Mùi của Julie mạnh dần lên theo từng khối nhà. Khi những ngôi sao đầu tiên hiện lên trên bầu trời hình ô van của Sân vận động, tôi rẽ ở góc đường và dừng lại trước một căn nhà biệt lập làm bằng nhôm trắng. Tất cả những tòa nhà ở đây đều dành cho nhiều gia đình, nhưng ngôi nhà này nhỏ hơn, hẹp hơn, và cách xa một quãng đầy bất tiện so với những nhà hàng xóm nằm san sát. Nó cao bốn tầng nhưng chiều rộng dường như còn chẳng đủ chia thành hai phòng, trông nửa giống một ngôi nhà chung cư, nửa giống tháp canh ở nhà tù. Tất cả các cửa sổ đều tối trừ một ban công tầng ba chìa ra từ chái nhà. Cái ban công có vẻ lãng mạn đến khập khiễng so với kiến trúc khắc khổ của ngôi nhà, cho đến khi tôi nhìn thấy những khẩu súng xoay nòng gắn ở các góc.
Nấp sau một đống thùng ở sân sau phủ cỏ nhân tạo, tôi nghe thấy có tiếng nói trong nhà. Tôi nhắm mắt lại, tận hưởng những âm sắc ngọt ngào và nhịp điệu gay gắt của chúng. Tôi nghe thấy tiếng Julie. Julie và một cô gái khác, bàn tán chuyện gì đó bằng giọng sôi nổi và đảo phách như nhạc jazz. Tôi khẽ đu đưa người, nhún nhảy theo nhịp trò chuyện của họ.
Cuối cùng câu chuyện cũng tàn dần, và Julie bước ra ban công. Nàng có đi mới một ngày, nhưng nỗi xúc động được xum họp trào lên trong tôi như thể chúng tôi đã xa nhau hàng thập kỉ. Nàng tì khuỷu tay lên lan can, chỉ mặc phong phanh một chiếc áo phông đen và để chân trần. ‘Thế đấy, mình lại ở đây rồi.’ Nàng cất tiếng, có vẻ chỉ đang nói cùng không khí. “Bố đã vỗ lưng mình khi mình bước qua cửa. Vỗ lưng mình thực sự, như một ông huấn luyện viên bóng bầu dục chết tiệt ấy. Bố chỉ nói là, “Mừng con không sao.” Rồi chạy biến đi họp về một dự án gì gì đó. Mình không thể tin được là bố lại… ý mình là, bố chưa bao giờ tỏ ra âu yếm, nhưng mà…” Tôi nghe thấy một tiếng cạch nhỏ và nàng im lặng hồi lâu. Rồi lại một tiếng cạch nữa. “Trước khi mình gọi điện thì bố đã nghĩ là mình chết rồi đúng không? Ừ, thì đúng là bố đã cử người đi tìm kiếm, nhưng có mấy khi người ta quay trở lại từ một vụ như thế chứ? Vì vậy thì với bố… mình đã chết rồi. Và có lẽ mình đang tỏ ra quá khắt khe, nhưng mình không thể tưởng tượng ra cảnh bố khóc vì chuyện ấy. Dẫu ai là người báo tin cho bố thì chắc họ cũng vỗ lưng nhau mà nói ‘kiên cường lên, người lính’, rồi lại tiếp tục làm việc.” Nàng cúi xuống đất như muốn nhìn xuyên tới tận cái lõi địa ngục của trái đất. “Mọi người làm sao vậy?” Nàng nói, nhỏ đến mức tôi gần như không nghe nổi. “Họ thiếu sót một vài phần nào đó ngay từ khi sinh ra hay họ đánh rời chúng dọc đường mất rồi?”
Nàng im lặng một hồi, và tôi đang định ra mặt thì nàng đột nhiên bật cười, nhắm mắt lại và lắc đầu. “Mình còn nhớ cả cái gã ngớ ngẩn ấy… Mình nhớ R! Mình biết nghe thật là điên, nhưng có điên đến mức đấy không? Chỉ bởi vì anh ta là… cho dù anh ta là cái gì đi chăng nữa? Ý mình là, chẳng phải Xác Sống chỉ là chỉ là một cái tên ngu ngốc chúng ta nghĩ ra để đặt cho một dạng tồn tại mà chúng ta không hiểu? Tên thì có nghĩa gì đâu, phải không? Nếu chúng ta… Nếu có một thứ… “ Giọng nàng kéo dài ra rồi ngừng bặt, và nàng giơ chiếc máy ghi âm mini lên, trừng mắt nhìn nó. “Mẹ kiếp,” nàng lầm bầm. “Nhật kí ghi âm… không hợp với mình.” Nàng vung tay ném nó khỏi ban công. Nó đập vào một cái thùng chứa đồ rồi rơi xuống chân tôi. Tôi nhặt nó lên, bỏ vào túi áo và áp tay vào đó, cảm nhận những góc máy áp lên ngực. Nếu tôi còn quay lại chiếc 747 thì kỉ vật này sẽ được đặt gần chỗ tôi ngủ nhất.
Julie nhảy lên lan can ban công và ngồi quay lưng lại với tôi, viết lia lịa vào một cuốn sổ tay cũ kĩ.
Nhật kí hay là thơ?
Cả hai, ngốc ạ.
Tôi có được nhắc đến không?
Tôi bước ra khỏi bóng tối. “Julie,” tôi thì thào.
Nàng không giật mình. Nàng chậm rãi quay lại, và một nụ cười nở ra trên mặt nàng như băng tan độ xuân về. “Ôi… Chúa ơi,” nàng khẽ cười khúc khích, rồi nhảy xuống khỏi lan can và quay lại đối mặt với tôi. “R! Anh đang ở đây! Ôi Chúa ơi!”
Tôi cười. “Chào.”
“Anh làm gì ở đây vậy?” Nàng rít lên, cố nói thật nhỏ.
Tôi nhún vai và quyết định rằng cử chỉ này tuy dễ bị lạm dụng nhưng cũng có chỗ của của nó. Nó thậm chí còn là một từ vựng quan trọng trong thế giới không còn nói nổi nên lời của chúng tôi.
“Đến để… gặp cô.”
“Nhưng tôi phải về nhà, nhớ không? Anh phải nói lời tạm biệt mà.”
“Không hiểu sao cô… nói lời tạm biệt. Tôi nói… xin chào.”
Môi nàng giật giật không biết phản ứng ra sao, nhưng rồi nàng miễn cưỡng mỉm cười. “Trời ạ, anh sến thật đấy. Nhưng nói thật nhé, R…”
“Jules,” một tiếng gọi vọng ra từ trong nhà. “Vào đây, tớ muốn chỉ cho cậu xem cái này.”
“Một giây thôi, Nora.” Julie gọi với lại. Nàng cúi xuống nhìn tôi. “Chuyện này thật điên rồ, hiểu không? Anh sẽ bị giết. Chuyện anh thay đổi thế nào không thành vấn đề, những người đứng đầu ở đây không quan tâm đâu, họ sẽ không nghe, họ sẽ bắn anh ngay tức thì. Anh hiểu chứ?”
Tôi gật đầu. “Hiểu.”
Tôi bắt đầu trèo lên đường ống nước.
“Trời đất, R! Anh có nghe tôi nói không đấy?”
Đến lúc cách mặt đất khoảng một mét thì tôi bỗng nhận ra mặc dù tôi có thể chạy, nói và thậm chí là cả yêu nữa thì leo trèo vẫn là một kĩ năng tôi còn lâu mới thạo được. Tôi buông ống nước ra và ngã ngửa xuống. Julie đưa tay lên miệng, nhưng mấy tiếng cười vẫn buột ra.
“Này Cabernet!” Nora gọi. “Có chuyện gì thế? Cậu đang nói chuyện với ai à?”
‘Đợi tý, được không? Tớ chỉ dang ghi âm nhật kí thôi.”
Tôi đứng dậy và phủi bụi trên người. Tôi ngước lên nhìn Julie. Nàng cau mày, cắn môi. “R…” nàng nói vẻ khổ sở. “Anh không thể…”
Cửa sổ ban công bật mở và Nora xuất hiện, tóc vẫn dày và xoăn tít như trong kí ức tôi thấy từ bao năm trước. Tôi chưa bao giờ thấy cô đứng thẳng, và ngạc nhiên thấy cô rất cao, hơn Julie ít nhất một cái đầu, đôi chân dài nâu sạm, để trần dưới chiếc váy rằn ri. Tôi đã đoán cô và Julie là bạn học, nhưng giờ tôi nhận ra Julie lớn hơn vài tuổi, có lẽ khoảng ngoài hai mươi.
“Cậu đang…” Cô lên tiếng, rồi cô nhìn thấy tôi và lông mày cô dựng ngược lên. “Lạy Chúa lòng lành. Hắn đấy à?”
Julie thở dài. “Nora, đây là R. R, đây là Nora.’
Nora trố mắt nhìn tôi như thể tôi là quái vật Sasquatch, người tuyết Yeti, hay là một con ngựa thần vậy. “Ừm, rất vui được gặp anh… R.”
“Tôi cũng vậy,” tôi đáp, và Nora đưa tay lên bịt miệng để ngăn một tiếng kêu thích thú, rồi nhìn Julie, rồi lại nhìn tôi.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Julie hỏi Nora, cố không để ý đến vẻ hào hứng của cô. “Anh ấy tự dưng xuất hiện. Tớ đang cố bảo anh ấy là anh ấy sẽ bị giết mất.”
“Trước hết là hắn phải ở đây đã,” Nora nói, mắt vẫn không rời tôi.
“Lên nhà á? Cậu ngớ ngẩn chắc.”
“Thôi nào, bố cậu hai ngày nữa mới về. Ở trong nhà an toàn hơn là ngoài phố.”
Julie nghĩ ngợi một lát. “Được rồi. Đợi nhé, R, tôi xuống đây.”
Tôi đi vòng ra trước nhà và đứng ở cửa, bồn chồn chờ đợi trong chiếc áo sơ mi cà vạt. Nàng mở cửa với nụ cười thẹn thùng. Một đêm hội trường nơi tận cùng thế giới.
‘Chào Julie,” tôi nói, như thể cuộc trò chuyện vừa rồi chưa từng xảy ra vậy.
Nàng ngần ngừ, rồi bước tới ôm lấy tôi. “Tôi thật tình còn nhớ anh cơ đấy.” Nàng nói, vùi mặt vào áo tôi.
“Tôi… nghe thấy rồi.”
Nàng lùi lại để nhìn tôi, và đôi mắt lóe lên vẻ điên dại. ‘R này, nếu tôi hôn anh, thì tôi có bị… anh biết đấy… biến đổi không?”
Ý nghĩ của tôi nhảy loạn xạ như một đĩa nhạc giữa trận động đất. Theo như tôi biết thì chỉ có một miếng cắn, máu và tinh chất bị truyền đi một cách hung bạo như thế, thì Người Sống mới có thể gia nhập với Người Chết trước khi họ chết thực sự. Đó là cách duy nhất đẩy nhanh một điều không thể tránh khỏi. Nhưng tôi cũng dám chắc là chưa từng, chưa bao giờ, có ai đặt ra câu hỏi như Julie vừa rồi.
“Không… nghĩ vậy,” tôi đáp, “nhưng…”
Một ngọn đèn pha rọi sáng cuối phố. Tiếng hai lính gác quát tháo ra lệnh phá vỡ sự yên lặng buổi đêm.
“Chết tiệt, đội tuần tra đấy,” Julie thì thầm, rồi lôi tôi vào trong nhà. “Chúng ta phải tắt đèn thôi, sau giờ giới nghiêm rồi. Đi nào.”
Nàng chạy lên trên nhà và tôi đi theo, sự nhẹ nhõm và thất vọng pha trộn trong ngực tôi như những hóa chất bất ổn.
Nhà của Julie trống vắng đến rợn người. Trong bếp, trong phòng khách, trong gian sảnh ngắn và cầu thang dốc, các bức tường đều trắng trơn, không có thứ đồ trang trí. Các thứ bàn ghế ít ỏi đều bằng nhựa, và những ngọn đèn neon rọi xuống lớp thảm chống thấm màu be. Nó giống như văn phòng bị bỏ hoang của một công ty đã phá sản, chỉ còn lại những căn buồng rỗng âm vang và một chút tuyệt vọng còn vương vấn đâu đây.
Julie vừa đi vửa tắt đèn, làm cả căn nhà chìm vào bóng tối cho đến khi tôi lên đến buồng của nàng. Nàng tắt ngọn đèn trên trần và bật một cây đèn Tiffani[1] đặt cạnh giường. Tôi bước vào trong và chậm rãi quay vòng, thèm thuồng ngắm nghía thế giới riêng tư của Julie.
[1] Đèn có chụp bằng thủy tinh nhiều màu được thiết kế bởi Louis Comfort Tiffani
Nếu tâm trí nàng là một căn buồng, trông nó sẽ như thế này.
Mỗi bức tường là một màu khác nhau. Một bức màu đỏ, một bức màu trắng, một bức màu vàng, một bức màu đen, và trần nhà màu xanh da trời treo toàn máy bay đồ chơi. Hình như mỗi bức tường được thiết kế theo một chủ đề nhất định. Bức tường màu đỏ dán toàn cuống vé phim và áp phích ca nhạc, tất cả đã ngả nâu theo thời gian. Bức tường màu trắng thì đầy tranh, bắt đầu bằng những bức tranh nghiệp dư bằng màu acrylic ở dưới sàn cho đến ba tấm sơn dầu tuyệt vời ở trên cùng: một cô gái đang ngủ sắp bị đàn hổ nuốt chửng, một vị Chúa cứu thế đáng sợ treo trên một cây thập giá cân xứng, và một bức tranh phong cảnh siêu thực với những chiếc đồng hồ tan chảy.
“Anh có nhận ra không?” Julie hỏi với một nụ cười không nén nổi. “Tranh của Salvador Dali đấy. Tất nhiên là nguyên bản.’
Nora bước vào từ ban công và khi thấy tôi đang gí mặt vào mấy bức tranh, cô liền bật cười. “Trang trí đẹp đấy chứ? Perry với tôi muốn tặng Julie bức Mona Lisa vào ngày sinh nhật vì nó làm chúng tôi nhớ đến nụ cười khẩy của cô ấy - đấy! Chính nó đấy! - nhưng đi bộ đến Paris thì xa quá. Bọn tôi đành dùng tạm phòng triển lãm ở đây vậy.”
“Nora có cả một bức tường đầy tranh của Picasso cơ,” Julie chêm vào. “Nếu còn có ai quan tâm thì chắc bọn này đã trở thành một nhóm trộm tranh huyền thoại rồi.”
Tôi cúi xuống để ngắm kĩ hơn hàng tranh màu acrylic ở dưới.
“Julie vẽ đấy,” Nora nói. “Đẹp phải không?”
Julie nhìn đi nơi khác vẻ chán ghét. “Nora bắt tôi phải treo mấy bức đó lên.”
Tôi chăm chú nhìn ngắm từng bức tranh, tìm kiếm bí mật của Julie trong những nét bút vụng về. Hai bức chỉ gồm toàn những màu sặc sỡ trát lên giấy thành một lớp dày ghồ ghề. Bức thứ ba là một bức chân dung thô sơ vẽ một người phụ nữ tóc vàng. Tôi nhìn về phía bức tường màu đen, nơi chỉ có một vật trang trí duy nhất: một bức ảnh được ghim vào tường. Nhìn giống hệt Julie, chỉ cộng thêm hai mươi nhăm năm gian khổ nữa.
Julie đưa mắt nhìn theo cái nhìn của tôi, rồi nàng và Nora liếc nhau một cái. “Là mẹ tôi đấy,” Julie nói. “Mẹ đi năm tôi mười hai tuổi.” Nàng hắng giọng rồi nhìn ra cửa sổ.
Tôi quay sang bức tường màu vàng, nổi bật hơn hẳn vì nó không được trang hoàng gì cả. Tôi chỉ vào đó và nhướng mày lên.
“Đó là… ừm… bức tường hi vọng của tôi,” nàng nói. Giọng nàng toát lên ý tự hào ngượng ngùng, làm nàng nghe trẻ hơn. Gần như có vẻ ngây thơ. “Tôi bỏ trống đấy để dành cho cái gì đó sau này.”
“Ví dụ như cái gì?”
“Tôi chưa biết. Còn tùy chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Hy vọng là một cái gì đó vui vẻ.”
Nàng nhún vai cho qua rồi ngồi xuống góc giường, gõ gõ ngón tay lên đùi, mắt quan sát tôi. Nora ngồi xuống cạnh nàng. Trong phòng không có ghế, nên tôi đành ngồi xuống sàn. Tấm thảm chỉ còn là một bí ẩn dưới hàng lớp địa tầng được tạo nên bởi bao nhiêu thứ quần áo nhàu nhĩ.
“Vậy đấy… R.” Nora cúi về phía tôi nói. “Anh là một Xác Sống, cảm giác đó thế nào?”
“Tôi… ờ…”
“Chuyện xảy ra như thế nào? Tại sao anh lại bị biến đổi?”
“Không… nhớ.”
“Tôi không thấy có vết cắn hay vết đạn bắn hay vết thương nào cả. Chắc là do lý do tự nhiên. Không có ai ở quanh để lấy não anh chứ gì?”
Tôi nhún vai.
“Anh bao nhiêu tuổi?”
Toi nhún vai.
“Trông anh khoảng ngoài hai mươi, nhưng anh cũng có thể ngoài ba mươi. Anh có kiểu mặt ấy. Sao anh không thối rữa ra nhỉ? Thậm chí tôi còn gần như chẳng ngửi thấy mùi của anh nữa.”
“Tôi không… ờ..”
“Cơ thể anh còn hoạt động bình thường không? Chắc là không, phải không? Ý tôi là anh còn có thể, anh biết đấy..?”
“Trời đất, Nora,” Julie xen ngang, huých khuỷu tay vào hông cô bạn. “Cậu có thôi đi không? Anh ấy không phải đến đây để bị hỏi cung đâu.”
Tôi ném cho Julie một cái nhìn biết ơn.
“Nhưng tôi có một câu hỏi,” nàng nói. “Làm thế quái nào mà anh vào đây được? Vào Sân vận động ấy?”
Tôi nhún vai. “Đi… vào.”
‘Làm sao anh qua mặt lính gác được?”
“Giả làm… Người Sống.”
Nàng trố mắt nhìn tôi. “Họ cho anh vào? Ted cho anh vào?”
“Bị phân tán.”
Nàng đặt tay lên trán. “Trời. Thật là…” Nàng ngừng lại và mỉm cười kinh ngạc. “Trông anh… khá hơn đấy. Anh đã chải tóc đấy à, R?”
“Hắn mặc đồ giả trang!” Nora bật cười. “Hắn mặc đồ giả trang làm Người Sống.’
“Thật không tin nổi là cách đó lại thành công. Tôi dám cá là chuyện đó chưa xảy ra bao giờ.”
“Cậu có nghĩ hắn có lừa được mọi người không?” Nora hỏi, “Ở ngoài kia cùng với những người sống thật ấy.”
Julie ngắm nghía tôi với vẻ hồ nghi, như một nhiếp ảnh gia bắt buộc phải xem xét một người mãu mập ú. “Ờ,” nàng thừa nhận. “Tớ đoán là… cũng có thể.”
Tôi co rúm người dưới những con mắt soi mói của họ. Cuối cùng thì Julie hít một hơi và đứng dậy. “Dù sao thì anh cũng phải ở lại đây ít nhất là hết tối nay, cho đến khi chúng tôi nghĩ ra xem phải làm gì với anh. Tôi đi hâm lại ít cơm đây. Cậu có muốn ăn không, Nora?”
“Thôi, tớ vừa làm một viên Carbtein chín tiếng trước rồi.” Cô thận trọng nhìn tôi. “Anh có ờ… đói không, R?”
Tôi lắc đầu. “ Tôi… ổn.”
“Bởi vì tôi không biết chúng ta sẽ phải làm gì với chế độ ăn uống đặc biệt của anh. Ý tôi là, tôi biết anh không làm thế nào khác được, Julie đã giải thích hết rồi, nhưng chúng tôi không..”
“Thật mà…” tôi ngăn cô lại. “Tôi ổn.”
Cô có vẻ nghi ngờ. Tôi có thể tưởng tượng ra đoạn phim đang chiếu sau mắt cô. Một căn buồng tối đầy máu. Các bạn của cô hấp hối trên sàn. Tôi, bò về phía Julie với hai bàn tay nhuốm đỏ vươn ra. Có thể Julie đã thuyết phục cô rằng tôi là trường hợp đặc biệt, nhưng tôi không nên ngạc nhiên khi nhận được những cái nhìn lo ngại. Nora im lặng ngắm tôi mấy phút. Rồi cô quay đi và bắt đầu một điếu cần sa.
Khi Julie đem thức ăn về, tôi mượn thìa của nàng, xúc một thìa cơm, rồi vừa nhai vừa mỉm cười. Nó vẫn giống như vị bọt xốp như mọi khi, nhưng tôi cũng nuốt xuống được. Julie và Nora nhìn nhau, rồi nhìn tôi.
“Mùi vị thế nào?” Julie hỏi.
Tôi nhăn mặt.
“Được rồi, nhưng dù sao thì cũng đã lâu rồi anh chưa ăn ai cả. Và anh vẫn đang đi lại. Anh có nghĩ là anh sẽ có thể tự cai được… thức ăn sống không?”
Tôi cười châm biếm. “Tôi đoán là… cũng có thể.”
Nghe vậy Julie mỉm cười. Nửa là vì giọng mỉa mai bất ngờ của tôi, nửa là vì niềm hi vọng ám chỉ trong câu trả lời của tôi. Tôi chưa bao giờ thấy cả khuôn mặt nàng sáng bừng lên như thế, vì vậy tôi hi vọng tôi đã đúng. Tôi hi vọng không phải là tôi vừa mới học được cách nói dối.
* * *
Mùi của Julie mạnh dần lên theo từng khối nhà. Khi những ngôi sao đầu tiên hiện lên trên bầu trời hình ô van của Sân vận động, tôi rẽ ở góc đường và dừng lại trước một căn nhà biệt lập làm bằng nhôm trắng. Tất cả những tòa nhà ở đây đều dành cho nhiều gia đình, nhưng ngôi nhà này nhỏ hơn, hẹp hơn, và cách xa một quãng đầy bất tiện so với những nhà hàng xóm nằm san sát. Nó cao bốn tầng nhưng chiều rộng dường như còn chẳng đủ chia thành hai phòng, trông nửa giống một ngôi nhà chung cư, nửa giống tháp canh ở nhà tù. Tất cả các cửa sổ đều tối trừ một ban công tầng ba chìa ra từ chái nhà. Cái ban công có vẻ lãng mạn đến khập khiễng so với kiến trúc khắc khổ của ngôi nhà, cho đến khi tôi nhìn thấy những khẩu súng xoay nòng gắn ở các góc.
Nấp sau một đống thùng ở sân sau phủ cỏ nhân tạo, tôi nghe thấy có tiếng nói trong nhà. Tôi nhắm mắt lại, tận hưởng những âm sắc ngọt ngào và nhịp điệu gay gắt của chúng. Tôi nghe thấy tiếng Julie. Julie và một cô gái khác, bàn tán chuyện gì đó bằng giọng sôi nổi và đảo phách như nhạc jazz. Tôi khẽ đu đưa người, nhún nhảy theo nhịp trò chuyện của họ.
Cuối cùng câu chuyện cũng tàn dần, và Julie bước ra ban công. Nàng có đi mới một ngày, nhưng nỗi xúc động được xum họp trào lên trong tôi như thể chúng tôi đã xa nhau hàng thập kỉ. Nàng tì khuỷu tay lên lan can, chỉ mặc phong phanh một chiếc áo phông đen và để chân trần. ‘Thế đấy, mình lại ở đây rồi.’ Nàng cất tiếng, có vẻ chỉ đang nói cùng không khí. “Bố đã vỗ lưng mình khi mình bước qua cửa. Vỗ lưng mình thực sự, như một ông huấn luyện viên bóng bầu dục chết tiệt ấy. Bố chỉ nói là, “Mừng con không sao.” Rồi chạy biến đi họp về một dự án gì gì đó. Mình không thể tin được là bố lại… ý mình là, bố chưa bao giờ tỏ ra âu yếm, nhưng mà…” Tôi nghe thấy một tiếng cạch nhỏ và nàng im lặng hồi lâu. Rồi lại một tiếng cạch nữa. “Trước khi mình gọi điện thì bố đã nghĩ là mình chết rồi đúng không? Ừ, thì đúng là bố đã cử người đi tìm kiếm, nhưng có mấy khi người ta quay trở lại từ một vụ như thế chứ? Vì vậy thì với bố… mình đã chết rồi. Và có lẽ mình đang tỏ ra quá khắt khe, nhưng mình không thể tưởng tượng ra cảnh bố khóc vì chuyện ấy. Dẫu ai là người báo tin cho bố thì chắc họ cũng vỗ lưng nhau mà nói ‘kiên cường lên, người lính’, rồi lại tiếp tục làm việc.” Nàng cúi xuống đất như muốn nhìn xuyên tới tận cái lõi địa ngục của trái đất. “Mọi người làm sao vậy?” Nàng nói, nhỏ đến mức tôi gần như không nghe nổi. “Họ thiếu sót một vài phần nào đó ngay từ khi sinh ra hay họ đánh rời chúng dọc đường mất rồi?”
Nàng im lặng một hồi, và tôi đang định ra mặt thì nàng đột nhiên bật cười, nhắm mắt lại và lắc đầu. “Mình còn nhớ cả cái gã ngớ ngẩn ấy… Mình nhớ R! Mình biết nghe thật là điên, nhưng có điên đến mức đấy không? Chỉ bởi vì anh ta là… cho dù anh ta là cái gì đi chăng nữa? Ý mình là, chẳng phải Xác Sống chỉ là chỉ là một cái tên ngu ngốc chúng ta nghĩ ra để đặt cho một dạng tồn tại mà chúng ta không hiểu? Tên thì có nghĩa gì đâu, phải không? Nếu chúng ta… Nếu có một thứ… “ Giọng nàng kéo dài ra rồi ngừng bặt, và nàng giơ chiếc máy ghi âm mini lên, trừng mắt nhìn nó. “Mẹ kiếp,” nàng lầm bầm. “Nhật kí ghi âm… không hợp với mình.” Nàng vung tay ném nó khỏi ban công. Nó đập vào một cái thùng chứa đồ rồi rơi xuống chân tôi. Tôi nhặt nó lên, bỏ vào túi áo và áp tay vào đó, cảm nhận những góc máy áp lên ngực. Nếu tôi còn quay lại chiếc thì kỉ vật này sẽ được đặt gần chỗ tôi ngủ nhất.
Julie nhảy lên lan can ban công và ngồi quay lưng lại với tôi, viết lia lịa vào một cuốn sổ tay cũ kĩ.
Nhật kí hay là thơ?
Cả hai, ngốc ạ.
Tôi có được nhắc đến không?
Tôi bước ra khỏi bóng tối. “Julie,” tôi thì thào.
Nàng không giật mình. Nàng chậm rãi quay lại, và một nụ cười nở ra trên mặt nàng như băng tan độ xuân về. “Ôi… Chúa ơi,” nàng khẽ cười khúc khích, rồi nhảy xuống khỏi lan can và quay lại đối mặt với tôi. “R! Anh đang ở đây! Ôi Chúa ơi!”
Tôi cười. “Chào.”
“Anh làm gì ở đây vậy?” Nàng rít lên, cố nói thật nhỏ.
Tôi nhún vai và quyết định rằng cử chỉ này tuy dễ bị lạm dụng nhưng cũng có chỗ của của nó. Nó thậm chí còn là một từ vựng quan trọng trong thế giới không còn nói nổi nên lời của chúng tôi.
“Đến để… gặp cô.”
“Nhưng tôi phải về nhà, nhớ không? Anh phải nói lời tạm biệt mà.”
“Không hiểu sao cô… nói lời tạm biệt. Tôi nói… xin chào.”
Môi nàng giật giật không biết phản ứng ra sao, nhưng rồi nàng miễn cưỡng mỉm cười. “Trời ạ, anh sến thật đấy. Nhưng nói thật nhé, R…”
“Jules,” một tiếng gọi vọng ra từ trong nhà. “Vào đây, tớ muốn chỉ cho cậu xem cái này.”
“Một giây thôi, Nora.” Julie gọi với lại. Nàng cúi xuống nhìn tôi. “Chuyện này thật điên rồ, hiểu không? Anh sẽ bị giết. Chuyện anh thay đổi thế nào không thành vấn đề, những người đứng đầu ở đây không quan tâm đâu, họ sẽ không nghe, họ sẽ bắn anh ngay tức thì. Anh hiểu chứ?”
Tôi gật đầu. “Hiểu.”
Tôi bắt đầu trèo lên đường ống nước.
“Trời đất, R! Anh có nghe tôi nói không đấy?”
Đến lúc cách mặt đất khoảng một mét thì tôi bỗng nhận ra mặc dù tôi có thể chạy, nói và thậm chí là cả yêu nữa thì leo trèo vẫn là một kĩ năng tôi còn lâu mới thạo được. Tôi buông ống nước ra và ngã ngửa xuống. Julie đưa tay lên miệng, nhưng mấy tiếng cười vẫn buột ra.
“Này Cabernet!” Nora gọi. “Có chuyện gì thế? Cậu đang nói chuyện với ai à?”
‘Đợi tý, được không? Tớ chỉ dang ghi âm nhật kí thôi.”
Tôi đứng dậy và phủi bụi trên người. Tôi ngước lên nhìn Julie. Nàng cau mày, cắn môi. “R…” nàng nói vẻ khổ sở. “Anh không thể…”
Cửa sổ ban công bật mở và Nora xuất hiện, tóc vẫn dày và xoăn tít như trong kí ức tôi thấy từ bao năm trước. Tôi chưa bao giờ thấy cô đứng thẳng, và ngạc nhiên thấy cô rất cao, hơn Julie ít nhất một cái đầu, đôi chân dài nâu sạm, để trần dưới chiếc váy rằn ri. Tôi đã đoán cô và Julie là bạn học, nhưng giờ tôi nhận ra Julie lớn hơn vài tuổi, có lẽ khoảng ngoài hai mươi.
“Cậu đang…” Cô lên tiếng, rồi cô nhìn thấy tôi và lông mày cô dựng ngược lên. “Lạy Chúa lòng lành. Hắn đấy à?”
Julie thở dài. “Nora, đây là R. R, đây là Nora.’
Nora trố mắt nhìn tôi như thể tôi là quái vật Sasquatch, người tuyết Yeti, hay là một con ngựa thần vậy. “Ừm, rất vui được gặp anh… R.”
“Tôi cũng vậy,” tôi đáp, và Nora đưa tay lên bịt miệng để ngăn một tiếng kêu thích thú, rồi nhìn Julie, rồi lại nhìn tôi.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Julie hỏi Nora, cố không để ý đến vẻ hào hứng của cô. “Anh ấy tự dưng xuất hiện. Tớ đang cố bảo anh ấy là anh ấy sẽ bị giết mất.”
“Trước hết là hắn phải ở đây đã,” Nora nói, mắt vẫn không rời tôi.
“Lên nhà á? Cậu ngớ ngẩn chắc.”
“Thôi nào, bố cậu hai ngày nữa mới về. Ở trong nhà an toàn hơn là ngoài phố.”
Julie nghĩ ngợi một lát. “Được rồi. Đợi nhé, R, tôi xuống đây.”
Tôi đi vòng ra trước nhà và đứng ở cửa, bồn chồn chờ đợi trong chiếc áo sơ mi cà vạt. Nàng mở cửa với nụ cười thẹn thùng. Một đêm hội trường nơi tận cùng thế giới.
‘Chào Julie,” tôi nói, như thể cuộc trò chuyện vừa rồi chưa từng xảy ra vậy.
Nàng ngần ngừ, rồi bước tới ôm lấy tôi. “Tôi thật tình còn nhớ anh cơ đấy.” Nàng nói, vùi mặt vào áo tôi.
“Tôi… nghe thấy rồi.”
Nàng lùi lại để nhìn tôi, và đôi mắt lóe lên vẻ điên dại. ‘R này, nếu tôi hôn anh, thì tôi có bị… anh biết đấy… biến đổi không?”
Ý nghĩ của tôi nhảy loạn xạ như một đĩa nhạc giữa trận động đất. Theo như tôi biết thì chỉ có một miếng cắn, máu và tinh chất bị truyền đi một cách hung bạo như thế, thì Người Sống mới có thể gia nhập với Người Chết trước khi họ chết thực sự. Đó là cách duy nhất đẩy nhanh một điều không thể tránh khỏi. Nhưng tôi cũng dám chắc là chưa từng, chưa bao giờ, có ai đặt ra câu hỏi như Julie vừa rồi.
“Không… nghĩ vậy,” tôi đáp, “nhưng…”
Một ngọn đèn pha rọi sáng cuối phố. Tiếng hai lính gác quát tháo ra lệnh phá vỡ sự yên lặng buổi đêm.
“Chết tiệt, đội tuần tra đấy,” Julie thì thầm, rồi lôi tôi vào trong nhà. “Chúng ta phải tắt đèn thôi, sau giờ giới nghiêm rồi. Đi nào.”
Nàng chạy lên trên nhà và tôi đi theo, sự nhẹ nhõm và thất vọng pha trộn trong ngực tôi như những hóa chất bất ổn.
Nhà của Julie trống vắng đến rợn người. Trong bếp, trong phòng khách, trong gian sảnh ngắn và cầu thang dốc, các bức tường đều trắng trơn, không có thứ đồ trang trí. Các thứ bàn ghế ít ỏi đều bằng nhựa, và những ngọn đèn neon rọi xuống lớp thảm chống thấm màu be. Nó giống như văn phòng bị bỏ hoang của một công ty đã phá sản, chỉ còn lại những căn buồng rỗng âm vang và một chút tuyệt vọng còn vương vấn đâu đây.
Julie vừa đi vửa tắt đèn, làm cả căn nhà chìm vào bóng tối cho đến khi tôi lên đến buồng của nàng. Nàng tắt ngọn đèn trên trần và bật một cây đèn Tiffani[] đặt cạnh giường. Tôi bước vào trong và chậm rãi quay vòng, thèm thuồng ngắm nghía thế giới riêng tư của Julie.
[] Đèn có chụp bằng thủy tinh nhiều màu được thiết kế bởi Louis Comfort Tiffani
Nếu tâm trí nàng là một căn buồng, trông nó sẽ như thế này.
Mỗi bức tường là một màu khác nhau. Một bức màu đỏ, một bức màu trắng, một bức màu vàng, một bức màu đen, và trần nhà màu xanh da trời treo toàn máy bay đồ chơi. Hình như mỗi bức tường được thiết kế theo một chủ đề nhất định. Bức tường màu đỏ dán toàn cuống vé phim và áp phích ca nhạc, tất cả đã ngả nâu theo thời gian. Bức tường màu trắng thì đầy tranh, bắt đầu bằng những bức tranh nghiệp dư bằng màu acrylic ở dưới sàn cho đến ba tấm sơn dầu tuyệt vời ở trên cùng: một cô gái đang ngủ sắp bị đàn hổ nuốt chửng, một vị Chúa cứu thế đáng sợ treo trên một cây thập giá cân xứng, và một bức tranh phong cảnh siêu thực với những chiếc đồng hồ tan chảy.
“Anh có nhận ra không?” Julie hỏi với một nụ cười không nén nổi. “Tranh của Salvador Dali đấy. Tất nhiên là nguyên bản.’
Nora bước vào từ ban công và khi thấy tôi đang gí mặt vào mấy bức tranh, cô liền bật cười. “Trang trí đẹp đấy chứ? Perry với tôi muốn tặng Julie bức Mona Lisa vào ngày sinh nhật vì nó làm chúng tôi nhớ đến nụ cười khẩy của cô ấy - đấy! Chính nó đấy! - nhưng đi bộ đến Paris thì xa quá. Bọn tôi đành dùng tạm phòng triển lãm ở đây vậy.”
“Nora có cả một bức tường đầy tranh của Picasso cơ,” Julie chêm vào. “Nếu còn có ai quan tâm thì chắc bọn này đã trở thành một nhóm trộm tranh huyền thoại rồi.”
Tôi cúi xuống để ngắm kĩ hơn hàng tranh màu acrylic ở dưới.
“Julie vẽ đấy,” Nora nói. “Đẹp phải không?”
Julie nhìn đi nơi khác vẻ chán ghét. “Nora bắt tôi phải treo mấy bức đó lên.”
Tôi chăm chú nhìn ngắm từng bức tranh, tìm kiếm bí mật của Julie trong những nét bút vụng về. Hai bức chỉ gồm toàn những màu sặc sỡ trát lên giấy thành một lớp dày ghồ ghề. Bức thứ ba là một bức chân dung thô sơ vẽ một người phụ nữ tóc vàng. Tôi nhìn về phía bức tường màu đen, nơi chỉ có một vật trang trí duy nhất: một bức ảnh được ghim vào tường. Nhìn giống hệt Julie, chỉ cộng thêm hai mươi nhăm năm gian khổ nữa.
Julie đưa mắt nhìn theo cái nhìn của tôi, rồi nàng và Nora liếc nhau một cái. “Là mẹ tôi đấy,” Julie nói. “Mẹ đi năm tôi mười hai tuổi.” Nàng hắng giọng rồi nhìn ra cửa sổ.
Tôi quay sang bức tường màu vàng, nổi bật hơn hẳn vì nó không được trang hoàng gì cả. Tôi chỉ vào đó và nhướng mày lên.
“Đó là… ừm… bức tường hi vọng của tôi,” nàng nói. Giọng nàng toát lên ý tự hào ngượng ngùng, làm nàng nghe trẻ hơn. Gần như có vẻ ngây thơ. “Tôi bỏ trống đấy để dành cho cái gì đó sau này.”
“Ví dụ như cái gì?”
“Tôi chưa biết. Còn tùy chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Hy vọng là một cái gì đó vui vẻ.”
Nàng nhún vai cho qua rồi ngồi xuống góc giường, gõ gõ ngón tay lên đùi, mắt quan sát tôi. Nora ngồi xuống cạnh nàng. Trong phòng không có ghế, nên tôi đành ngồi xuống sàn. Tấm thảm chỉ còn là một bí ẩn dưới hàng lớp địa tầng được tạo nên bởi bao nhiêu thứ quần áo nhàu nhĩ.
“Vậy đấy… R.” Nora cúi về phía tôi nói. “Anh là một Xác Sống, cảm giác đó thế nào?”
“Tôi… ờ…”
“Chuyện xảy ra như thế nào? Tại sao anh lại bị biến đổi?”
“Không… nhớ.”
“Tôi không thấy có vết cắn hay vết đạn bắn hay vết thương nào cả. Chắc là do lý do tự nhiên. Không có ai ở quanh để lấy não anh chứ gì?”
Tôi nhún vai.
“Anh bao nhiêu tuổi?”
Toi nhún vai.
“Trông anh khoảng ngoài hai mươi, nhưng anh cũng có thể ngoài ba mươi. Anh có kiểu mặt ấy. Sao anh không thối rữa ra nhỉ? Thậm chí tôi còn gần như chẳng ngửi thấy mùi của anh nữa.”
“Tôi không… ờ..”
“Cơ thể anh còn hoạt động bình thường không? Chắc là không, phải không? Ý tôi là anh còn có thể, anh biết đấy..?”
“Trời đất, Nora,” Julie xen ngang, huých khuỷu tay vào hông cô bạn. “Cậu có thôi đi không? Anh ấy không phải đến đây để bị hỏi cung đâu.”
Tôi ném cho Julie một cái nhìn biết ơn.
“Nhưng tôi có một câu hỏi,” nàng nói. “Làm thế quái nào mà anh vào đây được? Vào Sân vận động ấy?”
Tôi nhún vai. “Đi… vào.”
‘Làm sao anh qua mặt lính gác được?”
“Giả làm… Người Sống.”
Nàng trố mắt nhìn tôi. “Họ cho anh vào? Ted cho anh vào?”
“Bị phân tán.”
Nàng đặt tay lên trán. “Trời. Thật là…” Nàng ngừng lại và mỉm cười kinh ngạc. “Trông anh… khá hơn đấy. Anh đã chải tóc đấy à, R?”
“Hắn mặc đồ giả trang!” Nora bật cười. “Hắn mặc đồ giả trang làm Người Sống.’
“Thật không tin nổi là cách đó lại thành công. Tôi dám cá là chuyện đó chưa xảy ra bao giờ.”
“Cậu có nghĩ hắn có lừa được mọi người không?” Nora hỏi, “Ở ngoài kia cùng với những người sống thật ấy.”
Julie ngắm nghía tôi với vẻ hồ nghi, như một nhiếp ảnh gia bắt buộc phải xem xét một người mãu mập ú. “Ờ,” nàng thừa nhận. “Tớ đoán là… cũng có thể.”
Tôi co rúm người dưới những con mắt soi mói của họ. Cuối cùng thì Julie hít một hơi và đứng dậy. “Dù sao thì anh cũng phải ở lại đây ít nhất là hết tối nay, cho đến khi chúng tôi nghĩ ra xem phải làm gì với anh. Tôi đi hâm lại ít cơm đây. Cậu có muốn ăn không, Nora?”
“Thôi, tớ vừa làm một viên Carbtein chín tiếng trước rồi.” Cô thận trọng nhìn tôi. “Anh có ờ… đói không, R?”
Tôi lắc đầu. “ Tôi… ổn.”
“Bởi vì tôi không biết chúng ta sẽ phải làm gì với chế độ ăn uống đặc biệt của anh. Ý tôi là, tôi biết anh không làm thế nào khác được, Julie đã giải thích hết rồi, nhưng chúng tôi không..”
“Thật mà…” tôi ngăn cô lại. “Tôi ổn.”
Cô có vẻ nghi ngờ. Tôi có thể tưởng tượng ra đoạn phim đang chiếu sau mắt cô. Một căn buồng tối đầy máu. Các bạn của cô hấp hối trên sàn. Tôi, bò về phía Julie với hai bàn tay nhuốm đỏ vươn ra. Có thể Julie đã thuyết phục cô rằng tôi là trường hợp đặc biệt, nhưng tôi không nên ngạc nhiên khi nhận được những cái nhìn lo ngại. Nora im lặng ngắm tôi mấy phút. Rồi cô quay đi và bắt đầu một điếu cần sa.
Khi Julie đem thức ăn về, tôi mượn thìa của nàng, xúc một thìa cơm, rồi vừa nhai vừa mỉm cười. Nó vẫn giống như vị bọt xốp như mọi khi, nhưng tôi cũng nuốt xuống được. Julie và Nora nhìn nhau, rồi nhìn tôi.
“Mùi vị thế nào?” Julie hỏi.
Tôi nhăn mặt.
“Được rồi, nhưng dù sao thì cũng đã lâu rồi anh chưa ăn ai cả. Và anh vẫn đang đi lại. Anh có nghĩ là anh sẽ có thể tự cai được… thức ăn sống không?”
Tôi cười châm biếm. “Tôi đoán là… cũng có thể.”
Nghe vậy Julie mỉm cười. Nửa là vì giọng mỉa mai bất ngờ của tôi, nửa là vì niềm hi vọng ám chỉ trong câu trả lời của tôi. Tôi chưa bao giờ thấy cả khuôn mặt nàng sáng bừng lên như thế, vì vậy tôi hi vọng tôi đã đúng. Tôi hi vọng không phải là tôi vừa mới học được cách nói dối.