Cô lúng túng ngừng lại dưới cái nhìn của Grigio. Ông chầm chậm lướt mắt sang tôi. Tôi lại tránh mắt ông cho tới khi ông thả cho tôi đi. “Chúng ta phải đi đây,” ông nói vu vơ. “Rất vui được gặp cậu, Archie. Julie, bố phải họp hết tối nay rồi đến sáng sẽ sang Goldman để bàn về vụ liên kết hai nơi. Vài ngày nữa bố sẽ về.”
Julie gật đầu. Không nói thêm một lời, vị tướng cùng các sĩ quan của ông quay đi. Julie nhìn xuống đất vẻ xa vắng. Sau một hồi lâu, Nora phá vỡ sự im lặng. “Sợ thật đấy.”
“Đến Vườn Quả đi,” Julie khẽ nói. “Tớ cần làm một ly.”
Tôi vẫn đang ngó xuống cuối phố, nhìn theo cha nàng trong khi ông nhỏ dần lại đằng xa. Ngay trước khi rẽ qua góc quanh, ông quay lại nhìn tôi, và tôi nổi da gà. Liệu trận lũ của Perry sẽ là làn nước nhẹ nhàng sạch trong, hay nó sẽ là một trận lũ kiểu khác? Tôi cảm thấy một sự chuyển động dưới chân mình. Một đợt xung chấn nhè nhẹ, như thể xương của mỗi người đàn ông và đàn bà đã được chôn từ bao đời nay đang rung động trong lòng đất. Đập vỡ nền đá. Khuấy đảo dung nham.
VƯỜN QUẢ hóa ra không thuộc vào hệ thống trồng trọt của Sân vận động. Nó là quán rượu duy nhất của nơi này, hay ít ra là thứ gần với quán rượu nhất mà họ có thể có được giữa thành trì cấm rượu mới này. Để đến được nó, chúng tôi phải khổ sở bò dọc theo những con phố như trong tranh Escher[1] của Sân vận động. Trước tiên, chúng tôi trèo bốn tầng thang gác trong một tòa nhà xiêu vẹo trong khi những người trong nhà lườm nguýt chúng tôi qua cửa căn hộ của họ. Tiếp theo là vượt qua quãng đường chóng mặt đến căn nhà đối diện - đám con trai ở dưới đất cứ tìm cách nhòm lên váy Nora trong khi chúng tôi loạng choạng bước trên một lối đi căng bằng lưới thép giữa cột chống của hai tòa tháp. Sau khi vào được căn nhà thứ hai rồi, chúng tôi lại trèo thêm ba cầu thang nữa thì mới đến được một ban công thoáng đãng nằm cao bên trên phố phường. Tiếng ồn ào của đám đông vang lên qua cánh cửa ở đầu bên kia: một tấm ván sồi rộng vẽ hình một cái cây màu vàng.
[1] M.C.Escher (1898-1972), nghệ sĩ đồ họa người Hà Lan, được biết đến với những tác phẩm vẽ những kiến trúc bất khả thi, khám phá về chiều vô tận, v.v.
Tôi vụng về chạy lên trước Julie để mở cửa cho nàng. Nora toét miệng cười và Julie đảo mắt. Họ bước vào trong và tôi đi theo sau.
Trong quán đông chật người, nhưng không khí lại trầm lắng một cách kỳ lạ. Không có ai hò hét, đập tay, không có gã say nào lè nhè hỏi xin số điện thoại. Mặc dù vị trí của quán ít người biết và bí mật như một quán rượu lậu, Vườn Quả lại không bán rượu.
“Tôi hỏi nhé,” Julie nói trong khi chúng tôi chen qua đám đông lịch sự, “có điều gì ngớ ngẩn hơn là một đám cựu chiến binh và công nhân xây dựng đến uống cho quên sầu ở một quán nước ngọt khốn kiếp không? Ít nhất thì nó cũng cho phép người ta tự đem rượu đến.”
Vườn Quả là tòa nhà đầu tiên tôi thấy trong thành phố này có chút nét đặc sắc. Những đồ linh tinh thường thấy trong quán rượu đều có ở đây: bia ném phi tiêu, bàn bi - a, ti vi màn hình phẳng phát các trận bóng bầu dục. Mới đầu tôi rất kinh ngạc khi thấy chúng - ngành giải trí vẫn còn tồn tại ư? Ngoài kia vẫn có những người chơi các trò vô bổ này bất chấp thời cuộc ư? Nhưng rồi, vào hiệp thứ ba được khoảng mười phút thì hình ảnh trên ti vi trở nên méo mó như trên băng video và chuyển sang một trận đấu khác, hai đội và tỉ số thay đổi ngay giữa một cú chặn bóng. Năm phút sau chúng lại chuyển, hình chỉ hơi rung rung một chút để đánh dấu chỗ nối. Hình như không có fan thể thao nào để ý cả. Họ theo dõi những trận đấu bị cắt xén và bật đi bật lại không ngừng này với cặp mắt đờ đẫn trong lúc nhâm nhi ly nước như những diễn viên đang đóng lại một cảnh trong lịch sử.
Một số khách hàng thấy tôi trố mắt nhìn họ, và tôi vội quay đi. Nhưng rồi tôi lại quay lại. Có điều gì đó trong cảnh tượng này đang xuyên thấu vào đầu tôi. Một ý nghĩ đang hình thành như bóng ma trên tấm ảnh chụp lấy ngay.
“Ba nước bưởi,” Julie nói với người phục vụ quầy, anh ta có vẻ hơi ngường ngượng trong lúc chuẩn bị đồ uống. Chúng tôi ngồi xuống ghế và hai cô gái bắt đầu nói chuyện. Giọng nói trầm bổng của họ thay thế tiếng nhạc rock inh ỏi trên máy hát, nhưng rồi ngay cả giọng họ cũng nhòe đi thành một tiếng lầm bầm không rõ. Tôi nhìn các màn hình ti vi. Tôi nhìn những người khác. Tôi có thể thấy xương của họ hằn lên dưới các múi cơ. Những đốt xương nhô lên dưới lớp da căng. Tôi nhìn thấy khung xương của họ, và cái ý tưởng đang hình thành trong óc tôi hóa ra lại là một điều tôi không hề ngờ tới: đây là một bản thiết kế của bọn Xương Khô. Một các nhìn thoáng qua vào bộ não khô đét, méo mó của chúng.
Vũ trụ đang thu hẹp lại. Mọi ký ức và mọi tiềm năng đang co bóp dần thành những điểm nhỏ nhất cho tới khi da thịt của chúng rữa đi hết. Tồn tại trong điểm kỳ dị này, bị mắc kẹt trong tình trạng vĩnh hằng không bao giờ thay - đổi đó là thế giới của bọn Xương Khô. Chúng là những bức ảnh thẻ đờ đẫn, bị đông cứng vào đúng cái lúc chúng từ bỏ nhân tính của mình. Cái giây phút tuyệt vọng khi chúng cắt bỏ sợi dây cuối cùng để mình rơi xuống vực thẳm. Giờ thì chẳng còn lại điều gì. Không ý nghĩ, không tình cảm, không quá khứ, không tương lai. Không còn gì tồn tại ngoài cái nhu cầu điên cuồng là phải giữ cho mọi việc luôn như vậy, như mọi việc vốn đã thế. Chúng phải bám trụ lấy những thanh ray của đường vòng, nếu không chúng sẽ bị lấn át, bị thiêu cháy và nuốt chửng bởi những màu sắc, âm thanh, và bầu trời rộng mở.
Và ý nghĩ nọ âm ỉ trong đầu tôi, thì thầm qua các dây thần kinh của tôi như những giọng nói truyền qua dây điện thoại: giả sử chúng ta có thể làm chúng trật bánh thì sao? Chúng tôi đã phá vỡ cấu trúc của chúng đến mức khiến chúng giận dữ mù quáng. Giả sử chúng tôi có thể tạo ra một thay đổi sâu sắc, mới mẻ và kinh ngạc đến nỗi chúng sẽ sụp đổ? Đầu hàng? Vỡ vụn thành bụi cát và bị gió cuốn ra khỏi nơi này?
“R,” Julie chọc chọc tay tôi gọi. “Anh đâu mất rồi? Lại mơ mộng à?”
Tôi cười và nhún vai. Một lần nữa vốn từ của tôi lại không đủ cho tôi thốt ra điều mình muốn. Tôi phải sớm tìm ra cách làm cho nàng hiểu suy nghĩ của tôi. Cái điều tôi định làm đây, tôi biết mình sẽ không thể đơn thương độc mã thực hiện được.
Người phục vụ quay lại mang theo đồ uống của chúng tôi. Julie cười với tôi và Nora trong lúc chúng tôi ngắm ba ly nước màu vàng nhạt. “Cậu có nhớ hồi bé thì nước bưởi nguyên chất là thứ đồ uống ngầu nhất không? Giống như là rượu whiskey dành cho trẻ con ấy?”
“Ừ,” Nora bật cười. “Nước táo với nước Capri Sun, đấy là dành cho lũ õng ẹo.”
Julie nâng cốc. “Mừng Archie, anh bạn mới của chúng ta.”
Tôi nâng ly nước của mình lên cách mặt quầy chừng hai phân và hai cô gái cụng ly của họ vào đó. Chúng tôi uống. Tôi không nếm thấy vị của nó, nhưng nước chua lọt vào những vết thương cũ trong má tôi, những vết cắt mà tôi không nhớ, làm miệng tôi xót điếng.
Julie gọi một chầu nữa, và khi người phục vụ đem nước đến, nàng xốc cái túi dết lên vai và ôm lấy cả ba ly nước. Nàng cúi xuống nháy mắt với tôi và Nora. “Tớ quay lại ngay.” Tay cầm ly, nàng biến vào buồng vệ sinh.
“Cô... ấy làm gì thế?” tôi hỏi Nora.
“Chịu. Ăn trộm nước của bọn mình chắc?”
Chúng tôi ngồi im ngượng nghịu, hai người quen sơ sơ thiếu vắng mối nối là sự hiện diện của Julie. Sau mấy phút, Nora ngả người về phía tôi và thì thầm. “Anh biết tại sao cô ấy lại bảo anh là bạn trai của tôi chứ?”
Tôi nhún một bên vai. “Biết.”
“Chẳng có ý gì đâu, cô ấy chỉ muốn để mọi người không chú ý đến anh thôi. Nếu nói anh là bạn trai của cô ấy, hay bạn của cô ấy, hay bất kỳ cái gì liên quan đến cô ấy thì ông Grigio sẽ hành anh thôi rồi. Và tất nhiên nếu ông ấy thực sự nhìn anh thì... lớp trang điểm không được hoàn hảo lắm.”
“Tôi... hiểu mà.”
“Mà này, nói để anh biết nhé? Việc cô ấy dẫn anh đến thăm mộ mẹ là to chuyện lắm đấy.”
Tôi nhướng mày lên.
“Cô ấy không bao giờ kể cho ai nghe chuyện đó. Thậm chí cả với Perry mà cũng phải mất gần ba năm cô ấy mới kể hết sự tình. Tôi không biết chắc cái đó có nghĩa gì với cô ấy nhưng... nó rất khác.”
Tôi nhìn chằm chằm xuống quầy, ngượng chín mặt. Một nụ cười âu yếm kỳ lạ nở trên mặt Nora. “Anh có biết là anh hơi giống Perry không?”
Tôi gồng người lên. Tôi bắt đầu thấy cảm giác hối hận nóng bỏng lại đang trào lên trong họng.
“Tôi không biết cụ thể là gì, ý tôi là rõ ràng anh không phải cái kiểu chém gió như cậu ấy, nhưng anh có một chút... linh lợi giống như cậu ấy hồi trước.”
Tôi nên khâu kín miệng mình lại. Sự thành thực là một thôi thúc đã khiến tôi gặp rắc rối nhiều lần. Nhưng tôi không thể im lặng mãi được. Những lời nói thành hình và buột ra khỏi miệng tôi như một tiếng hắt hơi không thể kìm nén nổi. “Tôi giết cậu ấy. Ăn... óc cậu ấy.”
Nora mím môi và chậm rãi gật đầu. “Ờ... tôi cũng đoán thế.”
Mặt tôi ngớ ra. “Sao cơ?”
“Tôi không tận mắt chứng kiến nhưng tôi đã đoán chừng. Cũng có lý thôi.”
Tôi sững sờ nhìn cô. “Julie... biết ư?”
“Tôi không nghĩ thế. Nhưng nếu có biết thì tôi cũng nghĩ là cô ấy sẽ không sao đâu.” Cô khẽ chạm vào tay tôi đang đặt trên mặt quầy. “Anh có thể nói với cô ấy, R ạ. Tôi nghĩ cô ấy sẽ tha thứ cho anh.”
“Vì sao?”
“Vì cùng một lý do khiến tôi tha thứ cho anh.”
“Vì sao?”
“Vì đó không phải là anh. Đó là bệnh dịch.”
Tôi đợi cô nói thêm. Cô nhìn cái ti vi bên trên quầy, ánh sáng xanh của nó lập lòe trên khuôn mặt ngăm ngăm của cô. “Julie có kể cho anh nghe về cái lần Perry ngủ với một cô gái mồ côi không?”
Tôi ngần ngừ, rồi gật đầu.
“Ờ... đó là tôi đấy”
Tôi liếc mắt về phía buồng vệ sinh, nhưng Nora có vẻ không muốn che giấu gì cả. “Hồi ấy tôi mới đến đây được một tuần,” cô kể. “Còn chưa quen Julie. Tôi đã gặp cô ấy như thế đấy. Tôi ngủ với bạn trai cô ấy, và cô ấy ghét tôi, và rồi khi thời gian trôi qua, rất nhiều chuyện xảy ra, và chẳng biết thế nào mà chúng tôi lại trở thành bạn. Điên thật, phải không?” Cô dốc ngược ly nước để giọt cuối cùng rớt lên lưỡi, rồi đặt cái ly sang bên. “Điều tôi định nói là, đây là một thế giới tệ hại và có khối chuyện tệ hại xảy ra, nhưng chúng ta không phải chìm ngập trong những chuyện ấy. Mười sáu tuổi đầu, R ạ - bố mẹ tôi nghiện ma túy và đã ném tôi vào giữa một khu ổ chuột đầy Người Chết vì họ không nuôi nổi tôi nữa. Tôi đã lang thang một mình hàng năm trời trước khi tôi tìm thấy thành phố Sân vận động, và tôi không còn đủ đầu ngón tay để đếm những lần tôi đã suýt chết.” Cô giơ tay trái lên và vẫy vẫy ngón tay cụt một nửa như một cô dâu mới phô chiếc nhẫn kim cương của mình. “Ý tôi là, khi ta có những gánh nặng như thế trong đời mình, ta phải nhìn vào toàn cảnh, nếu không ta có thể chết chìm.”
Tôi nhìn vào mắt cô, nhưng như một kẻ mù chữ, tôi không thể dò nổi ý nghĩa trong lời nói của cô. “Toàn cảnh... của chuyện... tôi giết Perry... là gì?”
“Kìa, R,” cô nói, khẽ vỗ đùa vào một bên đầu tôi. Anh là Xác Sống. Anh mang dịch bệnh trong mình. Hay ít nhất là anh đã mang nó lúc anh giết Perry. Có thể giờ anh đã khác rồi, tôi rất hy vọng là thế, nhưng khi đó anh không có lựa chọn nào khác. Đây không phải là ‘tội ác’, là ‘sát nhân’, nó là một điều gì đó sâu xa hơn, không thể tránh khỏi.” Cô gõ gõ lên thái dương. “Tôi và Julie hiểu được điều đó, anh biết không? Có một câu nói của Thiền phái như thế này, ‘Không ngợi khen, không chê trách, chỉ có thế thôi.’ Chúng tôi không quan tâm đến chuyện ai đáng bị buộc tội vì một căn bệnh của loài người, chúng tôi chỉ muốn chữa khỏi nó thôi.”
Julie ra khỏi nhà vệ sinh và đặt ba ly nước xuống quầy với một nụ cười ranh mãnh. “Ngay cả nước bưởi cũng cần thêm tí chút đưa cay.”
Nora nhấp thử một ngụm và vội quay đi che miệng. “Thánh thần... thiên địa ơi!” cô ho sặc sụa. “Cậu cho vào bao nhiêu thế?”
“Chỉ mấy chai vodka con con thôi,” Julie thì thầm với vẻ trẻ thơ vô tội. “Nhờ có anh bạn Archie của chúng ta đây và Hãng hàng không Xác Sống.”
“Giỏi lắm Archie.”
Tôi lắc đầu. “Xin đừng... gọi tôi là...”
“Thôi được, được rồi,” Julie nói. “Không gọi là Archie nữa. Nhưng lần này chúng ta nâng cốc chúc mừng điều gì đây? Là rượu của anh mà, R, anh quyết định đi.”
Tôi cầm ly nước trước mặt mình. Tôi ngửi nó, tự bắt bản thân tin rằng mình có thể ngửi được những mùi khác ngoài mùi cái chết và hấp hối, rằng mình vẫn còn là con người nguyên vẹn. Một mùi cam quýt chua chua phả vào mũi tôi. Những vườn quả ở Florida sáng rực dưới ánh mặt trời. Lời chúc tụng xuất hiện trong đầu tôi nghe sến kinh khủng, nhưng tôi vẫn thốt ra. “Mừng... cuộc sống.”
Nora nén một tiếng cười. “Thật sao?”
Julie nhún vai. “Sến kinh khủng, nhưng thế thì đã sao.” Nàng nâng ly lên chạm vào ly của tôi. “Mừng cuộc sống, ngài Xác Sống ạ.”
“L’chaim![2]” Nora hét to và uống cạn ly.
[2] Tiếng chúc tụng lúc nâng cốc của người Do Thái
Julie cạn ly.
Tôi cũng cạn ly.
Vị vodka xộc vào óc tôi như một luồng đạn. Lần này nó không phải là thứ thuốc tinh thần nữa. Rượu mạnh thực sự và tôi cảm nhận được nó. Tôi đang cảm nhận được nó. Làm sao có thể như thế được?
Julie gọi một chầu nữa và ngay tức thì thêm rượu vào. Tôi những tưởng hai cô gái cũng kém sức rượu như tôi, vì ở đây rượu bị cấm, nhưng tôi chợt nhận ra chắc họ thường xuyên ghé các hàng rượu mỗi khi ra ngoài thành phố để thu gom hàng hóa. Họ nhanh chóng vượt xa tôi trong lúc tôi nhâm nhi ly rượu thứ hai, kinh ngạc với cảm giác đang truyền khắp cơ thể mình. Âm thanh của quán rượu nhòe đi và tôi chỉ ngắm Julie, tâm điểm của bức tranh mờ mịt trước mắt tôi. Nàng đang cười. Một tiếng cười thoải mái, không dè dặt mà hình như tôi chưa nghe thấy bao giờ, nàng vừa cười vừa ngả đầu về phía sau cho tiếng cười cứ tuôn ra. Nàng và Nora đang nhắc lại một kỷ niệm chung nào đó. Nàng quay sang tôi và nói một câu, mời tôi cùng chia sẻ niềm vui với một tiếng nói và một nụ cười để lộ hàm răng trắng muốt, nhưng tôi không đáp lại. Tôi cứ nhìn nàng trong lúc tay đỡ lấy cằm, khuỷu tay chống lên quầy, miệng mỉm cười.
Mãn nguyện. Cảm giác ấy là như thế này ư?
Sau khi uống hết ly rượu, tôi thấy thân dưới mình có sức ép, và tôi chợt nhận ra mình cần đi tiểu. Vì Người Chết không uống, việc đi tiểu là hết sức hiếm hoi. Tôi hy vọng là mình còn nhớ cách làm.
Tôi lảo đảo đi vào buồng vệ sinh và áp trán lên tường phía trước bồn cầu. Tôi kéo khóa quần, nhìn xuống, và trông thấy nó. Cái cơ quan huyền bí của sự sống và cái chết và những cuộc trăng gió ở-ghế-sau-xe-trong-buổi-hẹn-đầu. Nó nằm cù rũ, vô dụng, im lặng phán xét tôi vì bao lần tôi đã lạm dụng nó trước kia. Tôi nghĩ đến vợ tôi và nhân tình mới của cô ta, đập thân xác lạnh ngắt vào nhau như những miếng thịt gà trong nhà máy đóng gói. Tôi nghĩ đến những dáng người vô danh mờ nhạt trong quá khứ của mình, có lẽ giờ đã chết hẳn hoặc là Người Chết cả rồi. Rồi tôi nghĩ đến Julie nằm cuộn tròn cạnh tôi trên chiếc giường lớn. Tôi nghĩ đến thân thể nàng trong bộ lót cọc cạch đến buồn cười, hơi thở của nàng phả vào mắt tôi trong khi tôi ngắm nghía từng đường nét trên mặt nàng, tự hỏi điều bí ẩn nào nằm ở nhân của từng tế bào trong người nàng.
Trong lúc đứng đó trong buồng vệ sinh, giữa mùi hôi thối của phân và nước tiểu, tôi tự hỏi: Đã quá muộn đối với tôi chưa? Liệu tôi có thể giật được một cơ hội mới từ hàm răng nghiến mạnh của bầu trời há hoác kia không? Tôi muốn một quá khứ mới, những ký ức mới, một cái bắt tay mới với tình yêu. Tôi muốn bắt đầu tất cả mọi thứ lại từ đầu.
Khi tôi ra khỏi buồng vệ sinh thì sàn nhà đã quay cuồng. Mọi giọng nói đều nghẹt đi. Julie và Nora đang mải trò chuyện, ngả sát người vào nhau và cười. Một tên đàn ông chừng ba mươi tuổi đi đến quầy và nói một câu tục tĩu với Julie. Nora trừng mắt với hắn và vặc lại bằng câu gì đó có vẻ mỉa mai, và Julie đuổi hắn đi. Tên đàn ông nhún vai quay lại bàn bi - a nơi bạn hắn đang đợi. Julie gọi với theo bằng một câu chửi, nhưng tên đàn ông chỉ lạnh lùng nhe răng cười và đáp trả một tiếng. Julie sững người ra một lát, rồi nàng và Nora quay lưng lại với bàn bi - a, và Nora bắt đầu thì thầm vào tai Julie.
“Sao... thế?” tôi tiến lại quầy rượu hỏi. Tôi có thể cảm thấy cả hai tên bàn bi - a đang theo dõi tôi.
“Không có gì,” Julie nói, nhưng giọng nàng run run. “Ổn cả.”
“R, cho bọn tôi nói chuyện riêng một phút được không?” Nora hỏi.
Tôi nhìn đi nhìn lại hai người. Họ đợi. Tôi quay lưng và đi ra khỏi quán, với bao cảm giác lẫn lộn trong lòng. Ở ngoài ban công, tôi gục người tựa vào lan can, nhìn xuống con phố dưới mặt đất cách đến bảy tầng nhà. Phần lớn đèn trong thành phố đã tắt, nhưng những ngọn đèn đường vẫn đang lập lòe như lân tinh. Chiếc máy ghi âm mi ni của Julie nằm trong túi áo tôi trĩu nặng. Tôi lôi nó ra, nhìn chằm chằm. Tôi biết là mình không nên nhưng tôi... tôi cảm thấy như mình chỉ cần...
Tôi nhắm mắt lại, khe khẽ đảo người với một cánh tay bám lấy lan can, và tua băng ngược lại vài phút rồi nhấn nút “play”.
“... điên đến mức ấy không? Chỉ bởi vì anh ta là... cho dù anh ta là cái gì đi chăng nữa? Ý mình là, chẳng phải ‘Xác sống’ chỉ là một cái tên ngu ngốc chúng ta...”
Tôi lại nhấn nút tua. Tôi chợt nghĩ ra rằng khoảng cách giữa khúc đầu đoạn băng này và khúc cuối của đoạn băng trước đó là toàn bộ quãng thời gian tôi đã quen Julie. Tất cả những giây phút ý nghĩa trong đời tôi chỉ vừa khít trong mấy giây cuộn băng rít lên như thế.
Tôi dừng cuộn băng lại, rồi bật lên.
Cô lúng túng ngừng lại dưới cái nhìn của Grigio. Ông chầm chậm lướt mắt sang tôi. Tôi lại tránh mắt ông cho tới khi ông thả cho tôi đi. “Chúng ta phải đi đây,” ông nói vu vơ. “Rất vui được gặp cậu, Archie. Julie, bố phải họp hết tối nay rồi đến sáng sẽ sang Goldman để bàn về vụ liên kết hai nơi. Vài ngày nữa bố sẽ về.”
Julie gật đầu. Không nói thêm một lời, vị tướng cùng các sĩ quan của ông quay đi. Julie nhìn xuống đất vẻ xa vắng. Sau một hồi lâu, Nora phá vỡ sự im lặng. “Sợ thật đấy.”
“Đến Vườn Quả đi,” Julie khẽ nói. “Tớ cần làm một ly.”
Tôi vẫn đang ngó xuống cuối phố, nhìn theo cha nàng trong khi ông nhỏ dần lại đằng xa. Ngay trước khi rẽ qua góc quanh, ông quay lại nhìn tôi, và tôi nổi da gà. Liệu trận lũ của Perry sẽ là làn nước nhẹ nhàng sạch trong, hay nó sẽ là một trận lũ kiểu khác? Tôi cảm thấy một sự chuyển động dưới chân mình. Một đợt xung chấn nhè nhẹ, như thể xương của mỗi người đàn ông và đàn bà đã được chôn từ bao đời nay đang rung động trong lòng đất. Đập vỡ nền đá. Khuấy đảo dung nham.
VƯỜN QUẢ hóa ra không thuộc vào hệ thống trồng trọt của Sân vận động. Nó là quán rượu duy nhất của nơi này, hay ít ra là thứ gần với quán rượu nhất mà họ có thể có được giữa thành trì cấm rượu mới này. Để đến được nó, chúng tôi phải khổ sở bò dọc theo những con phố như trong tranh Escher[] của Sân vận động. Trước tiên, chúng tôi trèo bốn tầng thang gác trong một tòa nhà xiêu vẹo trong khi những người trong nhà lườm nguýt chúng tôi qua cửa căn hộ của họ. Tiếp theo là vượt qua quãng đường chóng mặt đến căn nhà đối diện - đám con trai ở dưới đất cứ tìm cách nhòm lên váy Nora trong khi chúng tôi loạng choạng bước trên một lối đi căng bằng lưới thép giữa cột chống của hai tòa tháp. Sau khi vào được căn nhà thứ hai rồi, chúng tôi lại trèo thêm ba cầu thang nữa thì mới đến được một ban công thoáng đãng nằm cao bên trên phố phường. Tiếng ồn ào của đám đông vang lên qua cánh cửa ở đầu bên kia: một tấm ván sồi rộng vẽ hình một cái cây màu vàng.
[] M.C.Escher (-), nghệ sĩ đồ họa người Hà Lan, được biết đến với những tác phẩm vẽ những kiến trúc bất khả thi, khám phá về chiều vô tận, v.v.
Tôi vụng về chạy lên trước Julie để mở cửa cho nàng. Nora toét miệng cười và Julie đảo mắt. Họ bước vào trong và tôi đi theo sau.
Trong quán đông chật người, nhưng không khí lại trầm lắng một cách kỳ lạ. Không có ai hò hét, đập tay, không có gã say nào lè nhè hỏi xin số điện thoại. Mặc dù vị trí của quán ít người biết và bí mật như một quán rượu lậu, Vườn Quả lại không bán rượu.
“Tôi hỏi nhé,” Julie nói trong khi chúng tôi chen qua đám đông lịch sự, “có điều gì ngớ ngẩn hơn là một đám cựu chiến binh và công nhân xây dựng đến uống cho quên sầu ở một quán nước ngọt khốn kiếp không? Ít nhất thì nó cũng cho phép người ta tự đem rượu đến.”
Vườn Quả là tòa nhà đầu tiên tôi thấy trong thành phố này có chút nét đặc sắc. Những đồ linh tinh thường thấy trong quán rượu đều có ở đây: bia ném phi tiêu, bàn bi - a, ti vi màn hình phẳng phát các trận bóng bầu dục. Mới đầu tôi rất kinh ngạc khi thấy chúng - ngành giải trí vẫn còn tồn tại ư? Ngoài kia vẫn có những người chơi các trò vô bổ này bất chấp thời cuộc ư? Nhưng rồi, vào hiệp thứ ba được khoảng mười phút thì hình ảnh trên ti vi trở nên méo mó như trên băng video và chuyển sang một trận đấu khác, hai đội và tỉ số thay đổi ngay giữa một cú chặn bóng. Năm phút sau chúng lại chuyển, hình chỉ hơi rung rung một chút để đánh dấu chỗ nối. Hình như không có fan thể thao nào để ý cả. Họ theo dõi những trận đấu bị cắt xén và bật đi bật lại không ngừng này với cặp mắt đờ đẫn trong lúc nhâm nhi ly nước như những diễn viên đang đóng lại một cảnh trong lịch sử.
Một số khách hàng thấy tôi trố mắt nhìn họ, và tôi vội quay đi. Nhưng rồi tôi lại quay lại. Có điều gì đó trong cảnh tượng này đang xuyên thấu vào đầu tôi. Một ý nghĩ đang hình thành như bóng ma trên tấm ảnh chụp lấy ngay.
“Ba nước bưởi,” Julie nói với người phục vụ quầy, anh ta có vẻ hơi ngường ngượng trong lúc chuẩn bị đồ uống. Chúng tôi ngồi xuống ghế và hai cô gái bắt đầu nói chuyện. Giọng nói trầm bổng của họ thay thế tiếng nhạc rock inh ỏi trên máy hát, nhưng rồi ngay cả giọng họ cũng nhòe đi thành một tiếng lầm bầm không rõ. Tôi nhìn các màn hình ti vi. Tôi nhìn những người khác. Tôi có thể thấy xương của họ hằn lên dưới các múi cơ. Những đốt xương nhô lên dưới lớp da căng. Tôi nhìn thấy khung xương của họ, và cái ý tưởng đang hình thành trong óc tôi hóa ra lại là một điều tôi không hề ngờ tới: đây là một bản thiết kế của bọn Xương Khô. Một các nhìn thoáng qua vào bộ não khô đét, méo mó của chúng.
Vũ trụ đang thu hẹp lại. Mọi ký ức và mọi tiềm năng đang co bóp dần thành những điểm nhỏ nhất cho tới khi da thịt của chúng rữa đi hết. Tồn tại trong điểm kỳ dị này, bị mắc kẹt trong tình trạng vĩnh hằng không bao giờ thay - đổi đó là thế giới của bọn Xương Khô. Chúng là những bức ảnh thẻ đờ đẫn, bị đông cứng vào đúng cái lúc chúng từ bỏ nhân tính của mình. Cái giây phút tuyệt vọng khi chúng cắt bỏ sợi dây cuối cùng để mình rơi xuống vực thẳm. Giờ thì chẳng còn lại điều gì. Không ý nghĩ, không tình cảm, không quá khứ, không tương lai. Không còn gì tồn tại ngoài cái nhu cầu điên cuồng là phải giữ cho mọi việc luôn như vậy, như mọi việc vốn đã thế. Chúng phải bám trụ lấy những thanh ray của đường vòng, nếu không chúng sẽ bị lấn át, bị thiêu cháy và nuốt chửng bởi những màu sắc, âm thanh, và bầu trời rộng mở.
Và ý nghĩ nọ âm ỉ trong đầu tôi, thì thầm qua các dây thần kinh của tôi như những giọng nói truyền qua dây điện thoại: giả sử chúng ta có thể làm chúng trật bánh thì sao? Chúng tôi đã phá vỡ cấu trúc của chúng đến mức khiến chúng giận dữ mù quáng. Giả sử chúng tôi có thể tạo ra một thay đổi sâu sắc, mới mẻ và kinh ngạc đến nỗi chúng sẽ sụp đổ? Đầu hàng? Vỡ vụn thành bụi cát và bị gió cuốn ra khỏi nơi này?
“R,” Julie chọc chọc tay tôi gọi. “Anh đâu mất rồi? Lại mơ mộng à?”
Tôi cười và nhún vai. Một lần nữa vốn từ của tôi lại không đủ cho tôi thốt ra điều mình muốn. Tôi phải sớm tìm ra cách làm cho nàng hiểu suy nghĩ của tôi. Cái điều tôi định làm đây, tôi biết mình sẽ không thể đơn thương độc mã thực hiện được.
Người phục vụ quay lại mang theo đồ uống của chúng tôi. Julie cười với tôi và Nora trong lúc chúng tôi ngắm ba ly nước màu vàng nhạt. “Cậu có nhớ hồi bé thì nước bưởi nguyên chất là thứ đồ uống ngầu nhất không? Giống như là rượu whiskey dành cho trẻ con ấy?”
“Ừ,” Nora bật cười. “Nước táo với nước Capri Sun, đấy là dành cho lũ õng ẹo.”
Julie nâng cốc. “Mừng Archie, anh bạn mới của chúng ta.”
Tôi nâng ly nước của mình lên cách mặt quầy chừng hai phân và hai cô gái cụng ly của họ vào đó. Chúng tôi uống. Tôi không nếm thấy vị của nó, nhưng nước chua lọt vào những vết thương cũ trong má tôi, những vết cắt mà tôi không nhớ, làm miệng tôi xót điếng.
Julie gọi một chầu nữa, và khi người phục vụ đem nước đến, nàng xốc cái túi dết lên vai và ôm lấy cả ba ly nước. Nàng cúi xuống nháy mắt với tôi và Nora. “Tớ quay lại ngay.” Tay cầm ly, nàng biến vào buồng vệ sinh.
“Cô... ấy làm gì thế?” tôi hỏi Nora.
“Chịu. Ăn trộm nước của bọn mình chắc?”
Chúng tôi ngồi im ngượng nghịu, hai người quen sơ sơ thiếu vắng mối nối là sự hiện diện của Julie. Sau mấy phút, Nora ngả người về phía tôi và thì thầm. “Anh biết tại sao cô ấy lại bảo anh là bạn trai của tôi chứ?”
Tôi nhún một bên vai. “Biết.”
“Chẳng có ý gì đâu, cô ấy chỉ muốn để mọi người không chú ý đến anh thôi. Nếu nói anh là bạn trai của cô ấy, hay bạn của cô ấy, hay bất kỳ cái gì liên quan đến cô ấy thì ông Grigio sẽ hành anh thôi rồi. Và tất nhiên nếu ông ấy thực sự nhìn anh thì... lớp trang điểm không được hoàn hảo lắm.”
“Tôi... hiểu mà.”
“Mà này, nói để anh biết nhé? Việc cô ấy dẫn anh đến thăm mộ mẹ là to chuyện lắm đấy.”
Tôi nhướng mày lên.
“Cô ấy không bao giờ kể cho ai nghe chuyện đó. Thậm chí cả với Perry mà cũng phải mất gần ba năm cô ấy mới kể hết sự tình. Tôi không biết chắc cái đó có nghĩa gì với cô ấy nhưng... nó rất khác.”
Tôi nhìn chằm chằm xuống quầy, ngượng chín mặt. Một nụ cười âu yếm kỳ lạ nở trên mặt Nora. “Anh có biết là anh hơi giống Perry không?”
Tôi gồng người lên. Tôi bắt đầu thấy cảm giác hối hận nóng bỏng lại đang trào lên trong họng.
“Tôi không biết cụ thể là gì, ý tôi là rõ ràng anh không phải cái kiểu chém gió như cậu ấy, nhưng anh có một chút... linh lợi giống như cậu ấy hồi trước.”
Tôi nên khâu kín miệng mình lại. Sự thành thực là một thôi thúc đã khiến tôi gặp rắc rối nhiều lần. Nhưng tôi không thể im lặng mãi được. Những lời nói thành hình và buột ra khỏi miệng tôi như một tiếng hắt hơi không thể kìm nén nổi. “Tôi giết cậu ấy. Ăn... óc cậu ấy.”
Nora mím môi và chậm rãi gật đầu. “Ờ... tôi cũng đoán thế.”
Mặt tôi ngớ ra. “Sao cơ?”
“Tôi không tận mắt chứng kiến nhưng tôi đã đoán chừng. Cũng có lý thôi.”
Tôi sững sờ nhìn cô. “Julie... biết ư?”
“Tôi không nghĩ thế. Nhưng nếu có biết thì tôi cũng nghĩ là cô ấy sẽ không sao đâu.” Cô khẽ chạm vào tay tôi đang đặt trên mặt quầy. “Anh có thể nói với cô ấy, R ạ. Tôi nghĩ cô ấy sẽ tha thứ cho anh.”
“Vì sao?”
“Vì cùng một lý do khiến tôi tha thứ cho anh.”
“Vì sao?”
“Vì đó không phải là anh. Đó là bệnh dịch.”
Tôi đợi cô nói thêm. Cô nhìn cái ti vi bên trên quầy, ánh sáng xanh của nó lập lòe trên khuôn mặt ngăm ngăm của cô. “Julie có kể cho anh nghe về cái lần Perry ngủ với một cô gái mồ côi không?”
Tôi ngần ngừ, rồi gật đầu.
“Ờ... đó là tôi đấy”
Tôi liếc mắt về phía buồng vệ sinh, nhưng Nora có vẻ không muốn che giấu gì cả. “Hồi ấy tôi mới đến đây được một tuần,” cô kể. “Còn chưa quen Julie. Tôi đã gặp cô ấy như thế đấy. Tôi ngủ với bạn trai cô ấy, và cô ấy ghét tôi, và rồi khi thời gian trôi qua, rất nhiều chuyện xảy ra, và chẳng biết thế nào mà chúng tôi lại trở thành bạn. Điên thật, phải không?” Cô dốc ngược ly nước để giọt cuối cùng rớt lên lưỡi, rồi đặt cái ly sang bên. “Điều tôi định nói là, đây là một thế giới tệ hại và có khối chuyện tệ hại xảy ra, nhưng chúng ta không phải chìm ngập trong những chuyện ấy. Mười sáu tuổi đầu, R ạ - bố mẹ tôi nghiện ma túy và đã ném tôi vào giữa một khu ổ chuột đầy Người Chết vì họ không nuôi nổi tôi nữa. Tôi đã lang thang một mình hàng năm trời trước khi tôi tìm thấy thành phố Sân vận động, và tôi không còn đủ đầu ngón tay để đếm những lần tôi đã suýt chết.” Cô giơ tay trái lên và vẫy vẫy ngón tay cụt một nửa như một cô dâu mới phô chiếc nhẫn kim cương của mình. “Ý tôi là, khi ta có những gánh nặng như thế trong đời mình, ta phải nhìn vào toàn cảnh, nếu không ta có thể chết chìm.”
Tôi nhìn vào mắt cô, nhưng như một kẻ mù chữ, tôi không thể dò nổi ý nghĩa trong lời nói của cô. “Toàn cảnh... của chuyện... tôi giết Perry... là gì?”
“Kìa, R,” cô nói, khẽ vỗ đùa vào một bên đầu tôi. Anh là Xác Sống. Anh mang dịch bệnh trong mình. Hay ít nhất là anh đã mang nó lúc anh giết Perry. Có thể giờ anh đã khác rồi, tôi rất hy vọng là thế, nhưng khi đó anh không có lựa chọn nào khác. Đây không phải là ‘tội ác’, là ‘sát nhân’, nó là một điều gì đó sâu xa hơn, không thể tránh khỏi.” Cô gõ gõ lên thái dương. “Tôi và Julie hiểu được điều đó, anh biết không? Có một câu nói của Thiền phái như thế này, ‘Không ngợi khen, không chê trách, chỉ có thế thôi.’ Chúng tôi không quan tâm đến chuyện ai đáng bị buộc tội vì một căn bệnh của loài người, chúng tôi chỉ muốn chữa khỏi nó thôi.”
Julie ra khỏi nhà vệ sinh và đặt ba ly nước xuống quầy với một nụ cười ranh mãnh. “Ngay cả nước bưởi cũng cần thêm tí chút đưa cay.”
Nora nhấp thử một ngụm và vội quay đi che miệng. “Thánh thần... thiên địa ơi!” cô ho sặc sụa. “Cậu cho vào bao nhiêu thế?”
“Chỉ mấy chai vodka con con thôi,” Julie thì thầm với vẻ trẻ thơ vô tội. “Nhờ có anh bạn Archie của chúng ta đây và Hãng hàng không Xác Sống.”
“Giỏi lắm Archie.”
Tôi lắc đầu. “Xin đừng... gọi tôi là...”
“Thôi được, được rồi,” Julie nói. “Không gọi là Archie nữa. Nhưng lần này chúng ta nâng cốc chúc mừng điều gì đây? Là rượu của anh mà, R, anh quyết định đi.”
Tôi cầm ly nước trước mặt mình. Tôi ngửi nó, tự bắt bản thân tin rằng mình có thể ngửi được những mùi khác ngoài mùi cái chết và hấp hối, rằng mình vẫn còn là con người nguyên vẹn. Một mùi cam quýt chua chua phả vào mũi tôi. Những vườn quả ở Florida sáng rực dưới ánh mặt trời. Lời chúc tụng xuất hiện trong đầu tôi nghe sến kinh khủng, nhưng tôi vẫn thốt ra. “Mừng... cuộc sống.”
Nora nén một tiếng cười. “Thật sao?”
Julie nhún vai. “Sến kinh khủng, nhưng thế thì đã sao.” Nàng nâng ly lên chạm vào ly của tôi. “Mừng cuộc sống, ngài Xác Sống ạ.”
“L’chaim![]” Nora hét to và uống cạn ly.
[] Tiếng chúc tụng lúc nâng cốc của người Do Thái
Julie cạn ly.
Tôi cũng cạn ly.
Vị vodka xộc vào óc tôi như một luồng đạn. Lần này nó không phải là thứ thuốc tinh thần nữa. Rượu mạnh thực sự và tôi cảm nhận được nó. Tôi đang cảm nhận được nó. Làm sao có thể như thế được?
Julie gọi một chầu nữa và ngay tức thì thêm rượu vào. Tôi những tưởng hai cô gái cũng kém sức rượu như tôi, vì ở đây rượu bị cấm, nhưng tôi chợt nhận ra chắc họ thường xuyên ghé các hàng rượu mỗi khi ra ngoài thành phố để thu gom hàng hóa. Họ nhanh chóng vượt xa tôi trong lúc tôi nhâm nhi ly rượu thứ hai, kinh ngạc với cảm giác đang truyền khắp cơ thể mình. Âm thanh của quán rượu nhòe đi và tôi chỉ ngắm Julie, tâm điểm của bức tranh mờ mịt trước mắt tôi. Nàng đang cười. Một tiếng cười thoải mái, không dè dặt mà hình như tôi chưa nghe thấy bao giờ, nàng vừa cười vừa ngả đầu về phía sau cho tiếng cười cứ tuôn ra. Nàng và Nora đang nhắc lại một kỷ niệm chung nào đó. Nàng quay sang tôi và nói một câu, mời tôi cùng chia sẻ niềm vui với một tiếng nói và một nụ cười để lộ hàm răng trắng muốt, nhưng tôi không đáp lại. Tôi cứ nhìn nàng trong lúc tay đỡ lấy cằm, khuỷu tay chống lên quầy, miệng mỉm cười.
Mãn nguyện. Cảm giác ấy là như thế này ư?
Sau khi uống hết ly rượu, tôi thấy thân dưới mình có sức ép, và tôi chợt nhận ra mình cần đi tiểu. Vì Người Chết không uống, việc đi tiểu là hết sức hiếm hoi. Tôi hy vọng là mình còn nhớ cách làm.
Tôi lảo đảo đi vào buồng vệ sinh và áp trán lên tường phía trước bồn cầu. Tôi kéo khóa quần, nhìn xuống, và trông thấy nó. Cái cơ quan huyền bí của sự sống và cái chết và những cuộc trăng gió ở-ghế-sau-xe-trong-buổi-hẹn-đầu. Nó nằm cù rũ, vô dụng, im lặng phán xét tôi vì bao lần tôi đã lạm dụng nó trước kia. Tôi nghĩ đến vợ tôi và nhân tình mới của cô ta, đập thân xác lạnh ngắt vào nhau như những miếng thịt gà trong nhà máy đóng gói. Tôi nghĩ đến những dáng người vô danh mờ nhạt trong quá khứ của mình, có lẽ giờ đã chết hẳn hoặc là Người Chết cả rồi. Rồi tôi nghĩ đến Julie nằm cuộn tròn cạnh tôi trên chiếc giường lớn. Tôi nghĩ đến thân thể nàng trong bộ lót cọc cạch đến buồn cười, hơi thở của nàng phả vào mắt tôi trong khi tôi ngắm nghía từng đường nét trên mặt nàng, tự hỏi điều bí ẩn nào nằm ở nhân của từng tế bào trong người nàng.
Trong lúc đứng đó trong buồng vệ sinh, giữa mùi hôi thối của phân và nước tiểu, tôi tự hỏi: Đã quá muộn đối với tôi chưa? Liệu tôi có thể giật được một cơ hội mới từ hàm răng nghiến mạnh của bầu trời há hoác kia không? Tôi muốn một quá khứ mới, những ký ức mới, một cái bắt tay mới với tình yêu. Tôi muốn bắt đầu tất cả mọi thứ lại từ đầu.
Khi tôi ra khỏi buồng vệ sinh thì sàn nhà đã quay cuồng. Mọi giọng nói đều nghẹt đi. Julie và Nora đang mải trò chuyện, ngả sát người vào nhau và cười. Một tên đàn ông chừng ba mươi tuổi đi đến quầy và nói một câu tục tĩu với Julie. Nora trừng mắt với hắn và vặc lại bằng câu gì đó có vẻ mỉa mai, và Julie đuổi hắn đi. Tên đàn ông nhún vai quay lại bàn bi - a nơi bạn hắn đang đợi. Julie gọi với theo bằng một câu chửi, nhưng tên đàn ông chỉ lạnh lùng nhe răng cười và đáp trả một tiếng. Julie sững người ra một lát, rồi nàng và Nora quay lưng lại với bàn bi - a, và Nora bắt đầu thì thầm vào tai Julie.
“Sao... thế?” tôi tiến lại quầy rượu hỏi. Tôi có thể cảm thấy cả hai tên bàn bi - a đang theo dõi tôi.
“Không có gì,” Julie nói, nhưng giọng nàng run run. “Ổn cả.”
“R, cho bọn tôi nói chuyện riêng một phút được không?” Nora hỏi.
Tôi nhìn đi nhìn lại hai người. Họ đợi. Tôi quay lưng và đi ra khỏi quán, với bao cảm giác lẫn lộn trong lòng. Ở ngoài ban công, tôi gục người tựa vào lan can, nhìn xuống con phố dưới mặt đất cách đến bảy tầng nhà. Phần lớn đèn trong thành phố đã tắt, nhưng những ngọn đèn đường vẫn đang lập lòe như lân tinh. Chiếc máy ghi âm mi ni của Julie nằm trong túi áo tôi trĩu nặng. Tôi lôi nó ra, nhìn chằm chằm. Tôi biết là mình không nên nhưng tôi... tôi cảm thấy như mình chỉ cần...
Tôi nhắm mắt lại, khe khẽ đảo người với một cánh tay bám lấy lan can, và tua băng ngược lại vài phút rồi nhấn nút “play”.
“... điên đến mức ấy không? Chỉ bởi vì anh ta là... cho dù anh ta là cái gì đi chăng nữa? Ý mình là, chẳng phải ‘Xác sống’ chỉ là một cái tên ngu ngốc chúng ta...”
Tôi lại nhấn nút tua. Tôi chợt nghĩ ra rằng khoảng cách giữa khúc đầu đoạn băng này và khúc cuối của đoạn băng trước đó là toàn bộ quãng thời gian tôi đã quen Julie. Tất cả những giây phút ý nghĩa trong đời tôi chỉ vừa khít trong mấy giây cuộn băng rít lên như thế.
Tôi dừng cuộn băng lại, rồi bật lên.