Tôi lại đang nhìn lên trần sân bay. Tôi bỏ mẩu óc cuối cùng của Perry vào miệng nhai, nhưng chẳng có gì xảy ra. Tôi nhổ nó ra như nhổ một miếng gân dai nhách. Câu chuyện đã chấm dứt. Cuộc sống ấy đã kết thúc.
Mắt tôi lại cay sè, muốn ứa những giọt nước mắt mà tuyến lệ tôi không còn sản sinh ra được nữa. Tôi thấy như mình vừa mất đi một người thân. Một người anh em. Một người anh em sinh đôi. Giờ linh hồn gã đang ở đâu? Tôi có phải là kiếp sau của Perry Kelvin không?
Cuối cùng thì tôi cũng chìm trở lại trong giấc ngủ. Tôi đang ở trong bóng tối. Những phân tử trí não tôi vẫn còn bay tứ tán, và tôi trôi nổi qua vùng bóng tối đặc quánh, cố gom chúng lại như bắt đom đóm. Mỗi lần đi ngủ là tôi lại biết mình có thể sẽ không bao giờ thức dậy được nữa. Ai dám mong đợi điều đó? Ta bỏ trí não nhỏ nhoi yếu ớt của mình vào một cái giếng không đáy, bắt tréo ngón tay cầu may mà hy vọng rằng khi ta kéo sợi dây câu mảnh dẻ để đem nó lên, nó vẫn chưa bị cắn nát bởi những con quái vật không tên bên dưới. Hy vọng rằng ta có thể kéo lên được một thứ gì đó. Có lẽ vì thế mà mỗi tháng tôi chỉ ngủ được một vài tiếng. Tôi không muốn chết lần nữa. Gần đây điều này ngày càng trở nên rõ rệt hơn, một mong muốn sâu sắc và cụ thể đến nỗi tôi hầu như không thể tin nổi nó là của mình: tôi không muốn chết. Tôi không muốn biến mất. Tôi muốn được ở lại.
TÔI BỊ ĐÁNH THỨC BỞI MỘT TIẾNG HÉT.
Tôi mở choàng mắt và nhổ mấy con bọ đã bay vào mồm. Tôi lảo đảo ngồi lên. Tiếng thét vọng lại từ đằng xa nhưng không phải từ khu Trường học. Tiếng hét này không có vẻ ai oán hoảng hốt của những tử thi vẫn còn thở của Trường. Tôi nhận ra một thoáng ngang ngạnh trong những tiếng hét ấy, thoáng chút hy vọng không hề nao núng trong cảnh vô vọng không thể phủ nhận được. Tôi chồm dậy và chạy nhanh hơn bất kỳ Xác Sống nào từ trước đến nay.
Lần theo tiếng hét, tôi tìm thấy Julie ở cổng Đi. Nàng đã bị dồn vào một góc, vây quanh là sáu Người Chết đang nhỏ dãi. Họ sán gần vào nàng, chỉ hơi lùi lại mỗi lần nàng huơ chiếc máy xén đang bốc khói, nhưng vẫn đều đặn tiến đến. Tôi lao vào họ từ đằng sau, phá vỡ vòng tròn khép chặt ấy, đẩy họ ra như những con ky bowling. Người đứng gần Julie nhất bị tôi đấm mạnh đến nỗi xương tay tôi nát nhừ tựa vỏ sò. Mặt hắn sụp vỡ và hắn gục xuống. Kẻ gần thứ hai thì tôi xô vào tường, rồi túm lấy đầu đập lên nền bê tông cho đến khi não hắn bục ra và hắn cũng gục xuống. Một tên túm lấy tôi từ phía sau và cắn một miếng vào sườn tôi. Tôi vòng tay lại, giật cánh tay thối rữa của hắn ra và vung nó dập vào hắn như Babe Ruth[1]. Đầu hắn quay quanh cổ đúng ba trăm sáu mươi độ, rồi ngoẹo sang bên, rách toạc, và rơi xuống. Tôi đứng chắn trước Julie, giơ cao cánh tay gân cốt ấy, và đám Người Chết thôi không tiếng lên nữa.
[1] Babe Ruth (1895-1948): một cầu thủ bóng chày nổi tiếng người Mỹ.
“Julie!” tôi gầm gừ với họ trong lúc chỉ vào nàng. “Julie!”
Họ nhìn tôi chằm chằm. Người họ lảo đảo tới lui.
“Julie!” tôi nhắc lại, không biết phải nói như thế nào. Tôi đến gần nàng và áp tay vào chỗ tim nàng. Tôi ném cây gậy làm bằng cánh tay xuống và đặt tay kia lên tim mình. “Julie.”
Cả phòng im lặng như tờ, chỉ còn tiếng rì rì của chiếc máy xén trong tay Julie. Không khí nồng nặc mùi xăng ổn định, như mùi mơ thối, và tôi nhận thấy vài xác chết cụt đầu mà tôi không hề động đến đang nằm dưới chân nàng. Giỏi lắm, Julie, tôi thầm nghĩ với một nụ cười phảng phất. Vừa là một quý cô vừa là một học giả.
“Cái… chó chết gì thế này!” một giọng trầm đục gầm lên sau lưng tôi.
Một dáng người to cao từ dưới sàn đứng dậy. Đó là người đầu tiên tôi tấn công, người bị tôi đấm vào mặt. Chính là M. Trong lúc sôi máu, tôi còn chẳng nhận ra anh. Giờ, với gò má bị lõm sâu vào trong mặt, trông anh còn khó nhận ra hơn. Anh trừng mắt nhìn tôi và xoa xoa mặt. “Làm… cái gì, mày…” Anh ngừng lại, lúng túng không tìm được cả những từ đơn giản nhất.
“Julie,” tôi nhắc lại một lần nữa, như thể đó là lời tranh cãi không sao bác bỏ được. Và theo một cách nào đó thì đúng vậy thật. Cái từ duy nhất đó, một cái tên toàn vẹn. Hiệu quả nó gây ra giống như khi giơ lên một chiếc điện thoại di động sáng ngời đang hoạt động lên trước mặt một đám người tiền sử vậy. Tất cả những Người Chết khác nhìn Julie, im bặt, chỉ trừ có M. Anh chẳng hiểu ra sao, và rất lấy làm tức tối.
“Người Sống!” anh lúng búng. “Ăn!”
Tôi lắc đầu. “Không.”
“Ăn!”
“Không!”
“Ăn, đồ chó…”
“Này!”
Âm và tôi cùng quay lại. Julie đã bước ra từ sau lưng tôi. Nàng nhìn âm vẻ thách thức và giật dây cho cái mày rồ lên. “Xéo đi,” nàng nói. Nàng quàng tay qua khuỷu tay tôi, và tôi thấy một luồng hơi ấm truyền ra từ tay nàng.
Âm nhìn nàng, rồi nhìn tôi, rồi lại nhìn nàng, rồi lại nhìn tôi. Vẻ mặt nhăn nhó cố hữu của anh khó đăm đăm. Chúng tôi đang ở thế cân bằng, nhưng trước khi tình huống này kịp trở nên căng thẳng hơn thì sự im lặng bỗng bị phá vỡ bởi một tiếng gào vang vọng, như một tiếng còi không người thổi, nghe rợn người.
Tất cả chúng tôi quay về phía thang cuốn. Những bộ xương gân guốc ngả vàng đang từ từ đi từ tầng dưới lên. Một hội đồng Xương Khô xuất hiện từ cầu thang và tiến về phía tôi cùng Julie. Chúng dừng lại trước mặt chúng tôi rồi dàn ra thành một hàng. Julie lùi lại một chút, vẻ hiên ngang của nàng xẹp đi dưới cái nhìn bắn ra từ hốc mắt đen sì của chúng. Nàng siết chặt tay tôi hơn.
Một trong số bọn chúng tiến lên và dừng lại trước mặt tôi, cách tôi chỉ vài phân. Không hơi thở nào thoát ra từ cái miệng trống rỗng ấy, nhưng tôi nghe thấy một tiếng ro ro khe khẽ phát ra từ những khúc xương của nó. Tôi không có tiếng vang ấy, cả âm hay bất kỳ Người Chết còn da thịt nào cũng không, và tôi bắt đầu tự hỏi những sinh vật khô đét này thực ra là cái gì. Tôi không thể tin vào bất kỳ tà phép hay bất kỳ virus được tạo ra trong phòng thí nghiệm nào nữa. Đây là một cái gì khác sâu sa hơn, đen tối hơn. Nó đến từ vũ trụ, từ các vì sao, hoặc từ bóng đen vô định đằng sau các vì sao. Nó là bóng tối trong tầng hầm bị bịt kín của Chúa.
Con quỷ ấy và tôi đứng đấu nhãn, chân chạm chân, mắt nhìn vào hốc mắt. Tôi không chớp mắt, còn nó thì có muốn cũng chẳng thể. Tôi cảm thấy như hàng giờ đồng hồ đã trôi qua. Rồi nó làm một điều khiến sự hiện diện của nó có phần bớt khủng khiếp hơn. Nó dùng những ngón tay nhọn hoắt giơ một xấp ảnh chụp lấy ngay và bắt đầu đưa từng cái một cho tôi. Tôi chợt nhớ đến một ông cụ tự hào khoe ảnh cháu mình, nhưng nụ cười nhăn nhở của bộ xương kia chẳng giống một người ông chút nào, và những bức ảnh thì cũng chẳng lấy gì làm ấm cúng.
Ảnh không chuyên, chụp một trận chiến nào đó. Binh lính đứng thành hàng bắn tên lửa vào ổ của chúng tôi, súng trường nhanh gọn tiêu diệt chúng tôi, một hai ba. Người dân thường tay cầm mã tấu và cưa xích chém chúng tôi như chặt dây mâm xôi dại, làm máu chúng tôi bắn đen sì cả ống kính. Những đống thây ma khổng lồ bị rưới xăng và đốt cháy.
Khói. Máu. Những bức ảnh gia đình từ chuyến du ngoạn xuống Địa Ngục của chúng tôi.
Nhưng dù những bức ảnh ấy có đáng sợ đến đâu thì tôi cũng đã nhìn thấy chúng từ trước rồi. Tôi đã chứng kiến bọn Xương Khô khoe chúng hàng chục lần, chủ yếu là với đám trẻ con. Chúng đi lang thang quanh sân bay, máy ảnh lủng lẳng trên đốt sống cổ, thỉnh thoảng bám theo chúng tôi trong những chuyến đi săn, lùi lại phía sau để ghi lại những cảnh đổ máu, và tôi luôn tự hỏi chúng làm thế vì mục đích gì. Chủ đề của chúng không bao giờ thay đổi: thây ma. Trận chiến. Những Xác Sống mới chuyển. Và bản thân chúng nữa. Phòng họp của chúng dán đầy những bức ảnh này từ tường đến trần, và thỉnh thoảng chúng lại lôi một Xác Sống trẻ tuổi nào đó vào trong, bắt nó đứng đó hàng giờ, thậm chí là hàng bao nhiêu ngày, để im lặng chiêm ngưỡng tuyệt tác của chúng.
Giờ thì bộ xương này, giống hệt những bộ xương kia, đang đưa các bức ảnh cho tôi một các chậm rãi và lịch sự, tự tin nghĩ rằng những bức ảnh đã đủ minh chứng cho điều nó muốn nói. Bài học của buổi thuyết giáo hôm nay đã quá rõ: điều không thể tránh khỏi. Kết quả nhị phân không thể thay đổi mỗi khi chúng tôi đối mặt với Người Sống.
Họ chết/ chúng tôi chết.
Một âm thanh vang ra từ chỗ đáng lẽ phải là họng của bộ xương, một tiếng kêu khùng khục đầy tự hào, chê trách và nặng trĩu tính đạo đức cứng nhắc. Tiếng kêu ấy đã nói rất cả những điều mà bộ xương này và đám Xương Khô có thể nói ra, khẩu hiệu và thần chú của chúng. Nó nói, Ta đã đúng, và Mọi chuyện phải là như thế và Bởi vì ta như thế.
Mắt không rời hốc mắt của bộ xương, tôi để những bức ảnh rơi xuống đất. Tôi xoa xoa mấy ngón tay vào nhau như để phủi bụi.
Bộ xương không phản ứng. Nó cứ tiếp tục nhìn tôi bằng cái nhìn trống rỗng khủng khiếp ấy, im lìm đến nỗi như thể nó đã dừng cả thời gian lại. Tiếng vo vo đáng sợ từ những khúc xương của nó át hết tất thảy mọi thứ, một sóng sin thấp đầy những âm điệu chua chát. Và rồi, đột ngột đến nỗi làm tôi giật bắn mình, nó quay ngoắt người đi về phía đồng loại của mình. Nó phát ra một tiếng còi cuối cùng, và đám Xương Khô đi xuống thang cuốn. Những Người Chết còn lại tản đi, thỉnh thoảng lại lén nhìn Julie vẻ thèm thuồng. Âm là người cuối cùng. Anh cau mày nhìn tôi, rồi cũng lảo đảo bỏ đi. Julie và tôi chỉ còn lại một mình.
Tôi quay lại với nàng. Giờ khi mọi chuyện đã bình thường trở lại và máu trên sàn đã dần khô, tôi mới có thể ngẫm nghĩ xem điều gì đã xảy ra, và đâu đó trong lồng ngực, trái tim tôi khò khè run rẩy. Tôi đưa tay về phía tấm biển mà tôi đoán chỉ là cổng “Đi” và nhìn về phía Julie dò hỏi, không giấu nổi nỗi đau trong mắt mình.
Julie nhìn xuống sàn. “Đã qua mấy ngày rồi,” nàng lí nhí. “Anh nói là chỉ mấy ngày thôi mà.”
“Muốn… đưa cô về. Nói chia tay. Muốn… bảo vệ cô. An toàn.”
“Tôi phải đi. Tôi xin lỗi, nhưng tôi buộc phải đi. Ý tôi là tôi không thể ở lại đây được. Anh hiểu điều đó, phải không?”
Phải. Tất nhiên là tôi hiểu.
Nàng nói đúng, và tôi thật lố bịch.
Tuy thế…
Nhưng, biết đâu…
Tôi muốn làm một điều không tưởng. Một điều bất ngờ chưa ai nghe nói đến. Tôi muốn cọ sạch rêu bám trên Tàu Không gian để đưa Julie lên mặt trăng và ở lại đó, hoặc lái một con tàu du lịch bị đắm đến một hòn đảo xa xôi nơi không có ai phản đối chúng tôi, hoặc nắm lấy phép thuật đã cho phép tôi nhập bào não Người Sống rồi dùng nó để đưa Julie vào não tôi, bởi vì trong đó ấm áp, yên tĩnh và rất dễ chịu, và ở trong đó chúng tôi không phải là một sự lệch lạc đến ngớ ngẩn, mà là một cặp đôi hoàn hảo.
Cuối cùng nàng cũng nhìn vào mắt tôi. Trông nàng như một đứa bé đi lạc, bối rối và buồn bã. “Cám ơn vì đã… ờ, đã cứu mạng tôi. Một lần nữa.”
Tôi phải cố gắng lắm mới thoát ra khỏi dòng suy nghĩ của mình và mỉm cười với nàng. “Không… có gì.”
Nàng ôm tôi. Mới đầu còn rụt rè, hơi sợ hãi một chút, và phải, có phần ghê ghê nữa, nhưng rồi nàng buông trôi theo nó. Nàng ngả đầu lên cái cổ lạnh ngắt của tôi và ghì chặt lấy tôi. Không thể tin nổi điều đang xảy ra, tôi vòng tay quanh người nàng và cứ ôm lấy nàng như thế.
Tôi gần như dám thề rằng tôi cảm thấy tim mình đang đập. Nhưng chắc đó chỉ là tim nàng áp chặt vào ngực tôi mà thôi.
* * *
Tôi lại đang nhìn lên trần sân bay. Tôi bỏ mẩu óc cuối cùng của Perry vào miệng nhai, nhưng chẳng có gì xảy ra. Tôi nhổ nó ra như nhổ một miếng gân dai nhách. Câu chuyện đã chấm dứt. Cuộc sống ấy đã kết thúc.
Mắt tôi lại cay sè, muốn ứa những giọt nước mắt mà tuyến lệ tôi không còn sản sinh ra được nữa. Tôi thấy như mình vừa mất đi một người thân. Một người anh em. Một người anh em sinh đôi. Giờ linh hồn gã đang ở đâu? Tôi có phải là kiếp sau của Perry Kelvin không?
Cuối cùng thì tôi cũng chìm trở lại trong giấc ngủ. Tôi đang ở trong bóng tối. Những phân tử trí não tôi vẫn còn bay tứ tán, và tôi trôi nổi qua vùng bóng tối đặc quánh, cố gom chúng lại như bắt đom đóm. Mỗi lần đi ngủ là tôi lại biết mình có thể sẽ không bao giờ thức dậy được nữa. Ai dám mong đợi điều đó? Ta bỏ trí não nhỏ nhoi yếu ớt của mình vào một cái giếng không đáy, bắt tréo ngón tay cầu may mà hy vọng rằng khi ta kéo sợi dây câu mảnh dẻ để đem nó lên, nó vẫn chưa bị cắn nát bởi những con quái vật không tên bên dưới. Hy vọng rằng ta có thể kéo lên được một thứ gì đó. Có lẽ vì thế mà mỗi tháng tôi chỉ ngủ được một vài tiếng. Tôi không muốn chết lần nữa. Gần đây điều này ngày càng trở nên rõ rệt hơn, một mong muốn sâu sắc và cụ thể đến nỗi tôi hầu như không thể tin nổi nó là của mình: tôi không muốn chết. Tôi không muốn biến mất. Tôi muốn được ở lại.
TÔI BỊ ĐÁNH THỨC BỞI MỘT TIẾNG HÉT.
Tôi mở choàng mắt và nhổ mấy con bọ đã bay vào mồm. Tôi lảo đảo ngồi lên. Tiếng thét vọng lại từ đằng xa nhưng không phải từ khu Trường học. Tiếng hét này không có vẻ ai oán hoảng hốt của những tử thi vẫn còn thở của Trường. Tôi nhận ra một thoáng ngang ngạnh trong những tiếng hét ấy, thoáng chút hy vọng không hề nao núng trong cảnh vô vọng không thể phủ nhận được. Tôi chồm dậy và chạy nhanh hơn bất kỳ Xác Sống nào từ trước đến nay.
Lần theo tiếng hét, tôi tìm thấy Julie ở cổng Đi. Nàng đã bị dồn vào một góc, vây quanh là sáu Người Chết đang nhỏ dãi. Họ sán gần vào nàng, chỉ hơi lùi lại mỗi lần nàng huơ chiếc máy xén đang bốc khói, nhưng vẫn đều đặn tiến đến. Tôi lao vào họ từ đằng sau, phá vỡ vòng tròn khép chặt ấy, đẩy họ ra như những con ky bowling. Người đứng gần Julie nhất bị tôi đấm mạnh đến nỗi xương tay tôi nát nhừ tựa vỏ sò. Mặt hắn sụp vỡ và hắn gục xuống. Kẻ gần thứ hai thì tôi xô vào tường, rồi túm lấy đầu đập lên nền bê tông cho đến khi não hắn bục ra và hắn cũng gục xuống. Một tên túm lấy tôi từ phía sau và cắn một miếng vào sườn tôi. Tôi vòng tay lại, giật cánh tay thối rữa của hắn ra và vung nó dập vào hắn như Babe Ruth[]. Đầu hắn quay quanh cổ đúng ba trăm sáu mươi độ, rồi ngoẹo sang bên, rách toạc, và rơi xuống. Tôi đứng chắn trước Julie, giơ cao cánh tay gân cốt ấy, và đám Người Chết thôi không tiếng lên nữa.
[] Babe Ruth (-): một cầu thủ bóng chày nổi tiếng người Mỹ.
“Julie!” tôi gầm gừ với họ trong lúc chỉ vào nàng. “Julie!”
Họ nhìn tôi chằm chằm. Người họ lảo đảo tới lui.
“Julie!” tôi nhắc lại, không biết phải nói như thế nào. Tôi đến gần nàng và áp tay vào chỗ tim nàng. Tôi ném cây gậy làm bằng cánh tay xuống và đặt tay kia lên tim mình. “Julie.”
Cả phòng im lặng như tờ, chỉ còn tiếng rì rì của chiếc máy xén trong tay Julie. Không khí nồng nặc mùi xăng ổn định, như mùi mơ thối, và tôi nhận thấy vài xác chết cụt đầu mà tôi không hề động đến đang nằm dưới chân nàng. Giỏi lắm, Julie, tôi thầm nghĩ với một nụ cười phảng phất. Vừa là một quý cô vừa là một học giả.
“Cái… chó chết gì thế này!” một giọng trầm đục gầm lên sau lưng tôi.
Một dáng người to cao từ dưới sàn đứng dậy. Đó là người đầu tiên tôi tấn công, người bị tôi đấm vào mặt. Chính là M. Trong lúc sôi máu, tôi còn chẳng nhận ra anh. Giờ, với gò má bị lõm sâu vào trong mặt, trông anh còn khó nhận ra hơn. Anh trừng mắt nhìn tôi và xoa xoa mặt. “Làm… cái gì, mày…” Anh ngừng lại, lúng túng không tìm được cả những từ đơn giản nhất.
“Julie,” tôi nhắc lại một lần nữa, như thể đó là lời tranh cãi không sao bác bỏ được. Và theo một cách nào đó thì đúng vậy thật. Cái từ duy nhất đó, một cái tên toàn vẹn. Hiệu quả nó gây ra giống như khi giơ lên một chiếc điện thoại di động sáng ngời đang hoạt động lên trước mặt một đám người tiền sử vậy. Tất cả những Người Chết khác nhìn Julie, im bặt, chỉ trừ có M. Anh chẳng hiểu ra sao, và rất lấy làm tức tối.
“Người Sống!” anh lúng búng. “Ăn!”
Tôi lắc đầu. “Không.”
“Ăn!”
“Không!”
“Ăn, đồ chó…”
“Này!”
Âm và tôi cùng quay lại. Julie đã bước ra từ sau lưng tôi. Nàng nhìn âm vẻ thách thức và giật dây cho cái mày rồ lên. “Xéo đi,” nàng nói. Nàng quàng tay qua khuỷu tay tôi, và tôi thấy một luồng hơi ấm truyền ra từ tay nàng.
Âm nhìn nàng, rồi nhìn tôi, rồi lại nhìn nàng, rồi lại nhìn tôi. Vẻ mặt nhăn nhó cố hữu của anh khó đăm đăm. Chúng tôi đang ở thế cân bằng, nhưng trước khi tình huống này kịp trở nên căng thẳng hơn thì sự im lặng bỗng bị phá vỡ bởi một tiếng gào vang vọng, như một tiếng còi không người thổi, nghe rợn người.
Tất cả chúng tôi quay về phía thang cuốn. Những bộ xương gân guốc ngả vàng đang từ từ đi từ tầng dưới lên. Một hội đồng Xương Khô xuất hiện từ cầu thang và tiến về phía tôi cùng Julie. Chúng dừng lại trước mặt chúng tôi rồi dàn ra thành một hàng. Julie lùi lại một chút, vẻ hiên ngang của nàng xẹp đi dưới cái nhìn bắn ra từ hốc mắt đen sì của chúng. Nàng siết chặt tay tôi hơn.
Một trong số bọn chúng tiến lên và dừng lại trước mặt tôi, cách tôi chỉ vài phân. Không hơi thở nào thoát ra từ cái miệng trống rỗng ấy, nhưng tôi nghe thấy một tiếng ro ro khe khẽ phát ra từ những khúc xương của nó. Tôi không có tiếng vang ấy, cả âm hay bất kỳ Người Chết còn da thịt nào cũng không, và tôi bắt đầu tự hỏi những sinh vật khô đét này thực ra là cái gì. Tôi không thể tin vào bất kỳ tà phép hay bất kỳ virus được tạo ra trong phòng thí nghiệm nào nữa. Đây là một cái gì khác sâu sa hơn, đen tối hơn. Nó đến từ vũ trụ, từ các vì sao, hoặc từ bóng đen vô định đằng sau các vì sao. Nó là bóng tối trong tầng hầm bị bịt kín của Chúa.
Con quỷ ấy và tôi đứng đấu nhãn, chân chạm chân, mắt nhìn vào hốc mắt. Tôi không chớp mắt, còn nó thì có muốn cũng chẳng thể. Tôi cảm thấy như hàng giờ đồng hồ đã trôi qua. Rồi nó làm một điều khiến sự hiện diện của nó có phần bớt khủng khiếp hơn. Nó dùng những ngón tay nhọn hoắt giơ một xấp ảnh chụp lấy ngay và bắt đầu đưa từng cái một cho tôi. Tôi chợt nhớ đến một ông cụ tự hào khoe ảnh cháu mình, nhưng nụ cười nhăn nhở của bộ xương kia chẳng giống một người ông chút nào, và những bức ảnh thì cũng chẳng lấy gì làm ấm cúng.
Ảnh không chuyên, chụp một trận chiến nào đó. Binh lính đứng thành hàng bắn tên lửa vào ổ của chúng tôi, súng trường nhanh gọn tiêu diệt chúng tôi, một hai ba. Người dân thường tay cầm mã tấu và cưa xích chém chúng tôi như chặt dây mâm xôi dại, làm máu chúng tôi bắn đen sì cả ống kính. Những đống thây ma khổng lồ bị rưới xăng và đốt cháy.
Khói. Máu. Những bức ảnh gia đình từ chuyến du ngoạn xuống Địa Ngục của chúng tôi.
Nhưng dù những bức ảnh ấy có đáng sợ đến đâu thì tôi cũng đã nhìn thấy chúng từ trước rồi. Tôi đã chứng kiến bọn Xương Khô khoe chúng hàng chục lần, chủ yếu là với đám trẻ con. Chúng đi lang thang quanh sân bay, máy ảnh lủng lẳng trên đốt sống cổ, thỉnh thoảng bám theo chúng tôi trong những chuyến đi săn, lùi lại phía sau để ghi lại những cảnh đổ máu, và tôi luôn tự hỏi chúng làm thế vì mục đích gì. Chủ đề của chúng không bao giờ thay đổi: thây ma. Trận chiến. Những Xác Sống mới chuyển. Và bản thân chúng nữa. Phòng họp của chúng dán đầy những bức ảnh này từ tường đến trần, và thỉnh thoảng chúng lại lôi một Xác Sống trẻ tuổi nào đó vào trong, bắt nó đứng đó hàng giờ, thậm chí là hàng bao nhiêu ngày, để im lặng chiêm ngưỡng tuyệt tác của chúng.
Giờ thì bộ xương này, giống hệt những bộ xương kia, đang đưa các bức ảnh cho tôi một các chậm rãi và lịch sự, tự tin nghĩ rằng những bức ảnh đã đủ minh chứng cho điều nó muốn nói. Bài học của buổi thuyết giáo hôm nay đã quá rõ: điều không thể tránh khỏi. Kết quả nhị phân không thể thay đổi mỗi khi chúng tôi đối mặt với Người Sống.
Họ chết/ chúng tôi chết.
Một âm thanh vang ra từ chỗ đáng lẽ phải là họng của bộ xương, một tiếng kêu khùng khục đầy tự hào, chê trách và nặng trĩu tính đạo đức cứng nhắc. Tiếng kêu ấy đã nói rất cả những điều mà bộ xương này và đám Xương Khô có thể nói ra, khẩu hiệu và thần chú của chúng. Nó nói, Ta đã đúng, và Mọi chuyện phải là như thế và Bởi vì ta như thế.
Mắt không rời hốc mắt của bộ xương, tôi để những bức ảnh rơi xuống đất. Tôi xoa xoa mấy ngón tay vào nhau như để phủi bụi.
Bộ xương không phản ứng. Nó cứ tiếp tục nhìn tôi bằng cái nhìn trống rỗng khủng khiếp ấy, im lìm đến nỗi như thể nó đã dừng cả thời gian lại. Tiếng vo vo đáng sợ từ những khúc xương của nó át hết tất thảy mọi thứ, một sóng sin thấp đầy những âm điệu chua chát. Và rồi, đột ngột đến nỗi làm tôi giật bắn mình, nó quay ngoắt người đi về phía đồng loại của mình. Nó phát ra một tiếng còi cuối cùng, và đám Xương Khô đi xuống thang cuốn. Những Người Chết còn lại tản đi, thỉnh thoảng lại lén nhìn Julie vẻ thèm thuồng. Âm là người cuối cùng. Anh cau mày nhìn tôi, rồi cũng lảo đảo bỏ đi. Julie và tôi chỉ còn lại một mình.
Tôi quay lại với nàng. Giờ khi mọi chuyện đã bình thường trở lại và máu trên sàn đã dần khô, tôi mới có thể ngẫm nghĩ xem điều gì đã xảy ra, và đâu đó trong lồng ngực, trái tim tôi khò khè run rẩy. Tôi đưa tay về phía tấm biển mà tôi đoán chỉ là cổng “Đi” và nhìn về phía Julie dò hỏi, không giấu nổi nỗi đau trong mắt mình.
Julie nhìn xuống sàn. “Đã qua mấy ngày rồi,” nàng lí nhí. “Anh nói là chỉ mấy ngày thôi mà.”
“Muốn… đưa cô về. Nói chia tay. Muốn… bảo vệ cô. An toàn.”
“Tôi phải đi. Tôi xin lỗi, nhưng tôi buộc phải đi. Ý tôi là tôi không thể ở lại đây được. Anh hiểu điều đó, phải không?”
Phải. Tất nhiên là tôi hiểu.
Nàng nói đúng, và tôi thật lố bịch.
Tuy thế…
Nhưng, biết đâu…
Tôi muốn làm một điều không tưởng. Một điều bất ngờ chưa ai nghe nói đến. Tôi muốn cọ sạch rêu bám trên Tàu Không gian để đưa Julie lên mặt trăng và ở lại đó, hoặc lái một con tàu du lịch bị đắm đến một hòn đảo xa xôi nơi không có ai phản đối chúng tôi, hoặc nắm lấy phép thuật đã cho phép tôi nhập bào não Người Sống rồi dùng nó để đưa Julie vào não tôi, bởi vì trong đó ấm áp, yên tĩnh và rất dễ chịu, và ở trong đó chúng tôi không phải là một sự lệch lạc đến ngớ ngẩn, mà là một cặp đôi hoàn hảo.
Cuối cùng nàng cũng nhìn vào mắt tôi. Trông nàng như một đứa bé đi lạc, bối rối và buồn bã. “Cám ơn vì đã… ờ, đã cứu mạng tôi. Một lần nữa.”
Tôi phải cố gắng lắm mới thoát ra khỏi dòng suy nghĩ của mình và mỉm cười với nàng. “Không… có gì.”
Nàng ôm tôi. Mới đầu còn rụt rè, hơi sợ hãi một chút, và phải, có phần ghê ghê nữa, nhưng rồi nàng buông trôi theo nó. Nàng ngả đầu lên cái cổ lạnh ngắt của tôi và ghì chặt lấy tôi. Không thể tin nổi điều đang xảy ra, tôi vòng tay quanh người nàng và cứ ôm lấy nàng như thế.
Tôi gần như dám thề rằng tôi cảm thấy tim mình đang đập. Nhưng chắc đó chỉ là tim nàng áp chặt vào ngực tôi mà thôi.