. Bị chi phối bởi tầm quan trọng của nhiệm vụ trước mắt, và bởi sự thiếu hiểu biết về thời trang của nàng, Jenny trở nên bối rối trước hai cái hòm lớn chứa đầy lông thú. “Ta nghĩ,” nàng nói to với Agnes khi cô ta đang ôm một đống lông chồn lộng lẫy, “cái này có dùng để viền cái áo choàng làm bằng vải nhung xanh sẫm cho công tước.”
“Sa tanh màu kem,” Agnes buột miệng không kiềm chế được, rồi cô ta ngậm chặt miệng và khuôn mặt lại trở về vẻ nhăn nhó thường ngày.
Jenny quay sang cô ta ngạc nhiên nhưng hài lòng vì người phụ nữ - mà nàng vừa mới biết cũng là thợ may cho bà chủ cũ của Claymore - cuối cùng cũng nói một câu tự nguyện. Cố gắng che dấu sự kém hào hứng với ý tưởng đó, Jenny nói, “Sa tanh màu kem ư? Thật à? Cô có nghĩ là công tước chịu mặc cái đó không?”
“Cho bà,” Agnes nói bằng giọng chán nản, như thể bị ép buộc phải nói vì những thôi thúc về thời trang bên trong cô ta đã lên tiếng trước việc sử dụng sai đống lông chồn, “không phải cho ngài ấy.”
“Ồ,” Jenny nói, giật mình và hài lòng vì sự kết hợp vừa được gợi ý. Nàng chỉ về phía tấm lông thú trắng. “Còn cái đó?”
“Lông chồn ec-min để trang trí cho vải gấm màu ngọc bích thêu kim tuyến.”
“Và cho công tước?” Jenny khẩn khoản, mỗi lúc một thêm hài lòng.
“Nhung xanh sẫm, nhung đen, và nhung màu nâu sẫm.”
“Ta chẳng biết gì về thời trang cả,” Jenny thừa nhận, mỉm cười vui vẻ trước lời gợi ý. “Khi ta còn nhỏ, ta chẳng quan tâm chút nào đến việc đó, và sau đó - suốt những năm gần đây - ta đã sống trong một tu viện, và quần áo duy nhất mà ta nhìn thấy ở đó là những bộ váy tu mà tất cả chúng ta đều mặc. Nhưng ta đã thấy cô có con mắt tuyệt vời về chuyện này, và ta rất vui lòng làm theo mọi gợi ý của cô.”
Quay lại, nàng ngạc nhiên trước vẻ mặt của Agnes, cái gì đó gần giống như một nụ cười, mặc dù Jenny hơi nghi ngờ đó là do lời thú nhận đã sống trong một tu viện của nàng nhiều hơn là do lời khen ngợi đối với Agnes. Hai người thợ may còn lại, cả hai đều giữ là những cô gái trẻ nghiêm trang, dường như cũng hơi bị mềm lòng một chút. Có lẽ họ thấy nàng ít “thù địch” đi vì nàng đã sống trong một nhà thờ Công giáo thiêng liêng trong suốt những năm qua.
Agnes bước lên phía trước và bắt đầu thu thập những mảnh vải, bao gồm cả vải lanh và vải bông đã được để riêng cho từng mục đích cụ thể. “Cô có thể thiết kế áo chàng và váy luôn không?” Jenny hỏi, cúi xuống hất lên một cái áo choàng màu kem. “Ta chẳng có ý tưởng gì về kiểu dáng, mặc dù tất nhiên ta có thể giúp đỡ trong việc cắt may. Ta e là ta giỏi làm việc với kéo hơn với kim chỉ.”
Một âm thanh nghèn nghẹt như là những tiếng rúc rích bị nén lại thoát ra từ một cô gái trẻ, và Jenny ngạc nhiên quay lại để nhìn cô thợ may tên Gertrude đang đỏ bừng mặt xấu hổ. “Cô vừa cười đấy à?” Jenny hỏi, hi vọng cô ta đã cười, bất kể lí do là gì, vì nàng mong mỏi tha thiết có được một kiểu thân thiết giữa phụ nữ với nhau ở đây. Gertrude lại càng xấu hổ hơn.
“Cô đã cười, đúng không? Có phải vì ta đã nói ta giỏi sử dụng kéo không?”
Môi của cô gái rung rung và đôi mắt cô ta gần như trợn lên khi cố sức kìm nén tiếng cười trong bụng. Không hề biết nàng đang nhìn chằm chằm vào cô gái tội nghiệp, Jenny cố tưởng tượng xem điều gì khiến cho các cô hầu thấy buồn cười về chuyện nàng sử dụng kéo thành thạo. Một ý nghĩ loé lên, và miệng nàng há hốc. “Các cô đã nghe về chuyện đó rồi à? Về chuyện ta đã - đã làm với chủ nhân của các cô?”
Thực ra, đôi mắt của cô gái tội nghiệp còn mở to hơn, và cô ta nhìn vào bạn mình, nuốt trôi một tiếng cười, rồi nhìn lại Jennifer. “Vậy là chuyện đó đúng phải không, thưa phu nhân?” cô ta thì thầm.
Đột nhiên hành động xấu xa đó cũng trở nên khá hài hước với Jenny. Nàng vui vẻ gật đầu: “Đó là một việc làm tồi tệ - còn tệ hơn cả việc khâu nghiến hai cánh tay áo của chàng và-”
“Phu nhân còn làm vậy nữa ư?” Và trước khi Jenny có thể trả lời, hai người thợ may bật ra một tràng cười và bắt đầu thúc vào sườn nhau, gật đầu đồng tình. Ngay cả đôi môi của Agnes cũng rung lên vì cười.
Khi hai cô gái trẻ đã đi ra, Jenny đi vào phòng Royce cùng với Agnes để đưa cho cô ta những quần áo của chàng làm mẫu để cô ta sử dụng nó lấy số đo cho những bộ quần áo mới. Có điều gì đó thân thiết và cảm động một cách kì lạ về việc quản lí những áo kép và áo trong của chàng.
Chàng có đôi vai rộng khủng khiếp, Jenny nghĩ với một chút tự hào khi nàng cầm chiếc áo chẽn bằng len giơ lên cho Agnes - và nàng chợt để ý thấy chàng có quá ít quần áo nếu so với một người giàu có như chàng. Những bộ quần áo của chàng đều có chất lượng tuyệt hảo, nhưng chúng đã được mặc đi mặc lại rất nhiều - nó giống như một lời ngợi ca âm thầm đối với một người đàn ông có những mối quan tâm thường trực vượt xa hơn quần áo rất nhiều.
Rất nhiều áo sơ mi của chàng đã hơi bị sờn nơi cổ tay, và có hai cái bị thiếu cúc áo. Chàng thật sự cần đến một người vợ để chăm sóc những tiểu tiết như thế này, Jenny nghĩ với một nụ cười bất thường. Chẳng trách sao mấy tháng trước đây trong doanh trại chàng đã phản ứng một cách hài lòng như thế, khi nàng tự nguyện làm việc may vá. Một cảm giác tội lỗi sâu sắc cứa vào nàng vì những tổn thất vô tình nàng đã gây ra cho số quần áo ít ỏi của chàng. Không như những cô hầu, nàng không còn thấy chuyện đó buồn cười nữa, và sự thật là việc đó đã làm nàng choáng váng và buồn phiền. Điều đó dường như khá kì lạ, nhưng cũng như rất nhiều chuyện ở Claymore đều kì lạ như thế với nàng.
Giờ đây khi sự trầm lặng khó chịu đã bị phá vỡ, Agnes dường như sẵn sàng nói chuyện với nàng rất lâu về cách xử lí các loại vải vóc, và khi cô đi ra, cô thật sự đã cười ngượng nghịu với Jenny, nhưng cả điều đó cũng làm nàng phiền muộn hơn là hài lòng.
Khi cô hầu đã đi ra, Jenny đứng nguyên tại chỗ trong phòng ngủ của Royce, trán nàng nhăn lại bối rối. Không thể tìm được câu trả lời, nàng choàng một chiếc áo choàng mỏng lên vai rồi đi ra ngoài để tìm kiếm những câu trả lời từ một người mà nàng cảm thấy dễ dàng nói chuyện cùng.
Ngài Eustace, Ngài Godfrey, và Ngài Lionel đều ở trong sân lâu đài, đang ngồi trên một ghế băng bằng đá, khuôn mặt họ nhễ nhại mồ hôi, những thanh gươm lủng lẳng hờ hững trên tay họ, rõ ràng là họ đang cố khôi phục sức khoẻ sau một đêm nhậu nhẹt và một buổi chiều tập luyện chuyên cần với gươm giáo. “Các anh có nhìn thấy Cha Gregory không?” Jenny hỏi.
Ngài Eustace nghĩ anh đã nhìn thấy cha xứ đang nói chuyện với người đánh xe, và Jenny bắt đầu đi về hướng anh chỉ, không biết chắc ngựa được giữ trong toà nhà nào trong số những toà nhà bằng đá được xây thành cụm xung quanh vành đai trong của tường thành. Có thể dễ dàng nhận ra kiến trúc cao, có ống khói chạm trổ của nhà bếp bên cạnh lâu đài. Bên cạnh bếp là nhà kho, nhà nấu rượu, và một nhà nguyện nhỏ rất dễ thương. Ngang qua sân là xưởng rèn nơi ngựa được đóng móng và Gawin đang bận rộn lau chùi khiên cho Royce, lờ đi hàng đống thương và vũ khí đang chờ được sửa chữa bởi những người thợ rèn thấp kém hơn anh ta. Chuồng ngựa được đặt bên cạnh nó, và phía trên chuồng ngựa là một cái chuồng lợn cũ, và một chuồng chim bồ câu lớn, mà giờ chẳng còn con chim nào.
“Phu nhân đang tìm ai phải không?” Jenny quay người ngạc nhiên trước giọng nói của cha xứ. “Vâng, tìm cha đó,” nàng trả lời, cười vì sự hoảng loạn của chính mình. “Con muốn nói chuyện với cha về... vài việc,” nàng nói, cảnh giác liếc về phía khoảng một trăm người đang bận rộn làm những việc khác nhau trên sân lâu đài. “Nhưng không phải ở đây.”
“Có lẽ ta nên đi dạo một chút ra ngoài cổng chăng?” Cha Gregory gợi ý, ngay lập tức hiểu ra mong muốn nói chuyện ở nơi không bị nhìn hoặc bị nghe lén của nàng.
Tuy nhiên, khi họ đi tới chỗ lính gác ở cổng, Jenny nhận được một thông báo kinh ngạc. “Tôi rất tiếc, thưa phu nhân,” người lính gác lịch sự kiên quyết từ chối, “nhưng tôi đã được lệnh không để phu nhân rời khỏi lâu đài trừ khi có công tước tháp tùng.”
Jenny chớp mắt giận dữ với anh ta. “Cái gì cơ?”
“Phu nhân không thể rời-”
“Ta đã nghe anh rồi,” Jenny nói, kiềm chế cơn tức khí của mình. “Ý anh là ta là - ta là tù nhân ở đây chứ gì?”
Người lính gác, một người lính đã có nhiều kinh nghiệm trận mạc nhưng lại chẳng có chút kinh nghiệm nào trong việc đối đầu với các phu nhân quí tộc, bắn một cái nhìn báo động về phía cấp dưới của mình, anh này đã bước về phía trước, cúi người lịch sự, và nói, “Đây là một yêu cầu vì... à... vì an toàn của bà, thưa phu nhân.”
Nghĩ rằng anh ta muốn nói đến việc nàng không an toàn khi đi vào trong làng sau những chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, Jenny vẫy vẫy tay trong không khí. “Ồ, nhưng ta không định đi xa hơn mấy cái cây kia và-”
“Tôi xin lỗi. Mệnh lệnh của đức ông rất nghiêm ngặt.”
“Ta hiểu rồi,” Jenny nói, nhưng nàng không hiểu gì hết, và nàng cũng không thích cái ý nghĩ bị cầm tù một chút xíu nào. Nàng bắt đầu quay đi, rồi nàng lại vòng về phía người lính gác không may. “Nói cho ta biết một chuyện,” nàng nói bằng giọng trầm, đáng ngại. “Cái... lệnh cấm này... là đối với tất cả mọi người rời khỏi toà lâu đài, hay là chỉ với ta thôi.”
Ánh mắt anh ta hướng tới đường chân trời. “Chỉ với bà thôi, thưa phu nhân. Và bà dì của bà nữa.”
Giận dữ và xấu hổ, Jenny quay đi, và nàng nhận ra rằng Royce đã ra lệnh cho Arik đi theo Bà dì Elinor - chắc chắn là để làm lính gác chứ chẳng phải người hộ tống.
“Ta biết một chỗ khác,” Cha Gregory vô tư gợi ý, kéo tay nàng và dẫn nàng đi ngang qua khoảng sân rộng.
“Con không thể tin được!” Jenny giận dữ thì thào. “Con là một tù nhân ở đây.”
Cha Gregory làm một cử chỉ bao quát toàn bộ khoảng sân bát ngát với tất cả mọi thứ trong đó bằng một bàn tay. “À, nhưng thật là một nhà tù lộng lẫy làm sao,” ông nhận xét với một nụ cười tán thưởng. “Đẹp đẽ hơn mọi toà lâu đài mà ta từng được thấy.”
“Một nhà tù,” Jenny thông báo với ông một cách u ám, “thì chỉ là một nhà tù mà thôi!”
“Có thể là,” vị cha xứ nói mà không hề tranh cãi với luận điểm của nàng, “chồng con có những lí do của ông ấy, không như những gì con nghĩ, về việc muốn giữ con trong vòng bảo vệ hoàn toàn của ông.” Không hề biết cha xứ đang dẫn mình đi đâu, nàng vẫn đi theo ông ta tới nhà nguyện. Ông ta mở cánh cửa và đứng lại cho nàng vào trước.
“Những loại lí do gì kia?” nàng hỏi ngay khi họ ở trong căn buồng tối, mát lạnh của nhà nguyện.
Cha Gregory chỉ tay vào một cái ghế bằng gỗ sồi bóng loáng và Jenny ngồi xuống. “Tất nhiên, ta không biết. Nhưng với ta công tước không có vẻ là một người hành động khinh suất vô lí.”
Giật mình, Jenny chăm chăm nhìn vào cha xứ. “Cha thích chàng phải không, thưa cha?”
“Đúng vậy, nhưng quan trọng hơn là, con có thíchông ấy hay không?”
Jenny giơ hai bàn tay lên. “Cho đến vài phút trước, khi con khám phá ra là con không thể rời khỏi sân lâu đài, con có lẽ đã trả lời là có.”
Cha Gregory khoanh tay lại, bàn tay và cổ tay bị dấu vào trong hai cánh áo trắng của bộ áo thầy tu. “Còn bây giờ?” ông hỏi, một bên lông mày màu vàng nhếch lên, “sau khi đã khám phá ra điều đó - con còn thích ông ấy không?”
Jenny nở nụ cười buồn bã và gật đầu một cách bất lực.
“Ta cũng nghĩ câu trả lời sẽ như vậy,” ông hóm hỉnh nói, ngồi vào cái ghế bên cạnh nàng. “Bây giờ thì, con muốn nói với ta chuyện bí mật gì thế?”
Jenny cắn môi, cố gắng nghĩ cách giải thích điều đó. “Cha có chú ý đến điều gì đó - à - kì quặc về thái độ của tất cả mọi người ở đây không? Không phải là với con, mà là với chồng con?”
“Kì quặc theo nghĩa nào?”
Jenny kể cho ông nghe việc nhìn thấy các cô hầu làm dấu thánh bất cứ khi nào Royce đến gần, và cũng nhắc đến việc nàng nghĩ thật kì lạ khi không có ai chào mừng chủ nhân của họ trở về ngày hôm qua. Nàng kết thúc bằng cách kể cho cha xứ nghe niềm vui thích của mấy cô hầu khi nàng tình cờ xác nhận những lời đồn thổi về chuyện nàng làm hỏng quần áo và chăn màn của chàng.
Thay vì thấy chướng tai gai mắt vì sự phá hoại của Jenny, Cha Gregory lại nhìn nàng gần như là ngưỡng mộ. “Con đã thật sự - cắt nát mấy cái chăn của họ?”
Nàng gật đầu không mấy thoải mái.
“Con là một cô gái cực kì dũng cảm, Jennifer ạ, và ta cảm thấy rằng con sẽ còn cần đến nó trong tương lai khi phải đối đầu với chồng con.”
“Con chẳng dũng cảm gì hết cha à,” nàng thú nhận với một nụ cười nhăn nhó. “Con không hề nghĩ đến chuyện vẫn còn ở đó để mà nhìn thấy phản ứng của chàng, vì Brenna và con đã lên kế hoạch chạy trốn vào sáng ngày hôm sau.”
“Trong bất cứ trường hợp nào con cũng không nên phá hỏng những cái chăn mà họ cần để giữ ấm, nhưng ta chắc là con cũng đã nhận ra sai lầm đó rồi,” ông ta nói thêm. “Bây giờ, ta có nên cố gắng lí giải cho câu hỏi về phản ứng “kì quặc” của những người dân làng với ông chủ mới của họ chưa?”
“Vâng, xin cha. Con có tượng tưởng ra mọi chuyện không?”
Cha Gregory đột ngột đứng lên, đi tới bên đống nến ở trước một cây thánh giá trạm trổ công phu, và vẩn vơ dựng thẳng một cây nến đã bị đổ trước đó. “Con không tưởng tượng gì hết. Ta cũng chỉ ở đây mới một ngày, nhưng những người ở đây đã không có cha đạo trong hơn một năm, bởi thế họ rất sẵn lòng nói chuyện với ta.” Cau mày, cha xứ quay sang nàng. “Con có biết rằng chồng con đã vây hãm chính nơi này tám năm về trước?”
Khi Jennifer gật đầu, trông cha xứ có vẻ nhẹ lòng.
“Rồi à, vậy thì, con đã bao giờ được chứng kiến một cuộc vây hãm chưa? Những chuyện sẽ xảy ra trong đó?” “Chưa à.”
“Chắc chắn nó chẳng phải là một cảnh tượng hay ho gì. Có người còn nói rằng ‘khi hai quí tộc tranh cãi với nhau, thì túp lều của những người nghèo sẽ cháy rụi,’ và đó là sự thật. Không chỉ có toà lâu đài và chủ nhân của nó phải gánh chịu hậu quả, mà còn cả những người tá điền và người hầu nữa. Mùa màng của họ bị kẻ những kẻ phòng ngự và những kẻ tấn công cướp đoạt, con cái họ bị giết trong cuộc xung đột, và nhà cửa của họ bị phá huỷ. Cũng không hiếm có những kẻ tấn công đã cố tình đốt phá làng mạc xung quanh toà lâu đài, để huỷ diệt các cánh đồng và bãi cỏ, và thậm chí là giết người, để tránh việc kè thù gia tăng quân số.”
Mặc dù chẳng có điều nào trong những việc này là hoàn toàn mới mẻ với Jenny, nhưng nàng chưa bao giờ tận mắt chứng kiến quá trình vây hãm hay là ngay sau đó. Tuy nhiên, bây giờ khi nàng đang ngồi trong một nhà nguyện nhỏ yên bình đặt trên chính vùng đất mà Royce đã từng vây khốn, thì hình ảnh của nó trở nên rõ ràng một cách khó chịu.
“Chắc chắn là chồng con đã làm một trong những việc nói trên khi ông ta vây hãm Claymore, và, trong khi ta có thể chắc chắn động cơ của ông ấy không hề mang tính cá nhân mà chỉ vì lợi ích tốt nhất cho Nhà vua, thì những người dân ở đây chẳng mấy quan tâm tới các vấn đề của quí tộc khi họ bị khánh kiệt vì một cuộc chiến, trong đó họ chẳng được lợi lộc gì nhưng lại mất đi mọi thứ.”
Jenny nghĩ về những bộ tộc vùng cao nguyên, họ chỉ chiến đấu và chiến đấu, không mảy may phàn nàn về những mất mát, và nàng lắc đầu bối rối. “Ở đây thật khác.”
“Không giống như các thành viên trong lãnh địa của con, đặc biệt là những người ở vùng cao nguyên, người dân thường nước Anh không được chia sẻ chiến lợi phẩm,” Cha Gregory nói, thấu hiểu sự hoang mang của nàng và cố gắng giải thích. “Theo luật pháp của nước Anh, tất cả đất đai thực ra đều thuộc về nhà vua. Từ đó nhà vua sẽ ban tặng từng vùng cho những quí tộc mà ông ta yêu thích như là phần thưởng cho lòng trung thành hoặc những cống hiến đặc biệt. Những quí tộc này chọn lựa địa điểm mà họ muốn vàgiao cho tá điền một phần đất đai của họ, đổi lại những người này phải làm việc hai hoặc ba ngày một tuần trên các cánh đồng của chủ hoặc là phục vụ trong khuôn khổ lâu đài. Tất nhiên, đôi lúc họ cũng phải đóng góp lương thực hoặc là sản phẩm làm ra.
“Những khi có chiến tranh hay nạn đói, vị lãnh chúa, về mặt đạo đức mà nói - chứ không bị ép buộc theo luật pháp - phải bảo vệ lợi ích của những thần dân và người hầu của họ. Đôi khi họ có làm, nhưng thông thường chỉ là vì lợi ích của chính họ mà thôi.”
Khi Cha Gregory rơi vào im lặng, Jenny chậm rãi hỏi, “Ý cha là họ sợ chồng con sẽ không bảo vệ họ? Hay cha muốn nói họ ghét chàng vì đã vây hãm Claymore và đốt cháy các cánh đồng?”
“Cả hai đều không.” Cha Gregory nói một cách buồn bã, “những người tá điền là một tập thể rất can đảm, và họ ý thức được rằng các cánh đồng sẽ bị đốt cháy mỗi một thế hệ hoặc là khi lãnh chúa của họ dính dáng đến một cuộc chiến với kẻ thù của ông ta. Nhưng trong trường hợp của chồng con, thì lại khác.”
“Khác?” Jenny nhắc lại. “Theo nghĩa nào ạ?”
“Ông ấy đã dành cả đời trong chiến trận, và họ lo sợ rằng tất cả những kẻ thù của ông sẽ từng người từng người một bắt đầu hướng tới Claymore để trả thù. Hoặc là ông ấy sẽ mời gọi họ tới đây để thoả mãn niềm yêu thích chiến đấu của mình.”
“Thật lố bịch,” Jenny nói.
“Đúng vậy, nhưng để họ nhận ra điều đó thì còn mất nhiều thời gian đấy.”
“Vậy mà con đã tưởng họ phải tự hào bởi vì chàng là - chàng là một người hùng của nước Anh.”
“Họ tự hào. Và họ vui sướng và tự tin rằng ông ấy, không giống như người tiền nhiệm, sẽ sẵn sàng và có khả năng bảo vệ họ nếu cần thiết. Sức mạnh, quyền lực của ông ấy về mặt này là một ưu điểm rất lớn. Thực tế, họ hoàn toàn kính sợ ông ấy.”
“Chết khiếp chàng thì đúng hơn,” Jenny nói một cách khó chịu, nhớ lại phản ứng của mấy cô hầu trước sự hiện diện của chàng.
“Cả điều đó nữa, cũng là có lí do tích cực.”
“Con chẳng thấy họ có lí do gì phải sợ chàng đến như thế,” Jenny đáp lại với sự kết tội chắc chắn.
“À, nhưng mà họ có đó. Hãy thử đặt mình vào địa vị của họ: chủ nhân mới của họ là một người đàn ông được gọi là Sói - được đặt tên theo một con dã thú tàn bạo, chuyên cướp phá, tấn công và ngấu nghiến nạn nhân của nó. Hơn nữa, truyền thuyết - không phải sự thật, mà là những truyền thuyết - nói rằng ông ấy thô bạo với bất kì ai ngáng đường mình. Với tư cách là chủ nhân mới của họ, ông ấy cũng sẽ có quyền định đoạt thuế khoá và đương nhiên có quyền được ngồi phân xử những cuộc tranh cãi và đưa ra sự trừng phạt cho những kẻ sai trái. Bây giờ,” Cha Gregory nói với một cái nhìn sắc sảo, “dựa trên danh tiếng của ông ấy cho những sự đau khổ và độc ác đã làm, liệu ông ấy có phải là kiểu người mà con mong muốn sẽ định đoạt mọi thứ đó cho con không?”
Jenny giận dữ. “Ồ, nhưng chàng không gây ra đau khổ hay là tàn ác. Nếu chàng chỉ tệ bằng phân nửa như thế, em gái con và con đã phải chịu đựng một số phận đau đớn hơn nhiều khi ở trong tay chàng.”
“Đúng vậy,” cha xứ đồng tình, mỉm cười tự hào với nàng. “Giờ tất cả những việc chồng con cần làm là dành nhiều thời gian với người dân của ông ấy để họ có thể đưa ra những kết luận của riêng họ.”
“Cha làm cho mọi chuyện có vẻ rất dễ dàng,” Jenny nói, đứng lên và phủi áo váy.
“Và ta nghĩ sẽ như vậy. Hi vọng rằng chẳng bao lâu nữa những người dân này sẽ nhận ra ông ấy-”
Cánh cửa bật tung khiến cả hai người quay lại cùng lúc để nhìn thấy biểu hiện vui mừng lướt qua gương mặt giận dữ của Royce. “Không ai biết nàng ở đâu,” chàng nói, bước về phía Jennifer, tiếng bước chân đi ủng của chàng vang vọng trên mặt sàn gỗ bóng loáng của nhà nguyện. “Sau này, đừng bao giờ biến mất mà không nói với ai nàng đi đâu như thế nữa.”
Cha Gregory liếc nhìn khuôn mặt phẫn nộ của Jennifer và lịch sự xin phép rút lui.
Ngay khi cánh cửa đóng lại phía sau ông, Jenny quát lại, “tôi không biết là tôi đã thành tù nhân ở đây rồi đấy.”
“Sao nàng lại muốn ra khỏi toà lâu đài?” Royce hỏi, không thèm giả vờ như chàng không hiểu nàng muốn nói gì.
“Bởi vì tôi muốn nói chuyện riêng với Cha Gregory mà không bị tất cả người hầu trong sân theo dõi và nghe lén,” Jenny u ám thông báo với chàng. “Bây giờ, đến lượt ông trả lời câu hỏi của tôi. Tại saotôi lại bị cấm rời nơi này? Đây là nhà tôi hay là nhà tù của tôi? Tôi sẽ không-”
“Nhà của nàng,” chàng ngắt lời, và trước sự bối rối hoàn toàn của nàng, chàng bỗng mỉm cười. “Nàng có đôi mắt xanh nhất trên đời,” chàng nói thêm với một tiếng cười trầm đục, tán thưởng. “Khi nàng giận, chúng biến thành màu xanh của vải nhung ướt.”
Jenny trợn mắt lên vì kinh tởm, nhất thời bị xoa dịu bởi câu trả lời của chàng rằng đây là nhà nàng. “Nhung ướt á?” nàng nhắc lại giận dữ, hỉnh mũi. “Nhung ướt.”
Hàm răng trắng của chàng sáng loé trong nụ cười tàn phá. “Không à? Thế ta phải nói gì nào?” Nụ cười của chàng hấp dẫn không tả được, và Jenny trượt theo tâm trạng đùa cợt của chàng, “À, chàng có thểnói rằng màu của chúng như là-” nàng liếc về phía viên ngọc bích lớn ở trung tâm của cây thánh giá “ - màu ngọc bích vậy,” nàng nói. “Nói thế còn có âm điệu nữa.”
“À, nhưng mà ngọc bích lạnh lẽo lắm, trong khi mắt nàng ấm áp và biểu cảm. Ta có làm tốt hơn không?” chàng cười khúc khích khi nàng không còn đưa ra được lời tranh cãi nào về nhung ướt được nữa.
“Tốt hơn nhiều rồi,” nàng sẵn sàng đồng ý. “Chàng muốn nói tiếp chăng?”
“Quyến rũ nàng bằng những lời khen á?”
“Chắc chắn rồi.”
Môi chàng cong lên vì cười. “Tốt thôi. Hàng mi nàng nhắc ta nhớ tới một cây chổi đầy bồ hóng.”
Jenny nổ ra một tràng cười thánh thót như tiếng nhạc. “Một cái chổi!” nàng cuời vui vẻ, lắc lắc đầu với chàng.
“Chính xác. Và làn da nàng trắng và mềm và mượt mà. Nó nhắc ta nhớ đến...”
“Vâng?” nàng thúc giục, vẫn cười.
“Một quả trứng. Ta có nên tiếp không?”
“Ôi, xin đừng,” nàng lẩm bẩm, cười ngặt nghẽo.
“Ta nghĩ ta không làm tốt lắm nhỉ.” Chàng nói, cười với nàng.
“Em đã nghĩ là,” nàng nghẹn thở rầy la, “ngay cả cung đình nước Anh cũng đòi hỏi một mức độ hành xử kiểu cách nhất định. Chẳng lẽ chàng chưa bao giờ giành thời gian ở triều đình hay sao?”
“Càng ít càng tốt,” chàng khẽ nói, nhưng sự chú ý của chàng đã chuyển hướng tới đôi môi khơi gợi đang cười của nàng, và không hề báo trước chàng kéo nàng vào lòng, miệng chàng đói khát và khẩn thiết trên miệng nàng.
Jenny cảm thấy nàng đang chìm trong dòng xoáy ngọt ngào, mê đắm của niềm khao khát của chàng, và nàng phải cố lắm mới kéo miệng mình khỏi chàng đuợc. Đôi mắt chàng đã tối đi vì đam mê, nhìn sâu vào mắt nàng.
“Chàng vẫn chưa nói với em tại sao,” nàng run rẩy thì thào, “em lại bị cấm rời khỏi toà lâu đài.”
Bàn tay Royce từ từ trượt dọc cánh tay nàng khi chàng cuối đầu xuống với nàng một lần nữa. “Chỉ trong vài ngày nữa thôi...” chàng trả lời, hôn nàng giữa những câu nói, “cho đến khi ta chắc chắn là không còn rắc rối nào...” chàng kéo nàng lại chặt hơn nữa “... từ bên ngoài.”
Hài lòng, Jenny thả mình vào niềm sung sướng đến kì lạ được hôn chàng và cảm nhận cơ thể to lớn của chàng cứng lại vì ham muốn.
Mặt trời đã bắt đầu đi xuống khi họ băng qua sân lâu đài về phía đại sảnh. “Em tự hỏi Bà dì Elinor đã chuẩn bị gì cho bữa tối,” nàng nói, ngẩng lên cười với chàng.
“Vào lúc này,” Royce đáp lại với một cái nhìn đầy ý nghĩa, “sự ngon miệng của ta bị khuấy động bởi cái gì khác chứ không phải thức ăn. Tuy nhiên, nhân tiện nói về chuyện đó, bà dì của nàng có thật sự giỏi việc bếp núc như bà ta đã nói không?”
Jenny liếc nhìn nàng do dự. “Nói thật với chàng, em không thể nhớ ai trong gia đình mình đã từng khen ngợi tài nấu nướng của bà. Bà luôn luôn được ca ngợi nhờ những phương thuốc - những người phụ nữ thông thái từ khắp đất nước Scotland thường tìm tới bà xin những liều thuốc bôi và công thức cho những thứ đại loại vậy. Bà dì Elinor tin rằng thức ăn được chế biến, nấu nướng đúng cách, có thể xoá bỏ mọi loại bệnh tật, và từng loại thức ăn cụ thể thì có những công dụng chữa bệnh riêng.”
Royce chun mũi. “Thuốc bằng món ăn à? Ta chẳng hề biết chuyện đó chút nào.” Chàng liếc nàng một cái, như thể có điều gì đó chợt hiện ra trong đầu chàng: “Nàng có giỏi nấu ăn không?”
“Không hề,” nàng vui vẻ đáp lại. “Cắt gọt mới là sở trường của em.”
Royce thốt ra một tiếng cười lớn, nhưng chợt thấy bóng dáng của Ông Albert đang chạy về phía họ ngang qua sân, khuôn mặt chàng đã trở nên nghiêm khắc hơn cả thường ngày, dập tắt ngay niềm vui của Jenny. Đôi mắt lạnh lẽo, thân hình gầy nhẳng và đôi môi mỏng dính của người quản gia đã khiến cho ông ta trông có vẻ độc ác kiêu ngạo, ngay lập tức làm Jenny khó chịu. “Thưa công tước,” ông ta nói với Royce, “kẻ phạm tội ném bùn ngày hôm qua đã được mang tới đây.” Ông ta chỉ tay về phía xưởng rèn ở đầu kia của sân, ở đó hai người lính gác đang giữ một cậu bé mặt trắng bệch trong tay họ, và một đám đông người hầu đang tụ tập. “Tôi có nên giải quyết chuyện này không ạ?”
“Không!” Jenny buột kêu, không thể kiềm chế nổi sự căm ghét với người đàn ông này.
Người quản gia quay từ Jennifer sang Royce với một tia nhỏ xíu căm tức trong đáy mắt. “Đức ông?” ông ta hỏi, phớt lờ nàng.
“Ta không có kinh nghiệm giải quyết những vụ vi phạm dân sự hay là mấy cái thủ tục này,” Royce nói với Jennifer, rào đón một cách rõ ràng. Họ đã đi đến rìa ngoài của đám đông đang ngày một tăng, và Jenny hướng cái nhìn khẩn khoản về phía chồng nàng, trí óc nàng vẫn còn nghe những lời Cha Gregory đã nói. “Nếu chàng không muốn giải quyết chuyện này, hãy để em làm thay chàng,” nàng nôn nóng tình nguyện. “Em đã thấy cha trong Ngày phán xử vô số lần rồi, và em biết phải làm thế nào.”
Royce quay về phía người quản gia. “Hãy giải quyết các thủ tục theo cách thông thường, và phu nhân của ta sẽ quyết định sự trừng phạt.”
Ông Albert nghiến răng chặt đến nỗi xương gò má của ông ta nhô ra hơn nữa dưới lớp da, nhưng ông ta vẫn cúi đầu tuân lệnh. “Tuân lệnh, thưa đức ông.”
Đám đông rẽ ra để họ đi qua, và Jenny để ý thấy rằng tất cả mọi người đứng bên phía Royce đều di chuyển về phía sau nhiều hơn mức cần thiết để chàng đi qua - xa hẳn tầm với của chàng.
Khi họ đi tới trung tâm của vòng tròn, Ông Albert không mất chút thời gian nào trong việc chuẩn bị thực thi công lí. Với cái nhìn lạnh toát lên cậu bé đang sợ sệt, cánh tay cậy bị giữ chặt bởi hai người lính, Ông Albert nói, “Ngươi bị kết tội cố tình tấn công nữ chủ nhân của Claymore, một tội ác nghiêm trọng nhất theo luật lệ nước Anh - và người đáng bị trừng phạt ngay ngày hôm qua. Như thế sẽ dễ dàng hơn cho ngươi khi phải đối mặt với nó ngày hôm nay,” lão quản gia nhanh chóng kết thúc, khiến cho Jenny nghĩ vẩn vơ rằng ông ta vừa khiến sự ân xá của Royce trở thành một sự tra tấn cố ý.
Những giọt nước mặt tràn trề trên gương mặt cậu bé, và ở rìa của đám đông một người phụ nữ mà Jenny lập tức đoán là mẹ của cậu bé, đang dùng bàn tay che mặt lại và bắt đầu nức nở. Chồng bà đứng bên cạnh bà, khuôn mặt đông cứng, đôi mắt ánh lên nỗi đau đớn vì đứa con trai.
“Ngươi có chối không, nhóc con?” Ông Albert quát.
Đôi vai nhỏ của cậu bé rung lên vì cơn nức nở uất nghẹn, cậu bé gục đầu xuống và lắc đầu.
“Nói to lên!”
“K-” cậu dùng vai áo chẽn để quết đi những giọt nước mặt tủi hổ trên khuôn mặt. “Không.”
“Tốt nhất là ngươi không chối,” lão quản gia lại nói gần như là tử tế, “vì chết đi trong khi tâm hồn dối trá thì ngươi sẽ bị nguyền rủa muôn kiếp.”
Khi nhắc đến từ chết, người mẹ thổn thức của cậu lao mình ra khỏi cánh tay níu giữ của chồng và chồm về phía con trai bà ta, vòng cánh tay quanh cậu bé, nép đầu cậu vào ngực bà. “Vậy thì cứ làm cho rồi đi!” bà ta khóc lóc tức tưởi, quắc mắt nhìn vào những lính gác gươm giáo sẵn sàng. “Đừng có doạ nạt thằng bé nữa,” bà ta thổn thức, nắm chặt cậu bé trong tay mình. “Các người không thấy nó đã quá sợ rồi ứ-” bà ta lại khóc nức nở, giọng bà hạ xuống gần như một lời thì thầm run run. “Làm ơn... tôi không muốn thằng bé... sợ hãi.”
“Hãy gọi cha xứ,” Ông Albert quát.
“Ta không hiểu,” Royce cắt ngang bằng giọng lạnh như băng khiến cho bà mẹ của cậu bé càng ôm chặt cậu hơn và khóc dữ hơn, “tại sao chúng ta lại cần một bài cầu kinh vào thời điểm không thích hợp này.”(why we need to have a mass said at this unlikely hour. - chả hiểu gì luôn)
“Không phải là cầu kinh, mà là một lời thú tội,” lão quản gia nói, không hề nhận ra Royce đã cố ý hiểu lầm lí do gọi Cha Gregory của ông ta. Quay sang bà mẹ của cậu bé, Ông Albert nói, “Ta cho rằng đứa con trai ti tiện của bà đương nhiên muốn được tự cứu mình bằng sự ban phước cuối cùng của Nhà thờ?” người phụ nữ gật đầu bất lực khi không thể nói được qua làn nước mắt của mình.
“Không!” Royce quát, nhưng người mẹ kích động đã gào lên, “Có! Đó là quyền của nó! - Nó có quyền được ban phước lần cuối cùng trước khi chết!”
“Nếu nó chết,” Royce nhấn mạnh một cách lạnh lùng, “thì đó là do bị nghẹt thở vì cánh tay bà. Lùi lại và để cho cậu ta thở đi!”
Một niềm hi vọng đau đáu hiện lên trên mặt bà mẹ, bà ta nao núng khi nhìn quanh những khuôn mặt căng thẳng của đám đông, và bà ta nhận ra không có một ai có cùng niềm hi vọng hão huyền vào một sự ân xá như bà. “Ngài định làm gì với nó, thưa đức ông?”
“Đó không phải là quyết định của ta,” Royce đáp lại, sự tức giận của chàng lại dâng lên khi chàng nghĩ lại những cái tên mà bọn họ đã ném vào vợ chàng ngày hôm qua. “Vì vợ ta mới là người bị cậu ta tấn công, nên điều đó phụ thuộc vào nàng.”
Thay vì thấy nhẹ lòng, người mẹ lấy tay che miệng, đôi mắt hoảng sợ của bà ta dính lấy Jenny, và Jenny không còn có thể đứng nhìn người phụ nữ tội nghiệp ấy tự tra tấn mình vì sự hoang mang thêm nữa, nàng quay sang cậu bé và nói nhanh, nhưng không hề thiếu độ lượng, “Tên em là gì?”
Cậu bé nhìn chằm chằm vào nàng qua đôi mắt sũng nước, cả người cậu rung lên. “J-Jake. Thưa p-phu nhân.”
“Ta hiểu rồi,” Jenny nói, điên cuồng nghĩ xem cha nàng sẽ xử lí tình huống này như thế nào. Nàng biết rằng tội lỗi không thể không bị trừng phạt, vì như thế sẽ nuôi dưỡng thêm nhiều tội lỗi khác và khiến chồng nàng trở thành kẻ yếu đuối. Mặt khác, độc ác quá cũng không thể được, đặc biệt khi cậu bé còn quá nhỏ thế này. Cố gắng tạo cho đứa trẻ một sự bào chữa nàng nhẹ nhàng nói, “Đôi khi, khi chúng ta rất háo hức về một việc gì đó, chúng ta làm những việc mà mình không định làm. Có phải em cũng thấy giống như thế khi ném cục đất đi không? Có lẽ em không định ném ta bằng cái đó đúng không?”
Jake nuốt nước bọt hai lần, yết hầu của cậu nhảy lên nhảy xuống trên cái cổ dài, gầy nhom. “Cháu - cháu-” cậu nhìn vào khuôn mặt cứng ngắc của công tước và chọn cách không nói dối -“Cháu luôn luôn ném trúng đích đã ngắm,” cậu đau khổ thừa nhận.
“Thật sao?” Jenny nói, trì hoãn thêm thời gian và suy nghĩ thêm cách giải quyết khác.
“Vâng ạ,” cậu thừa nhận trong một tiếng thì thào. “Cháu có thể ném trúng giữa hai mắt của một con thỏ bằng một viên đá và giết nó chết nghéo nếu nó đứng đủ gần để nhìn thấy. Cháu không bao giờ ném trượt.”
“Thật vậy à?” Jenny nhắc lại, bị ấn tượng. “Ta cũng đã từng cố nhắm một con chuột ở khoảng cách bốn mươi bước và đã giết được nó.”
“Thật á?” Jake hỏi, hoàn toàn bị ấn tượng.
“Ù - à, bỏ qua đi,” nàng nhanh chóng sửa lại trước cái nhìn khiển trách của Royce. “Em không định giếtta, phải không?” nàng hỏi, và để khiến cho cậu bé ngốc nghếch thừa nhận như thế, nàng nhanh chóng nói thêm, “Ý ta là, em không muốn phạm phải tội ác giết người khiến cho linh hồn em bị đoạ đày mãi mãi phải không?”
Cậu bé dứt khoát lắc đầu trước câu hỏi ấy.
“Vậy thì đó chỉ là một giây phút quá hứng chí, phải không nào?” nàng thúc giục, và trước sự hài lòng của nàng, cuối cùng cậu bé cũng gật đầu.
“Và tất nhiên là em quá đỗi tự hào với kĩ năng của mình nên có lẽ muốn biểu diễn trước tất cả mọi người một chút?”
Cậu bé rụt rè rồi miễn cưỡng gật đầu.
“Đó, mọi người thấy đó!” Jenny nói và nhìn quanh đám đông căng thẳng, chờ đợi và cất cao giọng nói với nỗi vui mừng, “Cậu bé không định làm điều xấu gì cả, và ý định thì cũng quan trọng gần như là tội lỗi vậy.” Quay sang Jake, nàng nghiêm giọng nói, “Tất nhiên là vẫn cần phải có hình thức phạt nào đó, và vì em rất giỏi trong việc ném này, ta nghĩ cần phải dùng nó vào việc tốt hơn. Bởi vậy, Jake, trong vòng hai tháng tới mỗi buổi sáng em phải đến giúp những người thợ săn đi săn. Và nếu không còn cần thêm thịt tươi nữa, thì em phải đến lâu đài và giúp ta ở đó. Trừ những ngày Chủ nhật, tất nhiên. Và nếu-”
Jenny ngừng lời vì kinh ngạc khi bà mẹ đang khóc lóc của cậu bé ném mình đến trước chân nàng, vòng cánh tay bà ta qua chân nàng và thổn thức, “Cảm ơn, phu nhân, cảm ơn bà. Bà là một vị thánh. Chúa phù hộ bà, cảm ơn-”
“Không, đừng làm thế,” Jenny tha thiết nói trong vô vọng khi người phụ nữ kiệt sức vì khóc lóc nâng vạt váy của Jenny lên và hôn vào đó. Chồng bà ta, với mũ trong tay, đi đến đỡ vợ mình, đôi mắt ông ta sáng lên vì những giọt nước mắt khi nhìn vào Jenny.
“Nếu ông bà cần con trai cho việc đồng áng của mình,” nàng nói với ông ta, “cậu bé có thể thực hiện... ờ... hình phạt của cậu vào buổi chiều thay vì buổi sáng.”
“Tôi-” ông ta nói bằng giọng khàn đục, rồi ông ta hắng giọng, vươn vai, và nói trong cảm động, “sẽ luôn cầu nguyện cho bà mỗi ngày trong suốt cuộc đời mình, thưa phu nhân.”
Mỉm cười, Jenny nói, “Và cả chồng ta nữa chứ, ta hi vọng thế.”
Người đàn ông tái xanh, nhưng ông ta cố gắng nhìn vào mắt người đàn ông đen tối, dữ dội đứng bên cạnh nàng và chân thành nói, “Vâng, và cả ngài nữa, thưa đức ông.”
Đám đông ta rã trong sự im lặng kì quái, lén lút liếc nhìn Jenny qua vai họ, trong khi nàng đang tự hỏi liệu hai tháng có quá dài hay chăng. Trên đường đi vào đại sảnh, Royce im lặng đến nỗi nàng nhìn chàng đầy căng thẳng. “Trông chàng có vẻ ngạc nhiên,” nàng nói vẻ hiểu biết, “khi em nhắc đến hình phạt hai tháng.”
“Ta đã ngạc nhiên,” chàng thú nhận với một chút hài hước. “Trong một lúc, ta đã tưởng nàng định chúc mình cậu bé đó vì cú ngắm chuẩn và định mời cậu ta dùng bữa cùng.”
“Chàng nghĩ thế là quá dễ dãi à?” nàng vui vẻ nói khi chàng mở cánh cửa gỗ gồi nặng nề của đại sảnh, đứng sang một bên để nàng vào trước.
“Ta không biết. Ta không có chút kinh nghiệm nào trong việc đối đãi với những người tá điền và duy trì trật tự này. Tuy nhiên, Prisham đáng lẽ phải hiểu biết hơn là nhắc tới hình phạt cái chết chứ. Đó là chuyện không chấp nhận được.”
“Em ghét ông ta.”
“Ta cũng vậy. Ông ta là quản gia trước đây, và ta giữ ông ta lại. Ta nghĩ đã đến lúc cần tìm một người thay thế ông ta rồi.”
“Em hi vọng là sẽ sớm thôi?” Jenny thúc giục.
“Vào lúc này,” chàng nói, và Jenny không kịp nhìn thấy tia sáng quỷ quyệt nhá lên trong mắt chàng, “Ta có những vấn đề quan trọng hơn cần làm.”
“Vậy sao, là gì vậy?”
“Mang nàng lên giường sau đó ăn tối - theo đúng thứ tự như thế.”
“Dậy nào, cô nàng ngủ nướng-” Tiếng cười khúc khích của Royce đánh thức Jenny. “Đêm nay thật là đẹp,” chàng nói với nàng khi nàng trở mình và uể oải cười với chàng. “Một đêm giành cho yêu đương và bây giờ-” chàng cắn nhẹ vào tai nàng đùa nghịch “ - là ăn uống.”
Vào lúc Royce và Jenny đã đi xuống lầu, rất nhiều hiệp sĩ đã ăn xong và cái bàn ăn đã được dọn và kê gọn vào chỗ của chúng dọc bức tường. Chỉ còn những hiệp sĩ có đặc quyền ăn ở bàn chính trên bục là dường như vẫn muốn nấn ná thêm.
“Bà của tôi đâu?” Jenny hỏi họ khi Royce dẫn nàng ngồi xuống bên cạnh chàng ở trung tâm cái bàn.
Ngài Eustace nghiêng đầu về cái cổng tò vò bên trái. “Bà ấy đã đi vào bếp để hướng dẫn mấy đầu bếp nấu nướng các món cho ngày mai rồi. Tôi không nghĩ,” anh ta thêm vào với một nụ cười, “là bà ấy nhận thức được khối lượng thức ăn khổng lồ chúng tôi có thể ăn nếu chúng ngon miệng.”
Jenny nhìn quanh những cái khay trên bàn, phần lớn chúng đã trống không, và nàng thở ra một tiếng nhẹ nhõm. “Chúng có - ngon không vậy?”
“Xứng đáng dành cho các vị thần,” hiệp sĩ nói quá lên với một nụ cười. “Hỏi bất kì ai mà xem.”
“Trừ Arik,” Ngài Godfrey nói với một cái nhìn ghê tởm về phía tên khổng lồ, anh ta xé phăng cả một con ngỗng và đang ăn đến miếng cuối cùng.
Lúc đó, Bà dì Elinor ào vào trong sảnh, khuôn mặt rạng ngời một nụ cười. “Xin chào công tước,” bà nói với Royce. “Chào cháu, Jennifer.” Rồi bà đứng ở cạnh bàn, chiếu toả sự hài lòng hoàn toàn của bà tới những người quanh bàn, những khay thức ăn trống rỗng, và thậm chí cả những người hầu đang lau dọn cái bàn. “Tất cả mọi người đều có vẻ thực sự thích những món ăn của ta đấy nhỉ.”
“Nếu bọn em biết anh chị định xuống dưới này và làm sôi động bữa ăn bởi sự hiện diện của hai người,” Stefan nói với anh trai, “thì bọn em đã để phần cho hai người nhiều hơn.”
Royce giành cho em trai một cái nhìn châm biếm. “Thật vậy sao?”
“Không,” Stefan vui vẻ nói. “Đây, ăn cái bánh tạc này đi này, nó sẽ cải thiện tâm tính của anh.”
“Ta chắc chắn vẫn còn gì đó ngon lành trong bếp,” Bà dì Elinor nói, vỗ hai bàn tay nhỏ bé cực kì vui sướng trước thành công của những nỗ lực của bà. “Ta sẽ xem xem trong khi đi lấy một ít thuốc đắp. Bánh tạc sẽ cải thiện tâm tính của tất cả mọi người, trừ Arik.”
Ném một cái nhìn hài hước về phía những người đồng đội, Stefan nói thêm, “Chẳng có gì có thể cải thiện tâm tính anh ta đâu, ngay cả cành thông cũng không.”
Việc nhắc đến cành thông khiến cho tất cả bọn họ cười như thể họ đang chia sẻ một câu đùa đặc biệt thú vị nào đó, nhưng khi Jenny liếc nhìn Royce, trông chàng có vẻ cũng bối rối như nàng vậy. Bà dì Elinor đưa ra câu trả lời khi bà lại đi vào cùng với một người hầu mang những khay thức ăn nóng hổi cùng với bát và một miếng vải. “Ôi trời, đúng rồi, hôm nay Arik và ta đã mang về mọi loại thảo dược. Vào lúc chúng ta trở về, cánh tay cậu ta chất đầy những cành cây dễ thương, phải không nào?” bà nói một cách rạng rỡ.
Bà dừng lại để cầm cái bát và miếng vải lên khỏi cái khay của người hầu, và để hạn chế những tiếng cười, người phụ nữ lớn tuổi bắt đầu đi về phía Arik với món thuốc đắp của bà. “Cậu chẳng có được một ngày vui vẻ phải không?” bà ngâm nga, đặt cái bát bên cạnh Arik và nhúng miếng vải vào đó. “Và ai mà trách cậu được?”
Tỏ ra thương cảm và tội lỗi, bà nhìn Jenny và buồn bã nói, “Arik và ta đã vô tình đụng phải một con nhệnkhủng khiếp nhất mà ta xui xẻo lắm mới gặp!”
Biểu hiện của Arik trở nên đáng sợ khi anh ta nhìn bà dìm miếng vải vào trong bát qua khoé mắt hẹp, nhưng Bà dì Elinor vẫn nói tiếp một cách vô tư, “Cái sinh vật nhỏ bé độc ác ấy đã cắn Arik tội nghiệp khi cậu ta chẳng làm bất kì điều gì khiêu khích nó trừ việc đứng ngay dưới cái cây có mạng của nó. Mặc dù,” bà nói thêm, quay sang nhìn đăm đăm vào tên khổng lồ và giơ ngón tay ra lúc lắc trước mặt như thể anh ta là một cậu bé sáu tuổi, “Ta nghĩ cậu thật là hư vì đã trả đũa nó theo cách đó.”
Dừng lời để dìm miếng vải vào cái bát, bà nói với anh ta một cách nghiêm nghị, “ta có thể hiểu tại sai cậu lại xé toang cái mạng nhện bằng tay không, nhưng ta không nghĩ việc cậu đổ tội cho cái cây là hợp lí, cũng như việc đốn nó bằng cây rừu của cậu!” Bà ta hướng cái nhìn ngơ ngác về phía Ngài Godfrey, đôi vai anh ta đang rung lên vì cười, và rồi đến Ngài Eustace, đôi vai anh này cũng run rẩy và mái tóc vàng thì gần chạm tới mặt bàn khi anh ta cố dấu khuôn mặt cười của mình. Chỉ có Gawin là thật sự cảnh giác khi Bà dì Elinor nói tiếp. “Đây, cậu bé thân mến, hãy để ta đắp cái này lên m-“
“KHÔNG!” Arik đập nắm đấm lên bàn gỗ, khiến cho những cái khay nảy lên. Đứng phắt dậy khỏi bàn, anh ta chạy ra khỏi sảnh đường, cơ thể cứng lại vì tức tối.
Bị tác động, Bà dì Elinor nhìn anh ta chạy đi, rồi bà quay lại với những người ngồi quanh bàn và rẫu rĩ nói, “Cậu ta sẽ không đến nỗi gắt gỏng thế, ta chắc chắn, nếu mà cậu ta chịu ăn uống theo chỉ dẫn của ta. Nó sẽ giải quyết việc đi ngoài của cậu ta - những vấn đề về đường ruột của cậu ta,” bà nhanh nhẹn sửa lại vì những người đang ăn, “Ta nghĩ ta đã giải thích rất rõ ràng cho cậu ta hôm nay rồi mà.”
Sau bữa ăn Royce lao vào thảo luận những vấn đề đàn ông với những hiệp sĩ của chàng - từ việc cần thêm bao nhiêu người để giúp người thợ rèn sửa chữa những mũ và giáp sắt của những người lính cùng về với Royce, hay là liệu cái máy bắn đá lớn dùng trong chiến đấu có đủ nguồn cung cấp đá quanh đây hay không.
Jenny chú ý lắng nghe, yêu cái uy quyền lặng lẽ khi Royce nói chuyện và nói chung là hưởng thụ một cách không ngờ đến niềm vui của việc là một phần trong gia đình của chính nàng. Nàng đang nghĩ thật ấm áp và lạ lùng làm sao, thì Royce tạm ngừng giữa chừng cuộc thảo luận về đề tài máy bắn đá và quay sang nàng cười vẻ hối lỗi. “Chúng ta đi ra ngoài nhé? Đêm nay là một đêm tháng Mười rất đẹp - quá đẹp để chỉ quanh quẩn bàn luận những chuyện khiến nàng buồn tẻ.”
“Em không thấy buồn tẻ,” Jenny khẽ nói, tự giác cười với đôi mắt chàng.
“Ai mà đoán được,” chàng đùa cợt, “cùng chính người phụ nữ đã từng cố vạch một đường trên mặt ta bằng con dao của ta lại có thể trở thành một người vợ ngoan như thế này?” Không chờ câu trả lời của nàng, Royce quay sang những hiệp sĩ khi chàng lịch sự đỡ Jennifer đứng dậy. Sau khi nhắc nhở họ tập hợp trong sân sau bữa sáng mai để luyện tập bốn ngày một lần, Royce hộ tống Jennifer ra khỏi sảnh.
Sauk hi họ ra đi, Ngài Eustace quay sang những người khác và nói với một nụ cười, “Các anh đã bao giờ thấy Rocye cho phép mình hưởng thụ một cuộc đi dạo dưới trăng trước đây chưa?”
“Trừ khi anh ấy dự đoán một cuộc tấn công đêm của kẻ thù,” Ngài Lionel cười nói.
Ngài Godfrey, người già nhất trong nhóm, không hề cười. “Anh ấy đã mong chờ một cuộc tấn công kể từ khi đến đây.”
Một nụ cười nở trên mặt Jenny khi nàng đứng ở cửa sổ mở ra ban công, nhìn xuống sân lâu đài, trái tim nàng ngập tràn những kỉ niệm đêm qua. Căn cứ theo góc độ của mặt trời thì lúc đó đã là gần trưa, và nàng chỉ mới tỉnh dậy gần một giờ trước - đây là lần nàng dậy muộn nhất từ xưa tới nay.
Royce đã làm tình với nàng rất lâu và nhiều lần sáng nay, lần này với sự dịu dàng cực kì tinh tế và thận trọng khiến cho ngay cả lúc này mà mạch máu của Jenny vẫn loạn nhịp. Chàng không hề nói với nàng rằng chàng yêu nàng, nhưng chàng đã yêu nàng - ngay cả một người thiếu kinh nghiệm tình trường như nàng cũng có thể nhận ra, và nàng chắc chắn về điều đó. Còn có thể vì cái gì khác được khiến cho chàng hứa với nàng một điều như thế? Hay là chăm sóc nàng đến thế khi nàng ở trên giường của chàng?
Mải miết trong suy nghĩ, Jenny không hề biết Agnes đã vào trong phòng. Nụ cười vẫn còn vương trong mắt nàng, Jenny quay lại phía người hầu đang cầm trên tay một bộ váy áo chữa vội nữa cho nàng, bộ này làm bằng vải ca sơ mia mềm mại màu kem. Mặc kệ vẻ nghiêm nghị, khó chịu của cô hầu, Jenny đã dứt khoát sẽ vượt qua mọi rào cản và kết bạn với những người hầu của nàng. Chắc chắn nếu nàng đã có thể làm mềm lòng một con sói, thì không có gì khó khăn trong việc kết bạn với người hầu cả.
Tìm kiếm điều gì đó để nói với cô hầu, nàng nhận bộ váy rồi chú ý đến cái bồn đặt trong góc phòng. Túm lấy đề tài có vẻ an toàn đó, nàng nói, “Cái bồn này đủ lớn cho bốn đến năm người ấy nhỉ. Ở nhà, chúng ta hoặc là tắm trên hồ, hoặc là tắm trong một cái chậu gỗ nhỏ chỉ chứa đủ nước đến bụng mà thôi.”
“Đây là nước Anh, thưa phu nhân,” Agnes trả lời khi cô ta nhặt lên bộ váy mà Jenny đã mặc tối qua. Jenny giật mình liếc mắt nhìn cô ta, không chắc chắn liệu giọng điệu của nàng có bị cho là kẻ cả hay không.
“Chẳng lẽ tất cả những ngôi nhà lớn ở nước Anh đều có những cái bồn tắm rộng như thế này và một lò sưởi thật sự và-” nàng giơ tay lên và làm thành một cử chỉ quét qua cả căn phòng xa hoa lộng lẫy với những màn nhung và thảm dày trải khắp sàn nhà, “và tất cả những thứ như thế này -?”
“Không, thưa phu nhân. Nhưng phu nhân đang ở Claymore, và Ông Albert - tổng quản ở đây và cũng đã là tổng quản cho chủ cũ - được lệnh phải giữ cho Claymore thích hợp với một vị vua. Các đồ bằng bạc được đánh bóng mỗi tuần, và không có một chút bụi nào được phép lưu trên các tấm màn, cũng như trên sàn nhà. Và nếu có gì đó bị hỏng, nó sẽ bị vứt đi ngay lập tức để thay thế cái mới.
“Chắc hẳn phải cần rất nhiều công sức thì mới giữ cho nó hoàn hảo đến thế,” Jenny nhận xét.
“Vâng, nhưng chủ nhân mới đã bảo Ông Albert những việc phải làm, và Ông Albert, một người cứng rắn, kiêu hãnh như ông ấy, sẽ làm những gì được bảo - bất kể trong lòng ông cảm thấy như thế nào về những việc đó.”
Lời nhận xét đáng chú ý cuối cùng nhuốm nhiều cay đắng và oán giận đến nỗi Jenny không thể tin là nàng đã nghe chính xác. Đôi lông mày nàng nhíu lại khi nàng đi vòng quanh để nhìn rõ hơn người hầu gái. “Agnes, ý cô là gì?”
Agnes rõ ràng là đã nhận ra cô ta nói quá nhiều, bởi vì cô ta trở nên trắng bệch và cứng ngắc, nhìn chằm chằm vào Jenny bằng đôi mắt sợ hãi. “Tôi không có ý gì cả, thưa phu nhân. Không có gì.! Tất cảchúng tôi đều rất tự hào vì chủ nhân mới đã trở về nhà, và nếu tất cả những kẻ thù của ngài ấy tới đây, chắc chắn là chúng sẽ tới, chúng tôi sẽ tự hào được dâng hết lương thực và sức người và con cái chúng tôi cho những trận chiến của ngài. Tự hào!” cô ta nói bằng giọng trầm, cực kì tuyệt vọng vẫn còn chứa đầy oán giận. “Chúng tôi là những thần dân tốt, trung thành, và không hề có những ý nghĩ xấu về chủ nhân vì những gì ngài ấy đã làm. Và chúng tôi cũng hi vọng ngài ấy không nghĩ xấu về chúng tôi.”
“Agnes,” Jenny khẽ nói, “cô không cần phải sợ ta. Tasẽ không phản bội lại những điều cô đã nói. Cô nói ‘những việc ngài ấy đã làm’ là ý gì?”
Người phụ nữ khốn khổ run mạnh đến nỗi khi Royce mở cửa và thò đầu vào trong để nhắc Jenny cùng chàng đi xuống nhà ăn trưa, thì Agnes đánh rơi bộ váy nhung. Chộp lấy nó, cô ta ào ra khỏi phòng. Nhưng khi cô ta kéo cánh cửa gỗ sồi nặng nề ra, cô ta liếc về phía Royce, và lần này Jennifer chắc chắn nhìn thấy cô ta làm dấu thánh một lần nữa.
Vẫn cầm bộ váy ca sơ mia trên tay, Jenny nhìn đăm đăm vào cánh cửa đóng, trán nàng nhăn lại suy tư.
Đại sảnh không còn mấy dấu vết của cuộc vui đêm qua; cái bàn dài chiếm hết cả căn phòng đã được dỡ xuống và dời đi. Thực ra, tàn dư duy nhất của bữa tiệc đêm qua là khoảng một tá hiệp sĩ vẫn còn đang ngủ trên những cái ghế dài dọc các bức tường, tiếng ngáy của họ trồi lên trụt xuống đều đặn. Bất chấp không khí rộn ràng này, Jenny để ý với một chút cảm thông là những người hầu di chuyển rất chậm chạp, và hơn một người đã không tránh được cú đá thẳng cánh từ một hiệp sĩ càu nhàu trên ghế băng, khi anh ta không muốn giấc ngủ bị làm phiền.
Royce nhìn lên khi Jennifer tới bàn ăn và nhẹ nhàng, duyên dáng dứng bật dậy như một con mèo, khả năng này luôn làm nàng thấy ngưỡng mộ. “Chào buổi sáng,” chàng nói bằng giọng trầm, thân mật. “Ta tin là nàng ngủ rất ngon?”
“Vâng, rất ngon,” Jenny nói thì thào vì xấu hổ, nhưng đôi mắt nàng rạng rỡ và long lanh khi nàng ngồi xuống bên cạnh chàng.
“Chào cháu, cháu yêu quí!” Bà dì Elinor líu lo vui vẻ, khi bà nhìn lên lúc đang cắt một miếng thịt nhỏ nhắn từ cái đĩa thịt lạnh ngắt trước mặt bà. “Sáng nay trông cháu có vẻ rất vui.”
“Cháu chào bà, Bà Elinor,” Jenny nói, gửi cho bà một nụ cười trấn an; rồi nàng bối rối nhìn lên nhìn xuống cái bàn khắp những người đàn ông im lặng đang có mặt: Stefan, Ngài Godfrey, Ngài Lionel, Ngài Eustace, Arik, và Cha Gregory. Nhận thức được sự im ắng lạ kì và những đôi mắt cúi gằm của họ, nàng nói với một nụ cười dè dặt, “Chào buổi sáng, mọi người.”
Năm gương mặt chậm rãi ngẩng lên nhìn nàng - những khuôn mặt nhợt nhạt, không thoải mái trong đó biểu hiện biến đổi từ đau đớn thẫn thờ cho đến bối rối mụ mị. “Chào buổi sáng, phu nhân,” họ nhắc lại một cách lịch sự, nhưng ba người nhăn nhó và hai người khác lấy tay che mắt. Chỉ có Arik là vẫn có vẻ bình thường sáng nay, tức là chẳng có biểu hiện gì cả, và hoàn toàn không nói một câu nào với bất kì ai. Hoàn toàn lờ anh ta đi, Jenny nhìn vào Cha Gregory, người dường như cũng chẳng khoẻ khoắn hơn những người khác là bao, rồi nàng nhìn vào Royce. “Chuyện gì xảy ra với bọn họ thế?” nàng hỏi.
Royce lấy cho mình một ổ bánh mỳ trắng và thịt nguội đặt trên bàn, và những người đàn ông miễn cưỡng làm theo. “Họ đang phải trả giá cho trận nhậu bí tỉ đêm qua và những cô ha- à, say xỉn,” Royce chữa lại, mỉm cười.
Jenny ngạc nhiên liếc nhìn Cha Gregory, ông ta vừa nâng một li rượu lên môi. “Cả Cha nữa ư, Cha Gregory?” nàng hỏi, và người đàn ông tội nghiệp bị sặc rượu.
“Ta mắc lỗi thứ nhất, phu nhân,” ông ta lắp bắp tủi hổ, “nhưng ta hoàn toàn không liên quan gì đến tội lỗi sau.”
Jenny không để ý đến những lời mà Royce đã nhanh chóng nuốt lại, nhìn cha xứ một cách bối rối, nhưng Bà dì Elinor nói lảnh lót, “Ta đã lường trước được sự bê bối này, cháu yêu ạ, và sáng sớm nay, ta đã đi xuống nhà bếp để chuẩn bị một liều thuốc bổ, nhưng ta chẳng tìm thấy đến một nhúm nghệ tây!”
Lời nhận xét về nhà bếp ngay lập tức khiến Royce chú ý, và lần đầu tiên chàng nhìn Bà dì Elinor với vẻ quan tâm. “Bà có thấy nhà bếp của ta còn thiếu những thứ gì khác không - những thứ có thể làm cho tất cả những thứ này-” chàng chỉ vào thứ súp nhạt nhẽo còn thừa từ tối qua, “vừa miệng hơn?”
“Chắc chắn rồi, công tước,” bà trả lời ngay lập tức. “Ta hơi kinh ngạc trước một cái bếp nghèo nàn ghê gớm đến thế. Có lá hương thảo và húng tây, nhưng lại không có nho khô, hay là gừng, cũng không có mâm xôi và những thứ khác[] nữa. Và ta không hề nhìn thấy một loại hạt nào, trừ một hạt dẻ mốc meo! Các loại hạt là những thứ gia vị tuyệt vời cho các loại nước sốt ngon lành và các món điểm tâm tuyệt cú-”
[] Chỗ này còn kể một loạt canel, oregano blah blah nữa nhưng chịu chết chẳng biết nó là loại gia vị gì, hị hị.
Ngay khi nhắc đến “các loại nước sốt ngon lành và các món điểm tâm tuyệt cú”, Bà dì Elinor lập tức trở thành tâm điểm chú ý của đám đàn ông. Chỉ có Arik vẫn điềm nhiên không quan tâm, tỏ ra thích thú với món thịt ngỗng lạnh ngắt anh ta đang ăn hơn là nước sốt béo và các món điểm tâm.
“Nói tiếp đi,” Royce mời bà, đôi mắt tính toán của chàng nhìn xoáy vào bà với sự vui thích chăm chú. “Bà có thể làm được những món gì - giả như khi đã có đủ các loại nguyên liệu cần thiết, tất nhiên?”
“Chà, để ta nghĩ,” bà nói, trán bà hơi nhăn nhó. “Cả thập kỉ rồi ta không điều khiển một căn bếp như khi ta làm trong lâu đài đáng yêu của chính mình, nhưng - đúng rồi, có món bánh thịt nướng vỏ cứng giòn tan và đáng yêu khi chúng tan trong miệng ta; và - lấy ví dụ món gà mà anh đang ăn,” bà nói với Ngài Godfrey, hài lòng với vị trí chuyên gia mới giành được của bà. “Thay vì nướng trên cái xiên và dọn ra khô và cứng như miếng vải thế kia, đáng lẽ nó nên được ninh cùng với một nửa nước suýt, một nửa rượu, cùng với cây đinh hương, vỏ nhục đậu khấu, thì là và hạt tiêu, rồi đặt trên một cái mâm để cho nước sốt thấm vào làm bánh mỳ tăng hương vị.
“Và có rất nhiều món có thể làm với hoa quả như táo, lê, và quả mộc qua, nhưng ta cần thêm mật ong và quả hạnh và quả chà là để lên men và, cả mâm xôi nữa, nhưng như ta đã nói, chẳng thể tìm thấy một chút gì trong cái căn bếp đó cả.”
Royce nhìn bà chăm chú, món ngỗng hoàn toàn bị quên lãng. “Liệu bà có thể tìm thấy những thứ mà bà cần ở Claymore hay có lẽ trong chợ làng được không?”
“Phần lớn, ta nghĩ vậy,” Bà dì Elinor nhanh chóng trả lời.
“Trong trường hợp đó,” Royce nói bằng giọng ban bố sắc lệnh, “việc bếp núc bây giờ thuộc quyền bà, và chúng ta đều trông mong những bữa ăn ngon miệng trong tương lai.” Liếc về phìa Ông Albert Prisham, người đang đứng gần cái bàn, Royce đứng dậy và thông báo với ông ta, “Ta vừa giao việc cai quản bếp núc cho Quí bà Elinor.”
Khuôn mặt gầy nhẳng của lão tổng quản thận trọng không biểu hiện điều gì, và ông ta cúi đầu lịch sự, nhưng bàn tay đặt trên cây gậy trắng nắm lại thành một nắm đấm khi ông ta đáp, “Như tôi đã nói, thức ăn rất ít quan trọng với tôi.”
“Ấy, nó phải là thứ cực kì quan trọng với ông, Ông Albert,” Bà Elinor thông báo với ông ta một cách trịnh trọng, “vì ông toàn ăn những thứ không đúng. Những người mắc bệnh gút không bao giờ nên ăn củ cải, những thức ăn béo, và pho mát cứng.”
Khuôn mặt ông ta cứng lại. “Tôi không mắc bệnh gút, thưa bà.”
“Rồi ông sẽ mắc!” Bà dì Elinor tiên đoán khi cả bà cũng đứng dậy, sẵn sàng bắt đầu cuộc săn lùng nguyên liệu trong vườn và rừng cây.
Ông Albert lờ bà đi và nói với chủ nhân của ông ta, “Nếu ngài đã sẵn sàng để bắt đầu chuyến đi thăm lãnh địa, chúng ta cần đi ngay lập tức.” Và khi Royce gật đầu, ông ta nói thêm một cách lạnh lùng, “Tôi tin rằng ngài sẽ không thấy ở đâu khác ngoài căn bếp mà thiếu sự quản lí của tôi.”
Royce ném cho ông ta một cái nhìn kì lạ, sắc lẻm, rồi chàng cười với Jenny và lịch sự hôn vào má nàng, nhưng chàng thì thầm trong tai nàng, “ta đề nghị nàng hãy ngủ trưa thật lâu, bởi vì ta đã định sẽ lại giữ nàng thức suốt đêm.”
Jenny cảm thấy hơi nóng bốc lên hai má nàng khi Arik đứng dậy, rõ ràng là định ở bên cạnh Royce trong chuyến đi thị sát. Royce ngăn anh ta lại. “Hãy đi theo Bà Elinor trong cuộc thám hiểm của bà ấy,” chàng nói, rồi với giọng hàm ý, kì cục chàng nói tiếp, “và không để điều gì thất lễ xảy ra nhé.”
Khuôn mặt Arik đông cứng lại trước mệnh lệnh rõ ràng bắt anh ta phải hộ tống một bà già. Anh ta bước đi, toát ra vẻ oán giận và bị xúc phạm, trong khi Bà Elinor vui vẻ đuổi theo bước chân anh ta. “Chúng ta sẽ có khoảng thời gian vui vẻ, chàng trai ạ,” bà nói một cách háo hức, “mặc dù việc này có thể mất vàingày, chứ không chỉ một đâu, vì chúng ta cần toàn bộ nguyên liệu cho các loại thuốc uống và thuốc bôi của ta, cũng như các loại gia vị cho thức ăn. Ta sẽ cần cây đinh hương để làm mềm cơ bắp, và nhục đậu khấu nữa, tất nhiên rồi! Anh biết đấy, nhục đậu khấu ngăn ngừa cơn đau bụng, cũng như các cơn tiêu chảy - và rồi cả hạt nhục đậu khấu, rất có hiệu quả đối với một lá lách yếu và bị lạnh. Và ta sẽ đặc biệt chăm sóc bữa ăn cho anh, vì anh không khoẻ, anh biết không. Anh lúc nào cũng có tâm trạng ủ dột - ta đã để ý ngay lập tức...”
Ngài Eustace nhìn khắp các hiệp sĩ khác, cười tinh quái. “Lionel,” anh ta kêu to lên đủ để tên khổng lồ đang đi cũng nghe thấy, “anh có thấy là Arik của chúng ta lúc này trông “ủ dột” hay không? Hay là ‘tức khí’ mới đúng?”
Ngài Lional dừng nhai và quan sát cái lưng rộng cứng ngắc của Arik, đôi mắt ánh lên vui vẻ khi anh ta đáp lời sau một giây cân nhắc, “Arik trông tức điên.”
Ngài Godfrey vươn người dậy để tự mình nhìn. “Bị bắt nạt,” anh ta kết luận.
“Bị đau bụng,” Stefan Westmoreland nói thêm với một nụ cười. Chia sẻ sự thân mật, những người đàn ông nhìn về phía Jennifer, mời nàng tham gia trò vui của họ, nhưng nàng không cần phải từ chối bởi vì ngay lúc đó, Arik đã quay lại và ném một cái nhìn đen tối về phía bọn người đang tụ tập, cái nhìn có thể nghiền nát một tảng đá và dễ dàng hù doạ phần lớn những người đàn ông. Không may là, nó lại phản tác dụng trước các hiệp sĩ, họ nhìn trả lại anh ta và phá lên cười, tiếng cười của họ thoát ra khỏi những bức tường và vang mãi theo bước chân Arik ra ngoài trời.
Chỉ có chàng trai trẻ Gawin, người vừa mới đi đến kịp lúc để nhìn thấy Arik và Bà Elinor rời đi, là nói thay cho Arik. Quắc mắt nhìn đám đông khi anh ta ngồi xuống bàn, anh ta nói, “Đó không phải là một việc làm phù hợp với một hiệp sĩ - hộ tống một bà già đi loanh quanh để hái thảo dược và thu lượm các loại hạt. Đó là công việc của hầu gái, không phải một hiệp sĩ.”
Lionel giành cho chàng trai một cú thụi trêu đùa. “Chính cái ý nghĩ như thế khiến cho cậu suốt đời không được lòng Tiểu thư Anne, cậu nhóc. Nếu cậu mà hộ tống nàng đi loanh quanh để hái hoa, thì cậu sẽ được lòng nàng hơn nhiều so với việc xù lông nhím và cố gây ấn tượng với nàng bằng sức mạnh đàn ông của cậu - giống như cách cậu đã làm tối qua.”
Quay sang Jennifer, Ngài Lionel nói, “Cái kẻ nửa mùa này thích dùng vũ lực hơn là sự hào hoa. Cậu ta nghĩ nó đàn ông hơn, nàng thấy đó. Và trong khi cậu ta ra uy, thì Roderick khiêu vũ với Tiểu thư Anne và chiếm được trái tim nàng thiếu nữ. Nàng có thể thức tỉnh cậu ta bằng ý kiến của một phụ nữ được không?”
Nhạy cảm với nỗi hổ thẹn trai tráng của Gawin, Jenny nói, “Tôi không thể nói thay Tiểu thư Anne, nhưng với tôi, tôi chẳng thấy bất kì điều gì có thể khiến một phụ nữ ngoái nhìn Ngài Roderick.”
Sự biết ơn dâng lên trong đôi mắt Gawin trước khi anh ta bắn một cái nhìn tự mãn về phía đồng đội và rồi cắm cúi vào khẩu phần nhạt nhẽo của anh ta.
Jenny dành thời gian còn lại của buổi sáng và một phần buổi chiều trong buồng riêng cùng với những người thợ may mà Ông Albert đã thuê từ làng để giúp nàng may chỗ vải vóc. Người quản gia chắc chắn là làm việc hiệu quả, Jenny nghĩ khi nàng bới trong các hòm xiểng đã được mang đến cho nàng. Hiệu quả và lạnh lùng. Nàng không thích ông ta chút nào, mặc dù nàng không chắc chắn lắm là tại sao. Dựa vào những lời nói sáng nay của Agnes, có thể thấy tất cả gia nhân tại Claymore chắc chắn đều rất quí trọng người đàn ông gày gò đó. Kính trọng và đôi chút sợ hãi. Bối rối trước những phản ứng kì lạ, cảm tính của nàng đối với mọi người nơi đây, và với sự im lặng kéo dài, khó chịu của những người phụ nữ trong phòng, nàng quan sát những cuộn vải sặc sỡ được dàn hàng ngang qua giường và vắt lên trên ghế.Chúng nằm đó như những mảnh đá quí lỏng rực sáng - lụa hồng ngọc điểm vàng, viền vàng và bạc, nhung thạch anh tím, vải bóng sa phia lung linh như thể được dát kim cương, và sa tanh quí giá, sặc sỡ ở mọi sắc độ từ màu ngọc trai cho đến ngọc lục bảo đến đá mã não. Bên cạnh chúng là vải len mềm mại của Anh trong mọi kích thước và màu sắc, từ màu vàng nhạt nhất và màu đỏ tươi đến màu kem, xám, đồng, và đen. Còn có vải bông của Ý, kẻ dọc và ngang; vải lanh thêu đắt tiền dành cho váy, và áo sơ mi, vải lanh mỏng, gần như trong suốt cho áo lót và quần áo trong; vải dệt mỏng tang cho khăn trùm; và da để may găng tay và dép đi trong nhà.
Ngay cả khi đã may đủ một tủ quần áo cho Royce và cho chính nàng cũng như Bà dì Elinor, Jenny vẫn không thể nghĩ ra hết cách sử dụng nhiều vải vóc như thế. Bị chi phối bởi tầm quan trọng của nhiệm vụ trước mắt, và bởi sự thiếu hiểu biết về thời trang của nàng, Jenny trở nên bối rối trước hai cái hòm lớn chứa đầy lông thú. “Ta nghĩ,” nàng nói to với Agnes khi cô ta đang ôm một đống lông chồn lộng lẫy, “cái này có dùng để viền cái áo choàng làm bằng vải nhung xanh sẫm cho công tước.”
“Sa tanh màu kem,” Agnes buột miệng không kiềm chế được, rồi cô ta ngậm chặt miệng và khuôn mặt lại trở về vẻ nhăn nhó thường ngày.
Jenny quay sang cô ta ngạc nhiên nhưng hài lòng vì người phụ nữ - mà nàng vừa mới biết cũng là thợ may cho bà chủ cũ của Claymore - cuối cùng cũng nói một câu tự nguyện. Cố gắng che dấu sự kém hào hứng với ý tưởng đó, Jenny nói, “Sa tanh màu kem ư? Thật à? Cô có nghĩ là công tước chịu mặc cái đó không?”
“Cho bà,” Agnes nói bằng giọng chán nản, như thể bị ép buộc phải nói vì những thôi thúc về thời trang bên trong cô ta đã lên tiếng trước việc sử dụng sai đống lông chồn, “không phải cho ngài ấy.”
“Ồ,” Jenny nói, giật mình và hài lòng vì sự kết hợp vừa được gợi ý. Nàng chỉ về phía tấm lông thú trắng. “Còn cái đó?”
“Lông chồn ec-min để trang trí cho vải gấm màu ngọc bích thêu kim tuyến.”
“Và cho công tước?” Jenny khẩn khoản, mỗi lúc một thêm hài lòng.
“Nhung xanh sẫm, nhung đen, và nhung màu nâu sẫm.”
“Ta chẳng biết gì về thời trang cả,” Jenny thừa nhận, mỉm cười vui vẻ trước lời gợi ý. “Khi ta còn nhỏ, ta chẳng quan tâm chút nào đến việc đó, và sau đó - suốt những năm gần đây - ta đã sống trong một tu viện, và quần áo duy nhất mà ta nhìn thấy ở đó là những bộ váy tu mà tất cả chúng ta đều mặc. Nhưng ta đã thấy cô có con mắt tuyệt vời về chuyện này, và ta rất vui lòng làm theo mọi gợi ý của cô.”
Quay lại, nàng ngạc nhiên trước vẻ mặt của Agnes, cái gì đó gần giống như một nụ cười, mặc dù Jenny hơi nghi ngờ đó là do lời thú nhận đã sống trong một tu viện của nàng nhiều hơn là do lời khen ngợi đối với Agnes. Hai người thợ may còn lại, cả hai đều giữ là những cô gái trẻ nghiêm trang, dường như cũng hơi bị mềm lòng một chút. Có lẽ họ thấy nàng ít “thù địch” đi vì nàng đã sống trong một nhà thờ Công giáo thiêng liêng trong suốt những năm qua.
Agnes bước lên phía trước và bắt đầu thu thập những mảnh vải, bao gồm cả vải lanh và vải bông đã được để riêng cho từng mục đích cụ thể. “Cô có thể thiết kế áo chàng và váy luôn không?” Jenny hỏi, cúi xuống hất lên một cái áo choàng màu kem. “Ta chẳng có ý tưởng gì về kiểu dáng, mặc dù tất nhiên ta có thể giúp đỡ trong việc cắt may. Ta e là ta giỏi làm việc với kéo hơn với kim chỉ.”
Một âm thanh nghèn nghẹt như là những tiếng rúc rích bị nén lại thoát ra từ một cô gái trẻ, và Jenny ngạc nhiên quay lại để nhìn cô thợ may tên Gertrude đang đỏ bừng mặt xấu hổ. “Cô vừa cười đấy à?” Jenny hỏi, hi vọng cô ta đã cười, bất kể lí do là gì, vì nàng mong mỏi tha thiết có được một kiểu thân thiết giữa phụ nữ với nhau ở đây. Gertrude lại càng xấu hổ hơn.
“Cô đã cười, đúng không? Có phải vì ta đã nói ta giỏi sử dụng kéo không?”
Môi của cô gái rung rung và đôi mắt cô ta gần như trợn lên khi cố sức kìm nén tiếng cười trong bụng. Không hề biết nàng đang nhìn chằm chằm vào cô gái tội nghiệp, Jenny cố tưởng tượng xem điều gì khiến cho các cô hầu thấy buồn cười về chuyện nàng sử dụng kéo thành thạo. Một ý nghĩ loé lên, và miệng nàng há hốc. “Các cô đã nghe về chuyện đó rồi à? Về chuyện ta đã - đã làm với chủ nhân của các cô?”
Thực ra, đôi mắt của cô gái tội nghiệp còn mở to hơn, và cô ta nhìn vào bạn mình, nuốt trôi một tiếng cười, rồi nhìn lại Jennifer. “Vậy là chuyện đó đúng phải không, thưa phu nhân?” cô ta thì thầm.
Đột nhiên hành động xấu xa đó cũng trở nên khá hài hước với Jenny. Nàng vui vẻ gật đầu: “Đó là một việc làm tồi tệ - còn tệ hơn cả việc khâu nghiến hai cánh tay áo của chàng và-”
“Phu nhân còn làm vậy nữa ư?” Và trước khi Jenny có thể trả lời, hai người thợ may bật ra một tràng cười và bắt đầu thúc vào sườn nhau, gật đầu đồng tình. Ngay cả đôi môi của Agnes cũng rung lên vì cười.
Khi hai cô gái trẻ đã đi ra, Jenny đi vào phòng Royce cùng với Agnes để đưa cho cô ta những quần áo của chàng làm mẫu để cô ta sử dụng nó lấy số đo cho những bộ quần áo mới. Có điều gì đó thân thiết và cảm động một cách kì lạ về việc quản lí những áo kép và áo trong của chàng.
Chàng có đôi vai rộng khủng khiếp, Jenny nghĩ với một chút tự hào khi nàng cầm chiếc áo chẽn bằng len giơ lên cho Agnes - và nàng chợt để ý thấy chàng có quá ít quần áo nếu so với một người giàu có như chàng. Những bộ quần áo của chàng đều có chất lượng tuyệt hảo, nhưng chúng đã được mặc đi mặc lại rất nhiều - nó giống như một lời ngợi ca âm thầm đối với một người đàn ông có những mối quan tâm thường trực vượt xa hơn quần áo rất nhiều.
Rất nhiều áo sơ mi của chàng đã hơi bị sờn nơi cổ tay, và có hai cái bị thiếu cúc áo. Chàng thật sự cần đến một người vợ để chăm sóc những tiểu tiết như thế này, Jenny nghĩ với một nụ cười bất thường. Chẳng trách sao mấy tháng trước đây trong doanh trại chàng đã phản ứng một cách hài lòng như thế, khi nàng tự nguyện làm việc may vá. Một cảm giác tội lỗi sâu sắc cứa vào nàng vì những tổn thất vô tình nàng đã gây ra cho số quần áo ít ỏi của chàng. Không như những cô hầu, nàng không còn thấy chuyện đó buồn cười nữa, và sự thật là việc đó đã làm nàng choáng váng và buồn phiền. Điều đó dường như khá kì lạ, nhưng cũng như rất nhiều chuyện ở Claymore đều kì lạ như thế với nàng.
Giờ đây khi sự trầm lặng khó chịu đã bị phá vỡ, Agnes dường như sẵn sàng nói chuyện với nàng rất lâu về cách xử lí các loại vải vóc, và khi cô đi ra, cô thật sự đã cười ngượng nghịu với Jenny, nhưng cả điều đó cũng làm nàng phiền muộn hơn là hài lòng.
Khi cô hầu đã đi ra, Jenny đứng nguyên tại chỗ trong phòng ngủ của Royce, trán nàng nhăn lại bối rối. Không thể tìm được câu trả lời, nàng choàng một chiếc áo choàng mỏng lên vai rồi đi ra ngoài để tìm kiếm những câu trả lời từ một người mà nàng cảm thấy dễ dàng nói chuyện cùng.
Ngài Eustace, Ngài Godfrey, và Ngài Lionel đều ở trong sân lâu đài, đang ngồi trên một ghế băng bằng đá, khuôn mặt họ nhễ nhại mồ hôi, những thanh gươm lủng lẳng hờ hững trên tay họ, rõ ràng là họ đang cố khôi phục sức khoẻ sau một đêm nhậu nhẹt và một buổi chiều tập luyện chuyên cần với gươm giáo. “Các anh có nhìn thấy Cha Gregory không?” Jenny hỏi.
Ngài Eustace nghĩ anh đã nhìn thấy cha xứ đang nói chuyện với người đánh xe, và Jenny bắt đầu đi về hướng anh chỉ, không biết chắc ngựa được giữ trong toà nhà nào trong số những toà nhà bằng đá được xây thành cụm xung quanh vành đai trong của tường thành. Có thể dễ dàng nhận ra kiến trúc cao, có ống khói chạm trổ của nhà bếp bên cạnh lâu đài. Bên cạnh bếp là nhà kho, nhà nấu rượu, và một nhà nguyện nhỏ rất dễ thương. Ngang qua sân là xưởng rèn nơi ngựa được đóng móng và Gawin đang bận rộn lau chùi khiên cho Royce, lờ đi hàng đống thương và vũ khí đang chờ được sửa chữa bởi những người thợ rèn thấp kém hơn anh ta. Chuồng ngựa được đặt bên cạnh nó, và phía trên chuồng ngựa là một cái chuồng lợn cũ, và một chuồng chim bồ câu lớn, mà giờ chẳng còn con chim nào.
“Phu nhân đang tìm ai phải không?” Jenny quay người ngạc nhiên trước giọng nói của cha xứ. “Vâng, tìm cha đó,” nàng trả lời, cười vì sự hoảng loạn của chính mình. “Con muốn nói chuyện với cha về... vài việc,” nàng nói, cảnh giác liếc về phía khoảng một trăm người đang bận rộn làm những việc khác nhau trên sân lâu đài. “Nhưng không phải ở đây.”
“Có lẽ ta nên đi dạo một chút ra ngoài cổng chăng?” Cha Gregory gợi ý, ngay lập tức hiểu ra mong muốn nói chuyện ở nơi không bị nhìn hoặc bị nghe lén của nàng.
Tuy nhiên, khi họ đi tới chỗ lính gác ở cổng, Jenny nhận được một thông báo kinh ngạc. “Tôi rất tiếc, thưa phu nhân,” người lính gác lịch sự kiên quyết từ chối, “nhưng tôi đã được lệnh không để phu nhân rời khỏi lâu đài trừ khi có công tước tháp tùng.”
Jenny chớp mắt giận dữ với anh ta. “Cái gì cơ?”
“Phu nhân không thể rời-”
“Ta đã nghe anh rồi,” Jenny nói, kiềm chế cơn tức khí của mình. “Ý anh là ta là - ta là tù nhân ở đây chứ gì?”
Người lính gác, một người lính đã có nhiều kinh nghiệm trận mạc nhưng lại chẳng có chút kinh nghiệm nào trong việc đối đầu với các phu nhân quí tộc, bắn một cái nhìn báo động về phía cấp dưới của mình, anh này đã bước về phía trước, cúi người lịch sự, và nói, “Đây là một yêu cầu vì... à... vì an toàn của bà, thưa phu nhân.”
Nghĩ rằng anh ta muốn nói đến việc nàng không an toàn khi đi vào trong làng sau những chuyện đã xảy ra ngày hôm qua, Jenny vẫy vẫy tay trong không khí. “Ồ, nhưng ta không định đi xa hơn mấy cái cây kia và-”
“Tôi xin lỗi. Mệnh lệnh của đức ông rất nghiêm ngặt.”
“Ta hiểu rồi,” Jenny nói, nhưng nàng không hiểu gì hết, và nàng cũng không thích cái ý nghĩ bị cầm tù một chút xíu nào. Nàng bắt đầu quay đi, rồi nàng lại vòng về phía người lính gác không may. “Nói cho ta biết một chuyện,” nàng nói bằng giọng trầm, đáng ngại. “Cái... lệnh cấm này... là đối với tất cả mọi người rời khỏi toà lâu đài, hay là chỉ với ta thôi.”
Ánh mắt anh ta hướng tới đường chân trời. “Chỉ với bà thôi, thưa phu nhân. Và bà dì của bà nữa.”
Giận dữ và xấu hổ, Jenny quay đi, và nàng nhận ra rằng Royce đã ra lệnh cho Arik đi theo Bà dì Elinor - chắc chắn là để làm lính gác chứ chẳng phải người hộ tống.
“Ta biết một chỗ khác,” Cha Gregory vô tư gợi ý, kéo tay nàng và dẫn nàng đi ngang qua khoảng sân rộng.
“Con không thể tin được!” Jenny giận dữ thì thào. “Con là một tù nhân ở đây.”
Cha Gregory làm một cử chỉ bao quát toàn bộ khoảng sân bát ngát với tất cả mọi thứ trong đó bằng một bàn tay. “À, nhưng thật là một nhà tù lộng lẫy làm sao,” ông nhận xét với một nụ cười tán thưởng. “Đẹp đẽ hơn mọi toà lâu đài mà ta từng được thấy.”
“Một nhà tù,” Jenny thông báo với ông một cách u ám, “thì chỉ là một nhà tù mà thôi!”
“Có thể là,” vị cha xứ nói mà không hề tranh cãi với luận điểm của nàng, “chồng con có những lí do của ông ấy, không như những gì con nghĩ, về việc muốn giữ con trong vòng bảo vệ hoàn toàn của ông.” Không hề biết cha xứ đang dẫn mình đi đâu, nàng vẫn đi theo ông ta tới nhà nguyện. Ông ta mở cánh cửa và đứng lại cho nàng vào trước.
“Những loại lí do gì kia?” nàng hỏi ngay khi họ ở trong căn buồng tối, mát lạnh của nhà nguyện.
Cha Gregory chỉ tay vào một cái ghế bằng gỗ sồi bóng loáng và Jenny ngồi xuống. “Tất nhiên, ta không biết. Nhưng với ta công tước không có vẻ là một người hành động khinh suất vô lí.”
Giật mình, Jenny chăm chăm nhìn vào cha xứ. “Cha thích chàng phải không, thưa cha?”
“Đúng vậy, nhưng quan trọng hơn là, con có thíchông ấy hay không?”
Jenny giơ hai bàn tay lên. “Cho đến vài phút trước, khi con khám phá ra là con không thể rời khỏi sân lâu đài, con có lẽ đã trả lời là có.”
Cha Gregory khoanh tay lại, bàn tay và cổ tay bị dấu vào trong hai cánh áo trắng của bộ áo thầy tu. “Còn bây giờ?” ông hỏi, một bên lông mày màu vàng nhếch lên, “sau khi đã khám phá ra điều đó - con còn thích ông ấy không?”
Jenny nở nụ cười buồn bã và gật đầu một cách bất lực.
“Ta cũng nghĩ câu trả lời sẽ như vậy,” ông hóm hỉnh nói, ngồi vào cái ghế bên cạnh nàng. “Bây giờ thì, con muốn nói với ta chuyện bí mật gì thế?”
Jenny cắn môi, cố gắng nghĩ cách giải thích điều đó. “Cha có chú ý đến điều gì đó - à - kì quặc về thái độ của tất cả mọi người ở đây không? Không phải là với con, mà là với chồng con?”
“Kì quặc theo nghĩa nào?”
Jenny kể cho ông nghe việc nhìn thấy các cô hầu làm dấu thánh bất cứ khi nào Royce đến gần, và cũng nhắc đến việc nàng nghĩ thật kì lạ khi không có ai chào mừng chủ nhân của họ trở về ngày hôm qua. Nàng kết thúc bằng cách kể cho cha xứ nghe niềm vui thích của mấy cô hầu khi nàng tình cờ xác nhận những lời đồn thổi về chuyện nàng làm hỏng quần áo và chăn màn của chàng.
Thay vì thấy chướng tai gai mắt vì sự phá hoại của Jenny, Cha Gregory lại nhìn nàng gần như là ngưỡng mộ. “Con đã thật sự - cắt nát mấy cái chăn của họ?”
Nàng gật đầu không mấy thoải mái.
“Con là một cô gái cực kì dũng cảm, Jennifer ạ, và ta cảm thấy rằng con sẽ còn cần đến nó trong tương lai khi phải đối đầu với chồng con.”
“Con chẳng dũng cảm gì hết cha à,” nàng thú nhận với một nụ cười nhăn nhó. “Con không hề nghĩ đến chuyện vẫn còn ở đó để mà nhìn thấy phản ứng của chàng, vì Brenna và con đã lên kế hoạch chạy trốn vào sáng ngày hôm sau.”
“Trong bất cứ trường hợp nào con cũng không nên phá hỏng những cái chăn mà họ cần để giữ ấm, nhưng ta chắc là con cũng đã nhận ra sai lầm đó rồi,” ông ta nói thêm. “Bây giờ, ta có nên cố gắng lí giải cho câu hỏi về phản ứng “kì quặc” của những người dân làng với ông chủ mới của họ chưa?”
“Vâng, xin cha. Con có tượng tưởng ra mọi chuyện không?”
Cha Gregory đột ngột đứng lên, đi tới bên đống nến ở trước một cây thánh giá trạm trổ công phu, và vẩn vơ dựng thẳng một cây nến đã bị đổ trước đó. “Con không tưởng tượng gì hết. Ta cũng chỉ ở đây mới một ngày, nhưng những người ở đây đã không có cha đạo trong hơn một năm, bởi thế họ rất sẵn lòng nói chuyện với ta.” Cau mày, cha xứ quay sang nàng. “Con có biết rằng chồng con đã vây hãm chính nơi này tám năm về trước?”
Khi Jennifer gật đầu, trông cha xứ có vẻ nhẹ lòng.
“Rồi à, vậy thì, con đã bao giờ được chứng kiến một cuộc vây hãm chưa? Những chuyện sẽ xảy ra trong đó?” “Chưa à.”
“Chắc chắn nó chẳng phải là một cảnh tượng hay ho gì. Có người còn nói rằng ‘khi hai quí tộc tranh cãi với nhau, thì túp lều của những người nghèo sẽ cháy rụi,’ và đó là sự thật. Không chỉ có toà lâu đài và chủ nhân của nó phải gánh chịu hậu quả, mà còn cả những người tá điền và người hầu nữa. Mùa màng của họ bị kẻ những kẻ phòng ngự và những kẻ tấn công cướp đoạt, con cái họ bị giết trong cuộc xung đột, và nhà cửa của họ bị phá huỷ. Cũng không hiếm có những kẻ tấn công đã cố tình đốt phá làng mạc xung quanh toà lâu đài, để huỷ diệt các cánh đồng và bãi cỏ, và thậm chí là giết người, để tránh việc kè thù gia tăng quân số.”
Mặc dù chẳng có điều nào trong những việc này là hoàn toàn mới mẻ với Jenny, nhưng nàng chưa bao giờ tận mắt chứng kiến quá trình vây hãm hay là ngay sau đó. Tuy nhiên, bây giờ khi nàng đang ngồi trong một nhà nguyện nhỏ yên bình đặt trên chính vùng đất mà Royce đã từng vây khốn, thì hình ảnh của nó trở nên rõ ràng một cách khó chịu.
“Chắc chắn là chồng con đã làm một trong những việc nói trên khi ông ta vây hãm Claymore, và, trong khi ta có thể chắc chắn động cơ của ông ấy không hề mang tính cá nhân mà chỉ vì lợi ích tốt nhất cho Nhà vua, thì những người dân ở đây chẳng mấy quan tâm tới các vấn đề của quí tộc khi họ bị khánh kiệt vì một cuộc chiến, trong đó họ chẳng được lợi lộc gì nhưng lại mất đi mọi thứ.”
Jenny nghĩ về những bộ tộc vùng cao nguyên, họ chỉ chiến đấu và chiến đấu, không mảy may phàn nàn về những mất mát, và nàng lắc đầu bối rối. “Ở đây thật khác.”
“Không giống như các thành viên trong lãnh địa của con, đặc biệt là những người ở vùng cao nguyên, người dân thường nước Anh không được chia sẻ chiến lợi phẩm,” Cha Gregory nói, thấu hiểu sự hoang mang của nàng và cố gắng giải thích. “Theo luật pháp của nước Anh, tất cả đất đai thực ra đều thuộc về nhà vua. Từ đó nhà vua sẽ ban tặng từng vùng cho những quí tộc mà ông ta yêu thích như là phần thưởng cho lòng trung thành hoặc những cống hiến đặc biệt. Những quí tộc này chọn lựa địa điểm mà họ muốn vàgiao cho tá điền một phần đất đai của họ, đổi lại những người này phải làm việc hai hoặc ba ngày một tuần trên các cánh đồng của chủ hoặc là phục vụ trong khuôn khổ lâu đài. Tất nhiên, đôi lúc họ cũng phải đóng góp lương thực hoặc là sản phẩm làm ra.
“Những khi có chiến tranh hay nạn đói, vị lãnh chúa, về mặt đạo đức mà nói - chứ không bị ép buộc theo luật pháp - phải bảo vệ lợi ích của những thần dân và người hầu của họ. Đôi khi họ có làm, nhưng thông thường chỉ là vì lợi ích của chính họ mà thôi.”
Khi Cha Gregory rơi vào im lặng, Jenny chậm rãi hỏi, “Ý cha là họ sợ chồng con sẽ không bảo vệ họ? Hay cha muốn nói họ ghét chàng vì đã vây hãm Claymore và đốt cháy các cánh đồng?”
“Cả hai đều không.” Cha Gregory nói một cách buồn bã, “những người tá điền là một tập thể rất can đảm, và họ ý thức được rằng các cánh đồng sẽ bị đốt cháy mỗi một thế hệ hoặc là khi lãnh chúa của họ dính dáng đến một cuộc chiến với kẻ thù của ông ta. Nhưng trong trường hợp của chồng con, thì lại khác.”
“Khác?” Jenny nhắc lại. “Theo nghĩa nào ạ?”
“Ông ấy đã dành cả đời trong chiến trận, và họ lo sợ rằng tất cả những kẻ thù của ông sẽ từng người từng người một bắt đầu hướng tới Claymore để trả thù. Hoặc là ông ấy sẽ mời gọi họ tới đây để thoả mãn niềm yêu thích chiến đấu của mình.”
“Thật lố bịch,” Jenny nói.
“Đúng vậy, nhưng để họ nhận ra điều đó thì còn mất nhiều thời gian đấy.”
“Vậy mà con đã tưởng họ phải tự hào bởi vì chàng là - chàng là một người hùng của nước Anh.”
“Họ tự hào. Và họ vui sướng và tự tin rằng ông ấy, không giống như người tiền nhiệm, sẽ sẵn sàng và có khả năng bảo vệ họ nếu cần thiết. Sức mạnh, quyền lực của ông ấy về mặt này là một ưu điểm rất lớn. Thực tế, họ hoàn toàn kính sợ ông ấy.”
“Chết khiếp chàng thì đúng hơn,” Jenny nói một cách khó chịu, nhớ lại phản ứng của mấy cô hầu trước sự hiện diện của chàng.
“Cả điều đó nữa, cũng là có lí do tích cực.”
“Con chẳng thấy họ có lí do gì phải sợ chàng đến như thế,” Jenny đáp lại với sự kết tội chắc chắn.
“À, nhưng mà họ có đó. Hãy thử đặt mình vào địa vị của họ: chủ nhân mới của họ là một người đàn ông được gọi là Sói - được đặt tên theo một con dã thú tàn bạo, chuyên cướp phá, tấn công và ngấu nghiến nạn nhân của nó. Hơn nữa, truyền thuyết - không phải sự thật, mà là những truyền thuyết - nói rằng ông ấy thô bạo với bất kì ai ngáng đường mình. Với tư cách là chủ nhân mới của họ, ông ấy cũng sẽ có quyền định đoạt thuế khoá và đương nhiên có quyền được ngồi phân xử những cuộc tranh cãi và đưa ra sự trừng phạt cho những kẻ sai trái. Bây giờ,” Cha Gregory nói với một cái nhìn sắc sảo, “dựa trên danh tiếng của ông ấy cho những sự đau khổ và độc ác đã làm, liệu ông ấy có phải là kiểu người mà con mong muốn sẽ định đoạt mọi thứ đó cho con không?”
Jenny giận dữ. “Ồ, nhưng chàng không gây ra đau khổ hay là tàn ác. Nếu chàng chỉ tệ bằng phân nửa như thế, em gái con và con đã phải chịu đựng một số phận đau đớn hơn nhiều khi ở trong tay chàng.”
“Đúng vậy,” cha xứ đồng tình, mỉm cười tự hào với nàng. “Giờ tất cả những việc chồng con cần làm là dành nhiều thời gian với người dân của ông ấy để họ có thể đưa ra những kết luận của riêng họ.”
“Cha làm cho mọi chuyện có vẻ rất dễ dàng,” Jenny nói, đứng lên và phủi áo váy.
“Và ta nghĩ sẽ như vậy. Hi vọng rằng chẳng bao lâu nữa những người dân này sẽ nhận ra ông ấy-”
Cánh cửa bật tung khiến cả hai người quay lại cùng lúc để nhìn thấy biểu hiện vui mừng lướt qua gương mặt giận dữ của Royce. “Không ai biết nàng ở đâu,” chàng nói, bước về phía Jennifer, tiếng bước chân đi ủng của chàng vang vọng trên mặt sàn gỗ bóng loáng của nhà nguyện. “Sau này, đừng bao giờ biến mất mà không nói với ai nàng đi đâu như thế nữa.”
Cha Gregory liếc nhìn khuôn mặt phẫn nộ của Jennifer và lịch sự xin phép rút lui.
Ngay khi cánh cửa đóng lại phía sau ông, Jenny quát lại, “tôi không biết là tôi đã thành tù nhân ở đây rồi đấy.”
“Sao nàng lại muốn ra khỏi toà lâu đài?” Royce hỏi, không thèm giả vờ như chàng không hiểu nàng muốn nói gì.
“Bởi vì tôi muốn nói chuyện riêng với Cha Gregory mà không bị tất cả người hầu trong sân theo dõi và nghe lén,” Jenny u ám thông báo với chàng. “Bây giờ, đến lượt ông trả lời câu hỏi của tôi. Tại saotôi lại bị cấm rời nơi này? Đây là nhà tôi hay là nhà tù của tôi? Tôi sẽ không-”
“Nhà của nàng,” chàng ngắt lời, và trước sự bối rối hoàn toàn của nàng, chàng bỗng mỉm cười. “Nàng có đôi mắt xanh nhất trên đời,” chàng nói thêm với một tiếng cười trầm đục, tán thưởng. “Khi nàng giận, chúng biến thành màu xanh của vải nhung ướt.”
Jenny trợn mắt lên vì kinh tởm, nhất thời bị xoa dịu bởi câu trả lời của chàng rằng đây là nhà nàng. “Nhung ướt á?” nàng nhắc lại giận dữ, hỉnh mũi. “Nhung ướt.”
Hàm răng trắng của chàng sáng loé trong nụ cười tàn phá. “Không à? Thế ta phải nói gì nào?” Nụ cười của chàng hấp dẫn không tả được, và Jenny trượt theo tâm trạng đùa cợt của chàng, “À, chàng có thểnói rằng màu của chúng như là-” nàng liếc về phía viên ngọc bích lớn ở trung tâm của cây thánh giá “ - màu ngọc bích vậy,” nàng nói. “Nói thế còn có âm điệu nữa.”
“À, nhưng mà ngọc bích lạnh lẽo lắm, trong khi mắt nàng ấm áp và biểu cảm. Ta có làm tốt hơn không?” chàng cười khúc khích khi nàng không còn đưa ra được lời tranh cãi nào về nhung ướt được nữa.
“Tốt hơn nhiều rồi,” nàng sẵn sàng đồng ý. “Chàng muốn nói tiếp chăng?”
“Quyến rũ nàng bằng những lời khen á?”
“Chắc chắn rồi.”
Môi chàng cong lên vì cười. “Tốt thôi. Hàng mi nàng nhắc ta nhớ tới một cây chổi đầy bồ hóng.”
Jenny nổ ra một tràng cười thánh thót như tiếng nhạc. “Một cái chổi!” nàng cuời vui vẻ, lắc lắc đầu với chàng.
“Chính xác. Và làn da nàng trắng và mềm và mượt mà. Nó nhắc ta nhớ đến...”
“Vâng?” nàng thúc giục, vẫn cười.
“Một quả trứng. Ta có nên tiếp không?”
“Ôi, xin đừng,” nàng lẩm bẩm, cười ngặt nghẽo.
“Ta nghĩ ta không làm tốt lắm nhỉ.” Chàng nói, cười với nàng.
“Em đã nghĩ là,” nàng nghẹn thở rầy la, “ngay cả cung đình nước Anh cũng đòi hỏi một mức độ hành xử kiểu cách nhất định. Chẳng lẽ chàng chưa bao giờ giành thời gian ở triều đình hay sao?”
“Càng ít càng tốt,” chàng khẽ nói, nhưng sự chú ý của chàng đã chuyển hướng tới đôi môi khơi gợi đang cười của nàng, và không hề báo trước chàng kéo nàng vào lòng, miệng chàng đói khát và khẩn thiết trên miệng nàng.
Jenny cảm thấy nàng đang chìm trong dòng xoáy ngọt ngào, mê đắm của niềm khao khát của chàng, và nàng phải cố lắm mới kéo miệng mình khỏi chàng đuợc. Đôi mắt chàng đã tối đi vì đam mê, nhìn sâu vào mắt nàng.
“Chàng vẫn chưa nói với em tại sao,” nàng run rẩy thì thào, “em lại bị cấm rời khỏi toà lâu đài.”
Bàn tay Royce từ từ trượt dọc cánh tay nàng khi chàng cuối đầu xuống với nàng một lần nữa. “Chỉ trong vài ngày nữa thôi...” chàng trả lời, hôn nàng giữa những câu nói, “cho đến khi ta chắc chắn là không còn rắc rối nào...” chàng kéo nàng lại chặt hơn nữa “... từ bên ngoài.”
Hài lòng, Jenny thả mình vào niềm sung sướng đến kì lạ được hôn chàng và cảm nhận cơ thể to lớn của chàng cứng lại vì ham muốn.
Mặt trời đã bắt đầu đi xuống khi họ băng qua sân lâu đài về phía đại sảnh. “Em tự hỏi Bà dì Elinor đã chuẩn bị gì cho bữa tối,” nàng nói, ngẩng lên cười với chàng.
“Vào lúc này,” Royce đáp lại với một cái nhìn đầy ý nghĩa, “sự ngon miệng của ta bị khuấy động bởi cái gì khác chứ không phải thức ăn. Tuy nhiên, nhân tiện nói về chuyện đó, bà dì của nàng có thật sự giỏi việc bếp núc như bà ta đã nói không?”
Jenny liếc nhìn nàng do dự. “Nói thật với chàng, em không thể nhớ ai trong gia đình mình đã từng khen ngợi tài nấu nướng của bà. Bà luôn luôn được ca ngợi nhờ những phương thuốc - những người phụ nữ thông thái từ khắp đất nước Scotland thường tìm tới bà xin những liều thuốc bôi và công thức cho những thứ đại loại vậy. Bà dì Elinor tin rằng thức ăn được chế biến, nấu nướng đúng cách, có thể xoá bỏ mọi loại bệnh tật, và từng loại thức ăn cụ thể thì có những công dụng chữa bệnh riêng.”
Royce chun mũi. “Thuốc bằng món ăn à? Ta chẳng hề biết chuyện đó chút nào.” Chàng liếc nàng một cái, như thể có điều gì đó chợt hiện ra trong đầu chàng: “Nàng có giỏi nấu ăn không?”
“Không hề,” nàng vui vẻ đáp lại. “Cắt gọt mới là sở trường của em.”
Royce thốt ra một tiếng cười lớn, nhưng chợt thấy bóng dáng của Ông Albert đang chạy về phía họ ngang qua sân, khuôn mặt chàng đã trở nên nghiêm khắc hơn cả thường ngày, dập tắt ngay niềm vui của Jenny. Đôi mắt lạnh lẽo, thân hình gầy nhẳng và đôi môi mỏng dính của người quản gia đã khiến cho ông ta trông có vẻ độc ác kiêu ngạo, ngay lập tức làm Jenny khó chịu. “Thưa công tước,” ông ta nói với Royce, “kẻ phạm tội ném bùn ngày hôm qua đã được mang tới đây.” Ông ta chỉ tay về phía xưởng rèn ở đầu kia của sân, ở đó hai người lính gác đang giữ một cậu bé mặt trắng bệch trong tay họ, và một đám đông người hầu đang tụ tập. “Tôi có nên giải quyết chuyện này không ạ?”
“Không!” Jenny buột kêu, không thể kiềm chế nổi sự căm ghét với người đàn ông này.
Người quản gia quay từ Jennifer sang Royce với một tia nhỏ xíu căm tức trong đáy mắt. “Đức ông?” ông ta hỏi, phớt lờ nàng.
“Ta không có kinh nghiệm giải quyết những vụ vi phạm dân sự hay là mấy cái thủ tục này,” Royce nói với Jennifer, rào đón một cách rõ ràng. Họ đã đi đến rìa ngoài của đám đông đang ngày một tăng, và Jenny hướng cái nhìn khẩn khoản về phía chồng nàng, trí óc nàng vẫn còn nghe những lời Cha Gregory đã nói. “Nếu chàng không muốn giải quyết chuyện này, hãy để em làm thay chàng,” nàng nôn nóng tình nguyện. “Em đã thấy cha trong Ngày phán xử vô số lần rồi, và em biết phải làm thế nào.”
Royce quay về phía người quản gia. “Hãy giải quyết các thủ tục theo cách thông thường, và phu nhân của ta sẽ quyết định sự trừng phạt.”
Ông Albert nghiến răng chặt đến nỗi xương gò má của ông ta nhô ra hơn nữa dưới lớp da, nhưng ông ta vẫn cúi đầu tuân lệnh. “Tuân lệnh, thưa đức ông.”
Đám đông rẽ ra để họ đi qua, và Jenny để ý thấy rằng tất cả mọi người đứng bên phía Royce đều di chuyển về phía sau nhiều hơn mức cần thiết để chàng đi qua - xa hẳn tầm với của chàng.
Khi họ đi tới trung tâm của vòng tròn, Ông Albert không mất chút thời gian nào trong việc chuẩn bị thực thi công lí. Với cái nhìn lạnh toát lên cậu bé đang sợ sệt, cánh tay cậy bị giữ chặt bởi hai người lính, Ông Albert nói, “Ngươi bị kết tội cố tình tấn công nữ chủ nhân của Claymore, một tội ác nghiêm trọng nhất theo luật lệ nước Anh - và người đáng bị trừng phạt ngay ngày hôm qua. Như thế sẽ dễ dàng hơn cho ngươi khi phải đối mặt với nó ngày hôm nay,” lão quản gia nhanh chóng kết thúc, khiến cho Jenny nghĩ vẩn vơ rằng ông ta vừa khiến sự ân xá của Royce trở thành một sự tra tấn cố ý.
Những giọt nước mặt tràn trề trên gương mặt cậu bé, và ở rìa của đám đông một người phụ nữ mà Jenny lập tức đoán là mẹ của cậu bé, đang dùng bàn tay che mặt lại và bắt đầu nức nở. Chồng bà đứng bên cạnh bà, khuôn mặt đông cứng, đôi mắt ánh lên nỗi đau đớn vì đứa con trai.
“Ngươi có chối không, nhóc con?” Ông Albert quát.
Đôi vai nhỏ của cậu bé rung lên vì cơn nức nở uất nghẹn, cậu bé gục đầu xuống và lắc đầu.
“Nói to lên!”
“K-” cậu dùng vai áo chẽn để quết đi những giọt nước mặt tủi hổ trên khuôn mặt. “Không.”
“Tốt nhất là ngươi không chối,” lão quản gia lại nói gần như là tử tế, “vì chết đi trong khi tâm hồn dối trá thì ngươi sẽ bị nguyền rủa muôn kiếp.”
Khi nhắc đến từ chết, người mẹ thổn thức của cậu lao mình ra khỏi cánh tay níu giữ của chồng và chồm về phía con trai bà ta, vòng cánh tay quanh cậu bé, nép đầu cậu vào ngực bà. “Vậy thì cứ làm cho rồi đi!” bà ta khóc lóc tức tưởi, quắc mắt nhìn vào những lính gác gươm giáo sẵn sàng. “Đừng có doạ nạt thằng bé nữa,” bà ta thổn thức, nắm chặt cậu bé trong tay mình. “Các người không thấy nó đã quá sợ rồi ứ-” bà ta lại khóc nức nở, giọng bà hạ xuống gần như một lời thì thầm run run. “Làm ơn... tôi không muốn thằng bé... sợ hãi.”
“Hãy gọi cha xứ,” Ông Albert quát.
“Ta không hiểu,” Royce cắt ngang bằng giọng lạnh như băng khiến cho bà mẹ của cậu bé càng ôm chặt cậu hơn và khóc dữ hơn, “tại sao chúng ta lại cần một bài cầu kinh vào thời điểm không thích hợp này.”(why we need to have a mass said at this unlikely hour. - chả hiểu gì luôn)
“Không phải là cầu kinh, mà là một lời thú tội,” lão quản gia nói, không hề nhận ra Royce đã cố ý hiểu lầm lí do gọi Cha Gregory của ông ta. Quay sang bà mẹ của cậu bé, Ông Albert nói, “Ta cho rằng đứa con trai ti tiện của bà đương nhiên muốn được tự cứu mình bằng sự ban phước cuối cùng của Nhà thờ?” người phụ nữ gật đầu bất lực khi không thể nói được qua làn nước mắt của mình.
“Không!” Royce quát, nhưng người mẹ kích động đã gào lên, “Có! Đó là quyền của nó! - Nó có quyền được ban phước lần cuối cùng trước khi chết!”
“Nếu nó chết,” Royce nhấn mạnh một cách lạnh lùng, “thì đó là do bị nghẹt thở vì cánh tay bà. Lùi lại và để cho cậu ta thở đi!”
Một niềm hi vọng đau đáu hiện lên trên mặt bà mẹ, bà ta nao núng khi nhìn quanh những khuôn mặt căng thẳng của đám đông, và bà ta nhận ra không có một ai có cùng niềm hi vọng hão huyền vào một sự ân xá như bà. “Ngài định làm gì với nó, thưa đức ông?”
“Đó không phải là quyết định của ta,” Royce đáp lại, sự tức giận của chàng lại dâng lên khi chàng nghĩ lại những cái tên mà bọn họ đã ném vào vợ chàng ngày hôm qua. “Vì vợ ta mới là người bị cậu ta tấn công, nên điều đó phụ thuộc vào nàng.”
Thay vì thấy nhẹ lòng, người mẹ lấy tay che miệng, đôi mắt hoảng sợ của bà ta dính lấy Jenny, và Jenny không còn có thể đứng nhìn người phụ nữ tội nghiệp ấy tự tra tấn mình vì sự hoang mang thêm nữa, nàng quay sang cậu bé và nói nhanh, nhưng không hề thiếu độ lượng, “Tên em là gì?”
Cậu bé nhìn chằm chằm vào nàng qua đôi mắt sũng nước, cả người cậu rung lên. “J-Jake. Thưa p-phu nhân.”
“Ta hiểu rồi,” Jenny nói, điên cuồng nghĩ xem cha nàng sẽ xử lí tình huống này như thế nào. Nàng biết rằng tội lỗi không thể không bị trừng phạt, vì như thế sẽ nuôi dưỡng thêm nhiều tội lỗi khác và khiến chồng nàng trở thành kẻ yếu đuối. Mặt khác, độc ác quá cũng không thể được, đặc biệt khi cậu bé còn quá nhỏ thế này. Cố gắng tạo cho đứa trẻ một sự bào chữa nàng nhẹ nhàng nói, “Đôi khi, khi chúng ta rất háo hức về một việc gì đó, chúng ta làm những việc mà mình không định làm. Có phải em cũng thấy giống như thế khi ném cục đất đi không? Có lẽ em không định ném ta bằng cái đó đúng không?”
Jake nuốt nước bọt hai lần, yết hầu của cậu nhảy lên nhảy xuống trên cái cổ dài, gầy nhom. “Cháu - cháu-” cậu nhìn vào khuôn mặt cứng ngắc của công tước và chọn cách không nói dối -“Cháu luôn luôn ném trúng đích đã ngắm,” cậu đau khổ thừa nhận.
“Thật sao?” Jenny nói, trì hoãn thêm thời gian và suy nghĩ thêm cách giải quyết khác.
“Vâng ạ,” cậu thừa nhận trong một tiếng thì thào. “Cháu có thể ném trúng giữa hai mắt của một con thỏ bằng một viên đá và giết nó chết nghéo nếu nó đứng đủ gần để nhìn thấy. Cháu không bao giờ ném trượt.”
“Thật vậy à?” Jenny nhắc lại, bị ấn tượng. “Ta cũng đã từng cố nhắm một con chuột ở khoảng cách bốn mươi bước và đã giết được nó.”
“Thật á?” Jake hỏi, hoàn toàn bị ấn tượng.
“Ù - à, bỏ qua đi,” nàng nhanh chóng sửa lại trước cái nhìn khiển trách của Royce. “Em không định giếtta, phải không?” nàng hỏi, và để khiến cho cậu bé ngốc nghếch thừa nhận như thế, nàng nhanh chóng nói thêm, “Ý ta là, em không muốn phạm phải tội ác giết người khiến cho linh hồn em bị đoạ đày mãi mãi phải không?”
Cậu bé dứt khoát lắc đầu trước câu hỏi ấy.
“Vậy thì đó chỉ là một giây phút quá hứng chí, phải không nào?” nàng thúc giục, và trước sự hài lòng của nàng, cuối cùng cậu bé cũng gật đầu.
“Và tất nhiên là em quá đỗi tự hào với kĩ năng của mình nên có lẽ muốn biểu diễn trước tất cả mọi người một chút?”
Cậu bé rụt rè rồi miễn cưỡng gật đầu.
“Đó, mọi người thấy đó!” Jenny nói và nhìn quanh đám đông căng thẳng, chờ đợi và cất cao giọng nói với nỗi vui mừng, “Cậu bé không định làm điều xấu gì cả, và ý định thì cũng quan trọng gần như là tội lỗi vậy.” Quay sang Jake, nàng nghiêm giọng nói, “Tất nhiên là vẫn cần phải có hình thức phạt nào đó, và vì em rất giỏi trong việc ném này, ta nghĩ cần phải dùng nó vào việc tốt hơn. Bởi vậy, Jake, trong vòng hai tháng tới mỗi buổi sáng em phải đến giúp những người thợ săn đi săn. Và nếu không còn cần thêm thịt tươi nữa, thì em phải đến lâu đài và giúp ta ở đó. Trừ những ngày Chủ nhật, tất nhiên. Và nếu-”
Jenny ngừng lời vì kinh ngạc khi bà mẹ đang khóc lóc của cậu bé ném mình đến trước chân nàng, vòng cánh tay bà ta qua chân nàng và thổn thức, “Cảm ơn, phu nhân, cảm ơn bà. Bà là một vị thánh. Chúa phù hộ bà, cảm ơn-”
“Không, đừng làm thế,” Jenny tha thiết nói trong vô vọng khi người phụ nữ kiệt sức vì khóc lóc nâng vạt váy của Jenny lên và hôn vào đó. Chồng bà ta, với mũ trong tay, đi đến đỡ vợ mình, đôi mắt ông ta sáng lên vì những giọt nước mắt khi nhìn vào Jenny.
“Nếu ông bà cần con trai cho việc đồng áng của mình,” nàng nói với ông ta, “cậu bé có thể thực hiện... ờ... hình phạt của cậu vào buổi chiều thay vì buổi sáng.”
“Tôi-” ông ta nói bằng giọng khàn đục, rồi ông ta hắng giọng, vươn vai, và nói trong cảm động, “sẽ luôn cầu nguyện cho bà mỗi ngày trong suốt cuộc đời mình, thưa phu nhân.”
Mỉm cười, Jenny nói, “Và cả chồng ta nữa chứ, ta hi vọng thế.”
Người đàn ông tái xanh, nhưng ông ta cố gắng nhìn vào mắt người đàn ông đen tối, dữ dội đứng bên cạnh nàng và chân thành nói, “Vâng, và cả ngài nữa, thưa đức ông.”
Đám đông ta rã trong sự im lặng kì quái, lén lút liếc nhìn Jenny qua vai họ, trong khi nàng đang tự hỏi liệu hai tháng có quá dài hay chăng. Trên đường đi vào đại sảnh, Royce im lặng đến nỗi nàng nhìn chàng đầy căng thẳng. “Trông chàng có vẻ ngạc nhiên,” nàng nói vẻ hiểu biết, “khi em nhắc đến hình phạt hai tháng.”
“Ta đã ngạc nhiên,” chàng thú nhận với một chút hài hước. “Trong một lúc, ta đã tưởng nàng định chúc mình cậu bé đó vì cú ngắm chuẩn và định mời cậu ta dùng bữa cùng.”
“Chàng nghĩ thế là quá dễ dãi à?” nàng vui vẻ nói khi chàng mở cánh cửa gỗ gồi nặng nề của đại sảnh, đứng sang một bên để nàng vào trước.
“Ta không biết. Ta không có chút kinh nghiệm nào trong việc đối đãi với những người tá điền và duy trì trật tự này. Tuy nhiên, Prisham đáng lẽ phải hiểu biết hơn là nhắc tới hình phạt cái chết chứ. Đó là chuyện không chấp nhận được.”
“Em ghét ông ta.”
“Ta cũng vậy. Ông ta là quản gia trước đây, và ta giữ ông ta lại. Ta nghĩ đã đến lúc cần tìm một người thay thế ông ta rồi.”
“Em hi vọng là sẽ sớm thôi?” Jenny thúc giục.
“Vào lúc này,” chàng nói, và Jenny không kịp nhìn thấy tia sáng quỷ quyệt nhá lên trong mắt chàng, “Ta có những vấn đề quan trọng hơn cần làm.”
“Vậy sao, là gì vậy?”
“Mang nàng lên giường sau đó ăn tối - theo đúng thứ tự như thế.”
“Dậy nào, cô nàng ngủ nướng-” Tiếng cười khúc khích của Royce đánh thức Jenny. “Đêm nay thật là đẹp,” chàng nói với nàng khi nàng trở mình và uể oải cười với chàng. “Một đêm giành cho yêu đương và bây giờ-” chàng cắn nhẹ vào tai nàng đùa nghịch “ - là ăn uống.”
Vào lúc Royce và Jenny đã đi xuống lầu, rất nhiều hiệp sĩ đã ăn xong và cái bàn ăn đã được dọn và kê gọn vào chỗ của chúng dọc bức tường. Chỉ còn những hiệp sĩ có đặc quyền ăn ở bàn chính trên bục là dường như vẫn muốn nấn ná thêm.
“Bà của tôi đâu?” Jenny hỏi họ khi Royce dẫn nàng ngồi xuống bên cạnh chàng ở trung tâm cái bàn.
Ngài Eustace nghiêng đầu về cái cổng tò vò bên trái. “Bà ấy đã đi vào bếp để hướng dẫn mấy đầu bếp nấu nướng các món cho ngày mai rồi. Tôi không nghĩ,” anh ta thêm vào với một nụ cười, “là bà ấy nhận thức được khối lượng thức ăn khổng lồ chúng tôi có thể ăn nếu chúng ngon miệng.”
Jenny nhìn quanh những cái khay trên bàn, phần lớn chúng đã trống không, và nàng thở ra một tiếng nhẹ nhõm. “Chúng có - ngon không vậy?”
“Xứng đáng dành cho các vị thần,” hiệp sĩ nói quá lên với một nụ cười. “Hỏi bất kì ai mà xem.”
“Trừ Arik,” Ngài Godfrey nói với một cái nhìn ghê tởm về phía tên khổng lồ, anh ta xé phăng cả một con ngỗng và đang ăn đến miếng cuối cùng.
Lúc đó, Bà dì Elinor ào vào trong sảnh, khuôn mặt rạng ngời một nụ cười. “Xin chào công tước,” bà nói với Royce. “Chào cháu, Jennifer.” Rồi bà đứng ở cạnh bàn, chiếu toả sự hài lòng hoàn toàn của bà tới những người quanh bàn, những khay thức ăn trống rỗng, và thậm chí cả những người hầu đang lau dọn cái bàn. “Tất cả mọi người đều có vẻ thực sự thích những món ăn của ta đấy nhỉ.”
“Nếu bọn em biết anh chị định xuống dưới này và làm sôi động bữa ăn bởi sự hiện diện của hai người,” Stefan nói với anh trai, “thì bọn em đã để phần cho hai người nhiều hơn.”
Royce giành cho em trai một cái nhìn châm biếm. “Thật vậy sao?”
“Không,” Stefan vui vẻ nói. “Đây, ăn cái bánh tạc này đi này, nó sẽ cải thiện tâm tính của anh.”
“Ta chắc chắn vẫn còn gì đó ngon lành trong bếp,” Bà dì Elinor nói, vỗ hai bàn tay nhỏ bé cực kì vui sướng trước thành công của những nỗ lực của bà. “Ta sẽ xem xem trong khi đi lấy một ít thuốc đắp. Bánh tạc sẽ cải thiện tâm tính của tất cả mọi người, trừ Arik.”
Ném một cái nhìn hài hước về phía những người đồng đội, Stefan nói thêm, “Chẳng có gì có thể cải thiện tâm tính anh ta đâu, ngay cả cành thông cũng không.”
Việc nhắc đến cành thông khiến cho tất cả bọn họ cười như thể họ đang chia sẻ một câu đùa đặc biệt thú vị nào đó, nhưng khi Jenny liếc nhìn Royce, trông chàng có vẻ cũng bối rối như nàng vậy. Bà dì Elinor đưa ra câu trả lời khi bà lại đi vào cùng với một người hầu mang những khay thức ăn nóng hổi cùng với bát và một miếng vải. “Ôi trời, đúng rồi, hôm nay Arik và ta đã mang về mọi loại thảo dược. Vào lúc chúng ta trở về, cánh tay cậu ta chất đầy những cành cây dễ thương, phải không nào?” bà nói một cách rạng rỡ.
Bà dừng lại để cầm cái bát và miếng vải lên khỏi cái khay của người hầu, và để hạn chế những tiếng cười, người phụ nữ lớn tuổi bắt đầu đi về phía Arik với món thuốc đắp của bà. “Cậu chẳng có được một ngày vui vẻ phải không?” bà ngâm nga, đặt cái bát bên cạnh Arik và nhúng miếng vải vào đó. “Và ai mà trách cậu được?”
Tỏ ra thương cảm và tội lỗi, bà nhìn Jenny và buồn bã nói, “Arik và ta đã vô tình đụng phải một con nhệnkhủng khiếp nhất mà ta xui xẻo lắm mới gặp!”
Biểu hiện của Arik trở nên đáng sợ khi anh ta nhìn bà dìm miếng vải vào trong bát qua khoé mắt hẹp, nhưng Bà dì Elinor vẫn nói tiếp một cách vô tư, “Cái sinh vật nhỏ bé độc ác ấy đã cắn Arik tội nghiệp khi cậu ta chẳng làm bất kì điều gì khiêu khích nó trừ việc đứng ngay dưới cái cây có mạng của nó. Mặc dù,” bà nói thêm, quay sang nhìn đăm đăm vào tên khổng lồ và giơ ngón tay ra lúc lắc trước mặt như thể anh ta là một cậu bé sáu tuổi, “Ta nghĩ cậu thật là hư vì đã trả đũa nó theo cách đó.”
Dừng lời để dìm miếng vải vào cái bát, bà nói với anh ta một cách nghiêm nghị, “ta có thể hiểu tại sai cậu lại xé toang cái mạng nhện bằng tay không, nhưng ta không nghĩ việc cậu đổ tội cho cái cây là hợp lí, cũng như việc đốn nó bằng cây rừu của cậu!” Bà ta hướng cái nhìn ngơ ngác về phía Ngài Godfrey, đôi vai anh ta đang rung lên vì cười, và rồi đến Ngài Eustace, đôi vai anh này cũng run rẩy và mái tóc vàng thì gần chạm tới mặt bàn khi anh ta cố dấu khuôn mặt cười của mình. Chỉ có Gawin là thật sự cảnh giác khi Bà dì Elinor nói tiếp. “Đây, cậu bé thân mến, hãy để ta đắp cái này lên m-“
“KHÔNG!” Arik đập nắm đấm lên bàn gỗ, khiến cho những cái khay nảy lên. Đứng phắt dậy khỏi bàn, anh ta chạy ra khỏi sảnh đường, cơ thể cứng lại vì tức tối.
Bị tác động, Bà dì Elinor nhìn anh ta chạy đi, rồi bà quay lại với những người ngồi quanh bàn và rẫu rĩ nói, “Cậu ta sẽ không đến nỗi gắt gỏng thế, ta chắc chắn, nếu mà cậu ta chịu ăn uống theo chỉ dẫn của ta. Nó sẽ giải quyết việc đi ngoài của cậu ta - những vấn đề về đường ruột của cậu ta,” bà nhanh nhẹn sửa lại vì những người đang ăn, “Ta nghĩ ta đã giải thích rất rõ ràng cho cậu ta hôm nay rồi mà.”
Sau bữa ăn Royce lao vào thảo luận những vấn đề đàn ông với những hiệp sĩ của chàng - từ việc cần thêm bao nhiêu người để giúp người thợ rèn sửa chữa những mũ và giáp sắt của những người lính cùng về với Royce, hay là liệu cái máy bắn đá lớn dùng trong chiến đấu có đủ nguồn cung cấp đá quanh đây hay không.
Jenny chú ý lắng nghe, yêu cái uy quyền lặng lẽ khi Royce nói chuyện và nói chung là hưởng thụ một cách không ngờ đến niềm vui của việc là một phần trong gia đình của chính nàng. Nàng đang nghĩ thật ấm áp và lạ lùng làm sao, thì Royce tạm ngừng giữa chừng cuộc thảo luận về đề tài máy bắn đá và quay sang nàng cười vẻ hối lỗi. “Chúng ta đi ra ngoài nhé? Đêm nay là một đêm tháng Mười rất đẹp - quá đẹp để chỉ quanh quẩn bàn luận những chuyện khiến nàng buồn tẻ.”
“Em không thấy buồn tẻ,” Jenny khẽ nói, tự giác cười với đôi mắt chàng.
“Ai mà đoán được,” chàng đùa cợt, “cùng chính người phụ nữ đã từng cố vạch một đường trên mặt ta bằng con dao của ta lại có thể trở thành một người vợ ngoan như thế này?” Không chờ câu trả lời của nàng, Royce quay sang những hiệp sĩ khi chàng lịch sự đỡ Jennifer đứng dậy. Sau khi nhắc nhở họ tập hợp trong sân sau bữa sáng mai để luyện tập bốn ngày một lần, Royce hộ tống Jennifer ra khỏi sảnh.
Sauk hi họ ra đi, Ngài Eustace quay sang những người khác và nói với một nụ cười, “Các anh đã bao giờ thấy Rocye cho phép mình hưởng thụ một cuộc đi dạo dưới trăng trước đây chưa?”
“Trừ khi anh ấy dự đoán một cuộc tấn công đêm của kẻ thù,” Ngài Lionel cười nói.
Ngài Godfrey, người già nhất trong nhóm, không hề cười. “Anh ấy đã mong chờ một cuộc tấn công kể từ khi đến đây.”