“Chúng ta làm gì đây?” nàng hỏi như van lơn, khiến tôi choáng váng bởi cặp mắt của nàng, bởi đại dương mênh mông trong đôi đồng tử kia. “Chúng ta còn lại điều gì?”
Tôi không có câu trả lời dành cho nàng. Nhưng tôi nhìn vào mặt nàng, đôi má tái nhợt, đôi môi đỏ đầy sức sống và mềm mại như môi trẻ con, và tôi chợt hiểu ra rằng tôi yêu nàng. Và nếu như nàng là tất cả, thì có lẽ đó đã là câu trả lời đầy đủ.
Tôi kéo Julie vào lòng và hôn nàng.
Tôi áp môi nàng vào môi tôi. Tôi áp người nàng vào người tôi. Nàng vòng tay quanh cổ tôi và ôm chặt lấy tôi. Chúng tôi hôn nhau mà vẫn mở mắt, để nhìn thẳng vào chiều sâu trong mắt nhau. Lưỡi chúng tôi chạm vào nhau, nước miếng hòa lẫn, và Julie cắn môi tôi, làm lớp da toạc rách, rồi hút lấy từng giọt máu rỉ ra. Tôi cảm thấy cái chết trong tôi động đậy, cái chống - sự sống trào tới những tế bào rực sáng của nàng đẻ dập tắt chúng. Nhưng khi nó nhào đến ranh giới, tôi chặn nó lại. Tôi ghìm lấy nó và dúi nó xuống, và tôi cảm thấy Julie cũng làm theo. Chúng tôi giữ chặt lấy con quỷ dữ đang lồng lộn ấy, chúng tôi cùng đè lấy nó bằng tất cả lòng quyết tâm căm giận, và một điều gì đó đã xảy ra. Nó thay đổi. Nó vặn vẹo uốn éo và lộn trái ra. Nó trở thành một cái gì đó hoàn toàn khác. Một cái gì đó mới mẻ.
Một nỗi đau đớn đê mê xuyên suốt qua tôi, và chúng tôi buông nhau ra với một tiếng kêu. Mắt tôi nhức nhối bởi một cơn đau sâu thẳm, buốt nhói. Tôi nhìn Julie và thấy mắt nàng đang lấp lánh. Những bó cơ giật giật, rồi màu mắt nàng thay đổi. Màu da trời xanh biếc chuyển sang màu xám kẽm, rồi run rẩy, chần chừ, lập lòe, và lóe lên thành màu vàng. Một màu vàng rực như ánh mặt trời mà tôi chưa từng thấy ở bất kỳ con người nào. Đúng lúc đó, xoang mũi tôi cũng sực lên một mùi mới, một mùi giống như mùi sự sống của Người Sống nhưng cũng rất khác. Nó tỏa ra từ Julie, nó là mùi của nàng, nhưng cũng là mùi của tôi nữa. Nó tỏa ra từ người chúng tôi như một luồng pheromone[1] bùng nổ, mạnh tới nỗi tôi gần như nhìn được.
[1] Những chất được tiết ra ngoài cơ thể và được sử dụng như những tín hiệu hóa học giữa các cá thể cùng loại (chủ yếu là ở côn trùng).
“Cái gì…” Julie thì thầm, nhìn tôi với khuôn miệng hé mở, “… vừa xảy ra vậy?”
Lần đầu tiên kể từ khi ngồi lên tấm chăn này, tôi mới nhìn quanh và trông thấy cảnh vật xung quanh. Có điều gì đó đã thay đổi ở mặt đất bên dưới. Những đội quân xương khô đã thôi không tiến lên nữa. chúng đứng hoàn toàn bất động. Và mặc dù nhìn từ đây không rõ, nhưng hình như chúng đang nhìn thẳng vào chúng tôi.
“Julie!”
Tiếng gọi phá vỡ sự im lặng siêu phàm. Grigio đang đứng trước ô cửa sập trong khi Rosso trèo lên sau lưng ông, thở hổn hển, mắt dán vào vị tướng. Nora ngồi gục xuống dựa lưng vào ô cửa, tay còng vào thang, đôi chân trần duỗi ra trên nền mái bằng thép lạnh. Khẩu súng của cô nằm dưới chân Grigio, vừa ngoài tầm với.
Quai hàm ông Grigio nghiến chặt như muốn vỡ tung. Khi Julie quay lại và ông nhìn thấy đôi mắt khác thường của nàng, cả người ông gồng lên. Tôi có thể nghe thấy tiếng ông nghiến răng ken két.
“Đại tá Rosso,” ông nói bằng giọng khô khan nhất tôi đã từng nghe. “Bắn chúng đi.”
Mặt ông xám ngoét, da khô khốc, tróc vảy.
“Bố,” Julie nói.
“Bắn chúng đi.”
Rosso nhìn từ Julie sang bố nàng. “Thưa ngài, con bé không bị nhiễm bệnh.”
“Bắn chúng đi.”
“Con bé không hề nhiễm bệnh, thưa ngài. Tôi còn không chắc là thằng bé cũng nhiễm bệnh nữa. Nhìn mắt chúng mà xem, chúng…”
“Chúng đã nhiễm bệnh!” Grigio gầm lên. Tôi có thể thấy dấu răng ông hằn lên đôi môi mím chặt. “Dịch bệnh lan truyền như thế đấy! Đây chính là cách lây bệnh! Không có…” Ông nghẹn lời, như thể quyết định rằng mình nói thế là đủ.
Ông rút súng ra và chĩa vào con gái.
“John! Không!” Rosso túm lấy tay Grigio và giật xuống để cố với lấy khẩu súng. Với sự chính xác do được rèn luyện, Grigio túm lấy cổ tay Rosso bẻ mạnh, rồi thúc mạnh vào sườn ông. Ông già gục xuống trên hai đầu gối.
“Bố, thôi đi!” Julie hét lên, và ông đáp lại bằng cách lên cò súng và lại chĩa nó vào nàng. Mặt ông giờ hoàn toàn trống rỗng, không biểu lộ một chút cảm xúc gì hết. Chỉ còn là lớp da kéo căng trên hộp sọ mà thôi.
Rosso đâm một con dao vào cổ chân ông.
Grigio không kêu lên hay phản ứng lại, nhưng chân ông khuỵu xuống và ông ngã ngửa ra sau. Ông trượt xuống mái dốc, lăn lộn vặn người cố tìm một chỗ bám víu trên nền thép mịn. Khẩu súng trượt qua ông rồi rơi xuống mép mái, và ông cũng suýt nữa rơi theo nó - nhưng ông kịp dừng lại. Tay ông bam vào mép mái trong khi người lơ lửng giữa khoảng không. Tôi chỉ nhìn thấy những ngón tay nổi rõ từng đốt trắng bệch của ông và khuôn mặt căng thẳng vì gắng sức nhưng vẫn đờ đẫn đến rợn người.
Julie chạy lại định giúp ông, nhưng mái quá dốc và nàng cũng bắt đầu trượt chân. Nàng khom người ngồi đó và bất lực nhìn bố mình.
Rồi một điều kỳ lạ xảy ra. Khi bàn tay gầy guộc của ông Grigio bám lấy mép mái, một bàn tay khác vươn lên nắm lấy tay ông. Nhưng những ngón tay này không có thịt. Nó chỉ là xương khô, ố nâu ố vàng vì bụi bặm, thời gian, và lớp máu vương lại từ những vụ giết chóc tự bao giờ. Nó bám lấy mái nhà, giữa chặt lớp thép, và kéo lên một bộ xương nhăn nhở phát tiếng kêu trầm đục.
Nó không đi nhanh. Nó không lao hay nhảy. Nó di chuyển một cách từ tốn, không có cái tốc độ khát máu không ngừng nghỉ đã săn đuổi chúng tôi qua thành phố. Và mặc dù nó đã săn đuổi chúng tôi qua thành phố. Và mặc dù nó đã săn đuổi hết sức điên cuồng, dường như bây giờ nó lại chẳng vội tấn công tôi hay Julie. Nó hầu như còn không để ý đến chúng tôi. Nó cúi xuống đưa móng vuốt ra túm lấy áo Grigio và kéo ông lên gờ mái. Grigio cố đứng dậy, và bộ xương kéo ông đứng thẳng lên.
Grigio và bộ xương nhìn nhau, mặt chỉ cách nhau vài phân.
“Bác Rosy!” Julie thét to. “Bắn nó đi!”
Rosso đang cố lấy lại hơi, ôm lấy cổ tay và xương sườn, không cử động nổi. Ông nhìn Julie như muốn cầu xin nàng tha lỗi, không chỉ vì đã làm nàng thất vọng lần này, mà còn bởi vì tất cả những thất bại trước kia dồn lại. Tất cả những năm tháng ông biết rõ sự tình mà không làm gì cả.
Bộ xương nắm lấy tay Grigio hết sức nhẹ nhàng, dịu dàng, như thể sắp sửa dẫn ông vào một điệu nhảy. Rồi nó kéo ông lại gần, nhìn vào mặt ông, và cắn một miếng lên vai ông.
Julie thét lên, nhưng tất cả những người khác đều sững sờ. Grigio không cưỡng lại. Mắt ông mở to rực lên như đang trong cơn sốt, nhưng mặt ông vẫn chỉ là một tấm mặt nạ vô cảm trong khi sinh vật kia ngấu nghiến nhai ông, cắn từng miếng chậm rãi, thưởng thức gần như với vẻ khoái cảm. Những mẩu thịt rơi qua bộ hàm trống rỗng của nó và rớt xuống mái.
Tôi đứng như trời trồng. Tôi nhìn ông Grigio và bộ xương trong nỗi kinh hoàng mê hoặc, cố hiểu cho ra điều mình đang thấy. Họ đứng đó trên gờ mái, in hình trên nền trời đầy những đám mây hồng và sương mù màu cam rờn rợn, và dưới ánh sáng ma quái ấy, hình hài của cả hai không thể phân biệt được. Chỉ là một bộ xương đang nuốt một bộ xương khác.
Julie lao đến ô cửa sập. Nàng nhặt súng của Nora lên và nhằm vào bộ xương. Đến lúc ấy nó mới nhìn nàng, mới tỏ ra biết đến sự có mặt của chúng tôi, và nó ngửa đầu về phía sau để phát ra một tiếng gào chói tai như tiếng kèn báo ngày tận thế, một thứ âm thanh khàn đục, gỉ sét, và vĩnh viễn lạc điệu.
Julie bắn. Nàng bắn trượt mấy phát đầu tiên, rồi một viên đạn trúng vào sườn bộ xương, phá vỡ xương đòn và một khúc xương hông.
“Julie.”
Nàng dừng lại, khẩu súng run rẩy trong tay. Cha nàng đang trân trân nhìn nàng trong lúc máu chảy hết khỏi người ông. “Bố xin lỗi,” ông khẽ nói.
“Bố, đẩy nó ra đi! Đánh lại nó đi!”
Ông Grigio nhắm mắt lại và nói:
“Không.”
Bộ xương nhăn răng ra với Julie, và ăn họng cha nàng.
Julie hét lên với tất cả nỗi đau khổ và giận dữ trong trái tim non trẻ bị vùi giập của nàng và bắn một phát nữa. Hộp sọ của sinh vật kia biến mất giữa một đám bụi và xương vụn. Với những ngón tay vẫn bám chặt vào vai ông Grigio, nó lảo đảo lùi lại và ngã qua gờ mái.
Ông Grigio ngã theo nó.
Họ rơi cùng nhau, người quấn vào nhau, và thân thể ông Grigio run rẩy quằn quại trong không trung. Ông đang biến chuyển. Lớp thịt còn lại của ông tan ra trong gió, những mẩu khô khốc bay lên như tàn tro, để lại lớp xương trắng nhợt bên dưới, và trong những khúc xương ấy là một lời nhắn mà cuối cùng thì tôi cũng đọc được. Một lời cảnh báo khắc vào từng khúc xương đòn, từng khúc xương cánh tay, từng khúc xương bàn tay đang cố bấu víu:
Đây là dịch bệnh. Đây là lời nguyền. Giờ nó đã mạnh mẽ, đã hằn sâu và thèm khát linh hồn đến nỗi nó không muốn đợi cái chết nữa. Nó sẽ vươn ra đoạt lấy cái nó muốn.
Nhưng hôm nay đã có một quyết định. Chúng tôi sẽ không để mình bị chiếm đoạt. Chúng tôi sẽ giữ chặt lấy điều mình có, cho dù lời nguyền kia có cố sức lôi kéo đến đâu đi chăng nữa.
Trên mặt đất bên dưới, bọn Xương Khô nhìn xác ông Grigio lao xuống đất và vỡ vụn. Chúng nhìn những mẩu còn lại trên nền đất, những mảnh xương trắng, nát nhừ, chẳng còn ý nghĩa gì. Rồi bất thình lình, với những cử động không còn chủ ý hay quyết tâm gì nữa… chúng bỏ đi. Có con đi thành vòng tròn, có một số con khác đâm vào nhau, nhưng dần dần chúng tản đi hết và biến vào giữa những tòa nhà và cây cối. Tôi cảm thấy một nỗi phấn khích nhỏ bé lan vào trong cơ thể. Chúng đã nhận được tín hiệu gì vậy? Giữa bộ xương vừa rơi xuống kia và nguồn năng lượng mới kỳ lạ đang tỏa ra từ mái nhà này như những đợt sóng radio, có phải những hộp sọ trống rỗng của chúng đã nhận được một thông báo? Rằng thời kỳ của chúng đã chấm dứt?
Julie thả rơi khẩu súng. Nàng nhích đến gờ mái và ngồi đó, nhìn xuống đống xương bên dưới. Mắt nàng đỏ ngầu, nhưng vẫn không có một giọt nước mắt. Âm thanh duy nhất trên mái Sân vận động là tiếng gió thổi phần phật vào những lá quốc kỳ và cờ của bang đã rách tả tơi. Rosso nhìn Julie một thoáng rồi tháo còng cho Nora và giúp cô đứng lên. Nora xoa xoa hai cổ tay rồi họ nhìn nhau, một cái nhìn khiến lời nói trở thành không cần thiết nữa.
Julie đi về phía chúng tôi, chân kéo lê, đờ đẫn. Rosso chạm vào vai nàng. “Bác rất xin lỗi, Julie ạ.”
Nàng sụt sịt mũi và nhìn xuống chân. “Cháu không sao.” Giọng nàng cũng như mắt nàng, khô khốc, kiệt quệ. Giờ thì tôi đã có thể, tôi chỉ muốn khóc thay cho nàng. Julie đã là trẻ mồ côi, nhưng nàng còn hơn cả một đứa bé bi thảm mà cái từ ấy gợi nên. Nỗi đau của nàng rồi sẽ bắt kịp nàng và đòi hỏi nàng phải trả giá, nhưng trong lúc này thì nàng vẫn ở bên chúng tôi, còn sống và đứng thẳng.
Rosso đưa bàn tay trái gạt tóc nàng, vén một lọn tóc ra sau tai. Nàng áp lòng bàn tay chai sần của ông vào má và thoáng mỉm cười.
Rosso quay sang tôi. Tôi có thể thấy mắt ông ta đảo sang phải rồi sang trái, quan sát đồng tử của tôi. “Cậu là Archie phải không?”
“Chỉ là R thôi ạ.”
Ông chìa tay ra với tôi, và sau một thoáng bối rối, tôi cũng chìa tay ra. Rosso bắt tay tôi, nhăn mặt chịu cơn đau ở cổ tay. “Tôi không biết vì sao,” ông nói, “nhưng tôi rất mừng được quen cậu, R ạ.”
Ông quay lại chỗ cửa sập.
“Liệu mai chúng ta có họp cộng đồng không ạ?” Nora hỏi.
“Bác sẽ tuyên bố ngay khi xuống khỏi cái thang này. Chúng ta có một số thay đổi cấp bách cần được bàn bạc.” Ông nhìn đội quân xương khô đang lùi dần. “Và bác rất muốn nghe các cháu giải thích xem chuyện quái quỷ gì đã xảy ra hôm nay.”
“Chúng cháu cũng có một vài giả thiết đấy ạ,” Nora nói.
Rosso trèo xuống thang, cẩn thận chỉ dùng tay trái. Nora nhìn Julie. Julie gật đầu. Nora mỉm cười với nàng, rồi với tôi, và biến qua ô cửa sập.
Chúng tôi chỉ còn lại một mình trên mái. Julie nheo mắt nhìn tôi, quan sát tôi như thể nàng chưa bao giờ thấy tôi vậy. Rồi mắt nàng mở to, và nàng hít vào một hơi. “Ôi trời ơi,” nàng nói. “R, anh đang…” Nàng với tay lên bóc miếng băng dính ra khỏi trán tôi. Nàng chạm vào chỗ nàng đã đâm tôi tự thuở nào, vào cái ngày chúng tôi gặp nhau. Ngón tay nàng đỏ thắm. “Anh đang chảy máu!”
Nàng vừa dứt lời thì tôi cũng nhận ra nhiều điều. Những cơn đau nhói khắp người. Tôi đang đau. Tôi sờ soạn người mình và thấy quần áo đang đầy máu. Không phải thứ máu đen sì nhớp nháp đã tắc trong mạch tôi. Mà là thứ máu tươi, đỏ rực rỡ.
Julie áp tay vào ngực tôi mạnh đến nỗi như đánh bằng võ kungfu. Dưới sức ép của tay nàng, tôi đã cảm nhận được. Một chuyển động sâu thẳm trong tôi. Một nhịp đập.
“R!” Julie gần như ré lên. “Em nghĩ là… anh đang sống!”
Nàng nhảy xổ vào tôi, ôm lấy tôi và ghì chặt đến nỗi tôi cảm thấy những khúc xương đang lành dở kêu lên răng rắc. Nàng lại hôn tôi, nếm vị máu mằn mặn trên môi dưới của tôi. Hơi ấm của nàng truyền khắp người tôi, và tôi cảm thấy một luồng cảm giác mới khi rốt cuộc thì hơi ấm của chính tôi cũng đáp lại.
Julie đột nhiên đứng yên. Nàng buông tôi ra và lùi lại một chút, liếc nhìn xuống dưới. Một nụ cười kinh ngạc hiện lên trên mặt nàng.
Tôi cũng nhìn xuống, nhưng thực ra là chẳng cần. Tôi đã cảm thấy nó. Dòng máu nóng hổi của tôi đang truyền đi khắp cơ thể, tràn vào các mao mạch và thắp sáng tế bào như pháo hoa ngày mùng Bốn tháng Bảy. Tôi có thể cảm thấy mỗi nguyên tử trong da thịt mình đều đang ngất ngây vui sướng, đầy nỗi biết ơn vì đã được trao một cơ hội thứ hai mà chúng không hề mong đợi. Cơ hội để bắt đầu lại từ đầu, để sống cho đúng, để yêu cho đúng, để cháy rực lên thành một đám mây nóng bỏng và không bao giờ bị chôn vùi trong bùn nữa. Tôi hôn Julie để giấu việc tôi đang đỏ mặt. Mặt tôi đỏ bừng và nóng đến độ có thể làm tan cả thép.
Được rồi, thây ma, một giọng nói trong đầu tôi lên tiếng, và tôi lại thấy bụng mình giần giật, như một cú huých nhẹ nhàng chứ không còn là một cú đá nữa. Tôi sẽ đi đây. Tôi rất tiếc vì đã không có mặt trong trận chiến của anh; nhưng tôi cũng phải chiến đấu cho bản thân mình. Nhưng chúng ta đã thắng, phải không? Tôi có thể cảm nhận được. Chân chúng ta run rẩy như mặt đất đang tăng tốc, vùn vụt phóng tới những quỹ đạo chưa từng ai biết đến. Sợ quá phải không? Nhưng có điều kỳ diệu nào mà lại không bắt đầu một cách đáng sợ? Tôi không biết trang tiếp theo của anh sẽ ra sao, nhưng với tôi thì tôi xin thề là tôi sẽ không làm hỏng nó. Tôi sẽ không ngáp dài mà bỏ dở giữa câu và cất nó vào ngăn kéo. Lần này thì không. Hãy bóc bỏ những tấm chăn len bụi bặm của sự thờ ơ và ác cảm và sự lạnh nhạt yếm thế. Tôi muốn cuộc sống với tất cả những cái sống sượng dính nháp ngu ngốc của nó.
Được rồi.
Được rồi, R.
Nó đến rồi đây.
Bước ba: Sống
Nora Greene đang đứng trên quảng trường bên cổng chính của Sân vận động, cạnh Tướng Rosso, đối diện với một đám đông khổng lồ. Cô thấy hơi lo lắng. Cô ước mình đã làm một hơi thuốc trước khi ra đây, nhưng hút thuốc lúc này có vẻ không hợp chút nào. Cô muốn đầu óc mình tỉnh táo cho dịp trọng đại này.
“Được rồi, các bạn,” Rosso nói, chất giọng khàn khàn của ông cố căng ra để những người đứng ở cuối, mãi tận những con phố ở đằng xa, cũng nghe được. “Chúng tôi đã hết sức chuẩn bị tinh thần cho các bạn, nhưng tôi biết việc này vẫn có thể hơi… đáng ngại một chút.”
Không phải tất cả mọi người trong Sân vận động đều đến đây, nhưng những ai muốn đến đều có mặt đầy đủ. Những người còn lại đang trốn sau những cánh cửa đóng chặt với khẩu súng giương cao, nhưng Nora hy vọng rốt cuộc họ cũng sẽ bước ra để xem đang có chuyện gì.
“Cho phép tôi nhắc lại một lần nữa là các bạn không gặp nguy hiểm gì hết,” Rosso nói tiếp. “Tình thế đã thay đổi.”
Rosso nhìn Nora và gật đầu.
Lính canh mở cổng ra, và Nora hét lên, “Vào đi, các bạn!”
Từng người một, vẫn còn vụng về nhưng đã đi thẳng thớm hơn phần nào, họ bước vào Sân vận động. Những Người Chết Dở. Những Người Sắp Sống. Đám đông thì thào lo lắng và cụm lại trong khi đám Xác Xống xếp thành một hàng trước cổng.
“Đây chỉ là một số ít bọn họ mà thôi,” Nora nói, bước tới trước để lên tiếng với toàn thể mọi người. “Ngoài kia họ đang đông lên mỗi ngày. Họ đang cố tìm cách tự chữa lành cho bản thân. Họ đang cố tìm cách chữa lành dịch bệnh, và chúng ta cần làm hết sức mình để giúp họ.”
“Như thế nào?” một người hỏi.
“Chúng ta sẽ nghiên cứu nó,” Rosso nói. “Quan sát nó kỹ càng, nhào trộn và nắn bóp nó cho đến khi câu trả lời hiện ra. Tôi biết nghe có vẻ thật mơ hồ, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu đó.”
“Hãy nói chuyện với họ,” Nora nói. “Tôi biết mới đầu sẽ khá là sợ, nhưng hãy nhìn vào mắt họ. Cho họ biết tên bạn và hỏi tên họ.”
“Đừng lo,” Rosso nói. “Mỗi người sẽ có một lính gác đi kèm mọi lúc mọi nơi, nhưng các bạn hãy cố tin rằng họ sẽ không làm hại các bạn. Chúng ta phải sẵn sàng xem xét khả năng việc này có thể thành công.”
Nora lùi lại cho đám đông tiến lên. Họ tiến lên một cách thận trọng. họ bước tới chỗ đám Xác Sống trong khi những người lính gác cảnh giác giương cao súng. Về phần mình, những Xác Sống đang đối mặt với tình huống khó xử này với vẻ kiên nhẫn đáng khâm phục. Họ cứ đứng đó đợi, một số gắng mỉm cười thân thiện trong lúc không để ý tới những đốm laser đang chĩa vào trán họ. Nora cũng hòa mình vào đám đông, bắt tréo ngón tay sau lưng và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất.
“Xin chào.”
Cô quay sang phải. Một Xác Sống đang quan sát cô. Anh bước tới trước và mỉm cười với cô. Môi anh mỏng và hơi rách bên dưới bộ râu vàng tỉa ngắn, nhưng có vẻ như chúng, cùng với vô số vết thương khác trên người anh, đang lành dần.
“Ờ… xin chào…” Nora nói, liếc nhìn chiều cao đáng kể của Xác Sống nọ. Chắc là anh phải cao đến một mét chín mươi lăm. Anh có vẻ hơi nặng nề, nhưng đôi cánh tay rắn chắc như muốn xé rách cả chiếc áo tả tơi. Cái đầu trọc nhẵn của anh sáng lên như một viên ngọc trai xám.
“Tôi là Nora,” cô nói, giật giật một lọn tóc quăn của mình.
“Tên tôi là Mm…arcus,” anh nói, giọng trầm ấm mượt như nhung. “Và cô là… cô gái xinh đẹp nhất… mà tôi đã từng gặp.”
Nora bật cười khúc khích và xoắn những lọn tóc nhanh hơn. “Ôi trời.” Cô chìa tay ra. “Rất vui được gặp anh… Marcus.”
* * *
Thằng bé đang ở sân bay. Các hành lang tối đen, nhưng nó không sợ. Nó chạy qua khu ăn uống chìm trong bóng tối, chạy qua những biển hiệu không được thắp sáng và những món ăn thừa mốc meo, bia uống dở và mì Thái nguội ngắt. Nó nghe thấy tiếng một bộ xương đơn độc lách cách ở một hành lang gần đó và vội đổi hướng, vòng qua một ngã rẽ mà không chậm bước. Bọn Xương Khô bây giờ rất chậm chạp. Ngay khi bố và mẹ kế của thằng bé quay về đây, một điều gì đó đã xảy ra với chúng. Giờ chúng đi lảo đảo vô định như ong bay trong mùa đông. Chúng đứng im lìm, như những cỗ máy lỗi thời đang chờ được thay thế.
Thằng bé đang bê một cái hộp. Cái hộp giờ đã trống rỗng, nhưng tay nó rất mỏi. Nó chạy vào lối đi nối liền hai hành lang và đứng lại để dò đường.
“Anh Alex!”
Em gái thằng bé chạy lại sau lưng nó. Con bé cũng đang ôm một cái hộp. Khắp tay con bé là những mẩu băng dính.
“Xong hết chưa Joan?”
“Xong rồi!”
“Được rồi. Mình đi lấy thêm đi.”
Hai anh em chạy xuôi hành lang. Khi chúng đến chỗ băng chuyền, điện bật lên và dải băng chuyển động dưới chân chúng. Thằng bé và con bé chạy chân trần nhanh như gió, lao xuống hành lang như một cặp hươu trong khi ánh nắng buổi sớm tràn vào sau lưng chúng. Ở cuối hành lang, chúng suýt nữa đâm sầm vào một đám trẻ con khác, tất cả đều bê hộp.
“Xong hết rồi,” bọn trẻ nói.
“Được,” Alex nói, và chúng cùng nhau chạy. Nhiều đứa trong bọn vẫn còn mặc quần áo rách tả tơi. Một vài đứa vẫn còn xám ngoét. Nhưng phần lớn đã sống lại. Bọn trẻ thiếu cách lập trình bản năng của người lớn. Chúng phải được dạy làm tất cả mọi thứ. Cách giết sao cho nhanh, cách đi lang thang vô định, cách lảo đảo người và rên rỉ và thối rữa sao cho đúng. Nhưng giờ các bài học đã ngưng. Không ai dạy chúng nữa, và như những củ cây lưu niên khô quắt nằm đợi trong lòng đất qua mùa đông, giờ chúng đang tự mình bừng lên sống dậy.
Ánh đèn neon lập lòe kêu xè xè, và có tiếng kim chạy trên đĩa hát vang lên từ những chiếc loa trên đầu. Một đứa nào đó đã bạo gan chiếm lấy bộ loa phóng thanh của sân bay. Tiếng đàn dây ngọt ngào êm dịu tràn ngập bầu không khí u ám, và giọng hát của Francis Albert Sinatra vang vọng cô đơn khắp những dãy hành lang trống trải.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… khi bầu trời xanh thẳm như thiên đường…
Bộ loa bụi bặm kêu rè rè lục đục, rồi nổ lốp bốp và bóp méo tiếng. Đĩa hát bị nhảy. Nhưng đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu năm bầu không khí ứ trệ ở đây mới được khuấy động bởi tiếng nhạc.
Khi bọn trẻ chạy ra Cổng Đến để lấy thêm hộp và băng dính mới, chúng đi qua một dáng người xanh xám đang lê bước dọc hành lang. Xác Sống ấy nhìn đám trẻ Người Sống khi chúng chạy qua, nhưng không đuổi theo. Dạo này cô ta ăn không thấy ngon nữa. Cô ta không còn cảm thấy cơn đói như trước kia. Cô ta ngắm lũ trẻ biến mất sau khúc quanh, rồi đi tiếp đường của mình. Cô ta cũng không biết rõ mình đang đi đâu, nhưng ở cuối hành lang này có một quầng sáng trắng xóa trông thật dễ chịu. Cô ta lê bước về phía đó.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… khi vầng trăng khiến ta bừng sáng… Ta đã yêu, ta đã yêu… và ta muốn cả thế giới đều biết…
Cô ta bước vào phòng đợi ở Cổng 12, tràn ngập ánh mặt trời buổi sáng rực rỡ. Ở đây có cái gì đó khác trước. Trên những cửa sổ cao từ trần đến sàn nhìn ra đường băng, ai đó đã dán những tấm ảnh nhỏ lên lớp kính. Chúng được dán cạnh nhau và chồng lên nhau chừng năm hàng, tạo thành một dãy kéo dài đến tận hết phòng.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… và nó chỉ xảy ra với một vài người. Nhưng khi nó xảy ra… phải, khi đó…
Xác Sống nọ thận trọng đến gần những bức ảnh. Cô ta đứng trước chúng và trố mắt nhìn với cái miệng hé mở.
Một cô bé trèo lên cây táo. Một chú bé xịt nước vào anh trai bằng vòi phun. Một người phụ nữ chơi đàn xen lô. Một cặp vợ chồng già âu yếm nắm tay. Một chú bé với một con chó. Một chú nhóc đang khóc nhè. Một em bé sơ sinh đang ngủ say. Và một bức ảnh cũ hơn, nhàu nhĩ, mờ nhạt: một gia đình ở công viên nước. Người bố, người mẹ, và một cô con gái tóc vàng, mỉm cười nheo mắt dưới ánh mặt trời.
Xác Sống nó nhìn bức bích báo khổng lồ đầy bí hiểm ấy. Mặt trời lấp lánh trên biển tên gắn ở ngực cô ta, sáng đến nỗi làm cô ta chói mắt. Cô ta đứng đó hàng giờ bất động. Rồi cô ta hít một hơi thật sâu. Hơi thở đầu tiên sau bao nhiêu tháng ròng. Những ngón tay rũ xuống bên mình cô ta bắt đầu động đậy theo nhịp nhạc.
* * *
“R này,”
Tôi mở mắt ra. Tôi đang nằm ngửa, tay vòng sau đầu, nhìn lên một bầu trời mùa hạ hoàn hảo. “Gì cơ?”
Julie cựa mình trên tấm chăn đó, nằm dịch vào gần tôi hơn. “Anh có nghĩ là rồi một ngày mình sẽ lại thấy máy bay trên trời không?”
Tôi nghĩ một lát. Tôi ngắm những phân tử nhảy nhót trong tròng mắt mình. “Có.”
“Thật à?”
“Có lẽ bọn mình thì không. Nhưng anh nghĩ bọn trẻ con sẽ thấy.”
“Anh nghĩ bọn mình có thể đẩy nó xa tới đâu?”
“Đẩy cái gì cơ?”
“Xây dựng lại mọi thứ ấy. Cho dù mình có thể xóa sạch bệnh dịch… anh có nghĩ là chúng ta có thể đưa mọi việc trở lại như cũ được không?”
Một con sáo đơn độc chao liệng ngang qua bầu trời xa xăm, và tôi tưởng tượng ra một cái đuôi khói máy bay trắng xóa hiện ra phía sau nó, như chữ ký bay bướm trên một bức thư tình. “Anh mong là không,” tôi đáp.
Chúng tôi im lặng một lát. Chúng tôi đang nằm trên cỏ. Đằng sau chúng tôi, chiếc Mercedes cũ kỹ méo mó đang kiên nhẫn chờ đợi, thì thầm với chúng tôi bằng những tiếng tanh tanh, xèo xèo, trong lúc động cơ của nó nguội dần. Julie đặt tên cho nó là Mercey. Người phụ nữ đang nằm cạnh tôi đây là ai mà tràn đầy sinh lực đến độ nàng có thể tăng sự sống cho một cái xe?
“R này,” nàng nói.
“Sao.”
“Anh đã nhớ ra tên mình chưa?”
Trên sườn đồi này, bên rìa một xa lộ nứt vỡ, những con côn trùng và chim muông trong cỏ đang tạo nên một bản sao thu nhỏ của tiếng xe cộ. Tôi lắng nghe bản giao hưởng hoài cổ của chúng, và lắc đầu. “Chưa.”
“Anh biết không, anh có thể tự đặt tên cho mình mà. Anh chọn một tên đi. Tên gì cũng được.”
Tôi ngẫm nghĩ. Tôi lướt qua bản danh mục những cái tên trong đầu mình. Những nguyên từ, ngôn ngữ và ý nghĩa phức tạp đã truyền theo văn hóa truyền thống của bao thế hệ. Nhưng tôi là một vật mới. Một tờ giấy trắng. Tôi có thể chọn bất kỳ lịch sử nào để xây dựng tương lai của mình, và tôi chọn một lịch sử mới.
“Tên anh là R,” tôi khẽ nhún vai nói.
Nàng quay đầu lại nhìn tôi. Tôi có thể cảm thấy cặp mắt vàng rực như ánh mặt trời của nàng ở bên mặt mình, nhưng đang muốn xuyên vào tai tôi để nghiền ngẫm não tôi. “Anh không muốn quay về cuộc đời cũ của mình ư?”
“Không.” Tôi ngồi dậy, vòng tay ôm đầu gối và nhìn xuống thung lũng bên dưới. “Anh muốn cuộc đời này.”
Julie mỉm cười. Nàng ngồi dậy cùng tôi và quay mặt về hướng tôi đang nhìn.
Sân bay trải dài dưới chân chúng tôi như một cái găng tay bị ném xuống. Một lời thách thức. Không có sự thay đổi toàn cầu nào sau khi những bộ xương đầu hàng. Một số người trong chúng tôi đã quay về với sự sống, một số vẫn là Người Chết. Một số còn nán lại ở sân bay này, hoặc ở các thành phố khác, các lục địa khác, lang thang, chờ đợi. Nhưng để sửa chữa là một vấn đề bao trùm cả thế giới thì sân bay là một điểm khởi đầu tốt.
Chúng tôi có những kế hoạch lớn. Đúng thế. Chúng tôi vẫn đang thăm dò trong bóng tối, nhưng ít nhất thì chúng tôi cũng đã bắt đầu. Giờ ai cũng phải làm việc; Julie và tôi chỉ dừng lại một phút để ngắm cảnh vì hôm nay là một ngày đẹp trời. Trời xanh. Cỏ xanh. Mặt trời tỏa hơi ấm trên da chúng tôi. Chúng tôi mỉm cười, bởi vì chúng tôi sẽ cứu thế giới bằng cách này. Chúng tôi sẽ không để Trái đất trở thành một nấm mồ, một ngôi mộ tập thể xoay tròn trong vũ trụ. Chúng tôi sẽ tự khai quật chính mình. Chúng tôi sẽ chống lại lời nguyền và phá vỡ nó. Chúng tôi sẽ khóc và đổ máu và ham muốn và yêu, và chúng tôi sẽ chữa lành cả cái chết. Chính chúng tôi sẽ là phương thuốc. Bởi vì chúng tôi muốn thế.
“Chúng ta làm gì đây?” nàng hỏi như van lơn, khiến tôi choáng váng bởi cặp mắt của nàng, bởi đại dương mênh mông trong đôi đồng tử kia. “Chúng ta còn lại điều gì?”
Tôi không có câu trả lời dành cho nàng. Nhưng tôi nhìn vào mặt nàng, đôi má tái nhợt, đôi môi đỏ đầy sức sống và mềm mại như môi trẻ con, và tôi chợt hiểu ra rằng tôi yêu nàng. Và nếu như nàng là tất cả, thì có lẽ đó đã là câu trả lời đầy đủ.
Tôi kéo Julie vào lòng và hôn nàng.
Tôi áp môi nàng vào môi tôi. Tôi áp người nàng vào người tôi. Nàng vòng tay quanh cổ tôi và ôm chặt lấy tôi. Chúng tôi hôn nhau mà vẫn mở mắt, để nhìn thẳng vào chiều sâu trong mắt nhau. Lưỡi chúng tôi chạm vào nhau, nước miếng hòa lẫn, và Julie cắn môi tôi, làm lớp da toạc rách, rồi hút lấy từng giọt máu rỉ ra. Tôi cảm thấy cái chết trong tôi động đậy, cái chống - sự sống trào tới những tế bào rực sáng của nàng đẻ dập tắt chúng. Nhưng khi nó nhào đến ranh giới, tôi chặn nó lại. Tôi ghìm lấy nó và dúi nó xuống, và tôi cảm thấy Julie cũng làm theo. Chúng tôi giữ chặt lấy con quỷ dữ đang lồng lộn ấy, chúng tôi cùng đè lấy nó bằng tất cả lòng quyết tâm căm giận, và một điều gì đó đã xảy ra. Nó thay đổi. Nó vặn vẹo uốn éo và lộn trái ra. Nó trở thành một cái gì đó hoàn toàn khác. Một cái gì đó mới mẻ.
Một nỗi đau đớn đê mê xuyên suốt qua tôi, và chúng tôi buông nhau ra với một tiếng kêu. Mắt tôi nhức nhối bởi một cơn đau sâu thẳm, buốt nhói. Tôi nhìn Julie và thấy mắt nàng đang lấp lánh. Những bó cơ giật giật, rồi màu mắt nàng thay đổi. Màu da trời xanh biếc chuyển sang màu xám kẽm, rồi run rẩy, chần chừ, lập lòe, và lóe lên thành màu vàng. Một màu vàng rực như ánh mặt trời mà tôi chưa từng thấy ở bất kỳ con người nào. Đúng lúc đó, xoang mũi tôi cũng sực lên một mùi mới, một mùi giống như mùi sự sống của Người Sống nhưng cũng rất khác. Nó tỏa ra từ Julie, nó là mùi của nàng, nhưng cũng là mùi của tôi nữa. Nó tỏa ra từ người chúng tôi như một luồng pheromone[] bùng nổ, mạnh tới nỗi tôi gần như nhìn được.
[] Những chất được tiết ra ngoài cơ thể và được sử dụng như những tín hiệu hóa học giữa các cá thể cùng loại (chủ yếu là ở côn trùng).
“Cái gì…” Julie thì thầm, nhìn tôi với khuôn miệng hé mở, “… vừa xảy ra vậy?”
Lần đầu tiên kể từ khi ngồi lên tấm chăn này, tôi mới nhìn quanh và trông thấy cảnh vật xung quanh. Có điều gì đó đã thay đổi ở mặt đất bên dưới. Những đội quân xương khô đã thôi không tiến lên nữa. chúng đứng hoàn toàn bất động. Và mặc dù nhìn từ đây không rõ, nhưng hình như chúng đang nhìn thẳng vào chúng tôi.
“Julie!”
Tiếng gọi phá vỡ sự im lặng siêu phàm. Grigio đang đứng trước ô cửa sập trong khi Rosso trèo lên sau lưng ông, thở hổn hển, mắt dán vào vị tướng. Nora ngồi gục xuống dựa lưng vào ô cửa, tay còng vào thang, đôi chân trần duỗi ra trên nền mái bằng thép lạnh. Khẩu súng của cô nằm dưới chân Grigio, vừa ngoài tầm với.
Quai hàm ông Grigio nghiến chặt như muốn vỡ tung. Khi Julie quay lại và ông nhìn thấy đôi mắt khác thường của nàng, cả người ông gồng lên. Tôi có thể nghe thấy tiếng ông nghiến răng ken két.
“Đại tá Rosso,” ông nói bằng giọng khô khan nhất tôi đã từng nghe. “Bắn chúng đi.”
Mặt ông xám ngoét, da khô khốc, tróc vảy.
“Bố,” Julie nói.
“Bắn chúng đi.”
Rosso nhìn từ Julie sang bố nàng. “Thưa ngài, con bé không bị nhiễm bệnh.”
“Bắn chúng đi.”
“Con bé không hề nhiễm bệnh, thưa ngài. Tôi còn không chắc là thằng bé cũng nhiễm bệnh nữa. Nhìn mắt chúng mà xem, chúng…”
“Chúng đã nhiễm bệnh!” Grigio gầm lên. Tôi có thể thấy dấu răng ông hằn lên đôi môi mím chặt. “Dịch bệnh lan truyền như thế đấy! Đây chính là cách lây bệnh! Không có…” Ông nghẹn lời, như thể quyết định rằng mình nói thế là đủ.
Ông rút súng ra và chĩa vào con gái.
“John! Không!” Rosso túm lấy tay Grigio và giật xuống để cố với lấy khẩu súng. Với sự chính xác do được rèn luyện, Grigio túm lấy cổ tay Rosso bẻ mạnh, rồi thúc mạnh vào sườn ông. Ông già gục xuống trên hai đầu gối.
“Bố, thôi đi!” Julie hét lên, và ông đáp lại bằng cách lên cò súng và lại chĩa nó vào nàng. Mặt ông giờ hoàn toàn trống rỗng, không biểu lộ một chút cảm xúc gì hết. Chỉ còn là lớp da kéo căng trên hộp sọ mà thôi.
Rosso đâm một con dao vào cổ chân ông.
Grigio không kêu lên hay phản ứng lại, nhưng chân ông khuỵu xuống và ông ngã ngửa ra sau. Ông trượt xuống mái dốc, lăn lộn vặn người cố tìm một chỗ bám víu trên nền thép mịn. Khẩu súng trượt qua ông rồi rơi xuống mép mái, và ông cũng suýt nữa rơi theo nó - nhưng ông kịp dừng lại. Tay ông bam vào mép mái trong khi người lơ lửng giữa khoảng không. Tôi chỉ nhìn thấy những ngón tay nổi rõ từng đốt trắng bệch của ông và khuôn mặt căng thẳng vì gắng sức nhưng vẫn đờ đẫn đến rợn người.
Julie chạy lại định giúp ông, nhưng mái quá dốc và nàng cũng bắt đầu trượt chân. Nàng khom người ngồi đó và bất lực nhìn bố mình.
Rồi một điều kỳ lạ xảy ra. Khi bàn tay gầy guộc của ông Grigio bám lấy mép mái, một bàn tay khác vươn lên nắm lấy tay ông. Nhưng những ngón tay này không có thịt. Nó chỉ là xương khô, ố nâu ố vàng vì bụi bặm, thời gian, và lớp máu vương lại từ những vụ giết chóc tự bao giờ. Nó bám lấy mái nhà, giữa chặt lớp thép, và kéo lên một bộ xương nhăn nhở phát tiếng kêu trầm đục.
Nó không đi nhanh. Nó không lao hay nhảy. Nó di chuyển một cách từ tốn, không có cái tốc độ khát máu không ngừng nghỉ đã săn đuổi chúng tôi qua thành phố. Và mặc dù nó đã săn đuổi chúng tôi qua thành phố. Và mặc dù nó đã săn đuổi hết sức điên cuồng, dường như bây giờ nó lại chẳng vội tấn công tôi hay Julie. Nó hầu như còn không để ý đến chúng tôi. Nó cúi xuống đưa móng vuốt ra túm lấy áo Grigio và kéo ông lên gờ mái. Grigio cố đứng dậy, và bộ xương kéo ông đứng thẳng lên.
Grigio và bộ xương nhìn nhau, mặt chỉ cách nhau vài phân.
“Bác Rosy!” Julie thét to. “Bắn nó đi!”
Rosso đang cố lấy lại hơi, ôm lấy cổ tay và xương sườn, không cử động nổi. Ông nhìn Julie như muốn cầu xin nàng tha lỗi, không chỉ vì đã làm nàng thất vọng lần này, mà còn bởi vì tất cả những thất bại trước kia dồn lại. Tất cả những năm tháng ông biết rõ sự tình mà không làm gì cả.
Bộ xương nắm lấy tay Grigio hết sức nhẹ nhàng, dịu dàng, như thể sắp sửa dẫn ông vào một điệu nhảy. Rồi nó kéo ông lại gần, nhìn vào mặt ông, và cắn một miếng lên vai ông.
Julie thét lên, nhưng tất cả những người khác đều sững sờ. Grigio không cưỡng lại. Mắt ông mở to rực lên như đang trong cơn sốt, nhưng mặt ông vẫn chỉ là một tấm mặt nạ vô cảm trong khi sinh vật kia ngấu nghiến nhai ông, cắn từng miếng chậm rãi, thưởng thức gần như với vẻ khoái cảm. Những mẩu thịt rơi qua bộ hàm trống rỗng của nó và rớt xuống mái.
Tôi đứng như trời trồng. Tôi nhìn ông Grigio và bộ xương trong nỗi kinh hoàng mê hoặc, cố hiểu cho ra điều mình đang thấy. Họ đứng đó trên gờ mái, in hình trên nền trời đầy những đám mây hồng và sương mù màu cam rờn rợn, và dưới ánh sáng ma quái ấy, hình hài của cả hai không thể phân biệt được. Chỉ là một bộ xương đang nuốt một bộ xương khác.
Julie lao đến ô cửa sập. Nàng nhặt súng của Nora lên và nhằm vào bộ xương. Đến lúc ấy nó mới nhìn nàng, mới tỏ ra biết đến sự có mặt của chúng tôi, và nó ngửa đầu về phía sau để phát ra một tiếng gào chói tai như tiếng kèn báo ngày tận thế, một thứ âm thanh khàn đục, gỉ sét, và vĩnh viễn lạc điệu.
Julie bắn. Nàng bắn trượt mấy phát đầu tiên, rồi một viên đạn trúng vào sườn bộ xương, phá vỡ xương đòn và một khúc xương hông.
“Julie.”
Nàng dừng lại, khẩu súng run rẩy trong tay. Cha nàng đang trân trân nhìn nàng trong lúc máu chảy hết khỏi người ông. “Bố xin lỗi,” ông khẽ nói.
“Bố, đẩy nó ra đi! Đánh lại nó đi!”
Ông Grigio nhắm mắt lại và nói:
“Không.”
Bộ xương nhăn răng ra với Julie, và ăn họng cha nàng.
Julie hét lên với tất cả nỗi đau khổ và giận dữ trong trái tim non trẻ bị vùi giập của nàng và bắn một phát nữa. Hộp sọ của sinh vật kia biến mất giữa một đám bụi và xương vụn. Với những ngón tay vẫn bám chặt vào vai ông Grigio, nó lảo đảo lùi lại và ngã qua gờ mái.
Ông Grigio ngã theo nó.
Họ rơi cùng nhau, người quấn vào nhau, và thân thể ông Grigio run rẩy quằn quại trong không trung. Ông đang biến chuyển. Lớp thịt còn lại của ông tan ra trong gió, những mẩu khô khốc bay lên như tàn tro, để lại lớp xương trắng nhợt bên dưới, và trong những khúc xương ấy là một lời nhắn mà cuối cùng thì tôi cũng đọc được. Một lời cảnh báo khắc vào từng khúc xương đòn, từng khúc xương cánh tay, từng khúc xương bàn tay đang cố bấu víu:
Đây là dịch bệnh. Đây là lời nguyền. Giờ nó đã mạnh mẽ, đã hằn sâu và thèm khát linh hồn đến nỗi nó không muốn đợi cái chết nữa. Nó sẽ vươn ra đoạt lấy cái nó muốn.
Nhưng hôm nay đã có một quyết định. Chúng tôi sẽ không để mình bị chiếm đoạt. Chúng tôi sẽ giữ chặt lấy điều mình có, cho dù lời nguyền kia có cố sức lôi kéo đến đâu đi chăng nữa.
Trên mặt đất bên dưới, bọn Xương Khô nhìn xác ông Grigio lao xuống đất và vỡ vụn. Chúng nhìn những mẩu còn lại trên nền đất, những mảnh xương trắng, nát nhừ, chẳng còn ý nghĩa gì. Rồi bất thình lình, với những cử động không còn chủ ý hay quyết tâm gì nữa… chúng bỏ đi. Có con đi thành vòng tròn, có một số con khác đâm vào nhau, nhưng dần dần chúng tản đi hết và biến vào giữa những tòa nhà và cây cối. Tôi cảm thấy một nỗi phấn khích nhỏ bé lan vào trong cơ thể. Chúng đã nhận được tín hiệu gì vậy? Giữa bộ xương vừa rơi xuống kia và nguồn năng lượng mới kỳ lạ đang tỏa ra từ mái nhà này như những đợt sóng radio, có phải những hộp sọ trống rỗng của chúng đã nhận được một thông báo? Rằng thời kỳ của chúng đã chấm dứt?
Julie thả rơi khẩu súng. Nàng nhích đến gờ mái và ngồi đó, nhìn xuống đống xương bên dưới. Mắt nàng đỏ ngầu, nhưng vẫn không có một giọt nước mắt. Âm thanh duy nhất trên mái Sân vận động là tiếng gió thổi phần phật vào những lá quốc kỳ và cờ của bang đã rách tả tơi. Rosso nhìn Julie một thoáng rồi tháo còng cho Nora và giúp cô đứng lên. Nora xoa xoa hai cổ tay rồi họ nhìn nhau, một cái nhìn khiến lời nói trở thành không cần thiết nữa.
Julie đi về phía chúng tôi, chân kéo lê, đờ đẫn. Rosso chạm vào vai nàng. “Bác rất xin lỗi, Julie ạ.”
Nàng sụt sịt mũi và nhìn xuống chân. “Cháu không sao.” Giọng nàng cũng như mắt nàng, khô khốc, kiệt quệ. Giờ thì tôi đã có thể, tôi chỉ muốn khóc thay cho nàng. Julie đã là trẻ mồ côi, nhưng nàng còn hơn cả một đứa bé bi thảm mà cái từ ấy gợi nên. Nỗi đau của nàng rồi sẽ bắt kịp nàng và đòi hỏi nàng phải trả giá, nhưng trong lúc này thì nàng vẫn ở bên chúng tôi, còn sống và đứng thẳng.
Rosso đưa bàn tay trái gạt tóc nàng, vén một lọn tóc ra sau tai. Nàng áp lòng bàn tay chai sần của ông vào má và thoáng mỉm cười.
Rosso quay sang tôi. Tôi có thể thấy mắt ông ta đảo sang phải rồi sang trái, quan sát đồng tử của tôi. “Cậu là Archie phải không?”
“Chỉ là R thôi ạ.”
Ông chìa tay ra với tôi, và sau một thoáng bối rối, tôi cũng chìa tay ra. Rosso bắt tay tôi, nhăn mặt chịu cơn đau ở cổ tay. “Tôi không biết vì sao,” ông nói, “nhưng tôi rất mừng được quen cậu, R ạ.”
Ông quay lại chỗ cửa sập.
“Liệu mai chúng ta có họp cộng đồng không ạ?” Nora hỏi.
“Bác sẽ tuyên bố ngay khi xuống khỏi cái thang này. Chúng ta có một số thay đổi cấp bách cần được bàn bạc.” Ông nhìn đội quân xương khô đang lùi dần. “Và bác rất muốn nghe các cháu giải thích xem chuyện quái quỷ gì đã xảy ra hôm nay.”
“Chúng cháu cũng có một vài giả thiết đấy ạ,” Nora nói.
Rosso trèo xuống thang, cẩn thận chỉ dùng tay trái. Nora nhìn Julie. Julie gật đầu. Nora mỉm cười với nàng, rồi với tôi, và biến qua ô cửa sập.
Chúng tôi chỉ còn lại một mình trên mái. Julie nheo mắt nhìn tôi, quan sát tôi như thể nàng chưa bao giờ thấy tôi vậy. Rồi mắt nàng mở to, và nàng hít vào một hơi. “Ôi trời ơi,” nàng nói. “R, anh đang…” Nàng với tay lên bóc miếng băng dính ra khỏi trán tôi. Nàng chạm vào chỗ nàng đã đâm tôi tự thuở nào, vào cái ngày chúng tôi gặp nhau. Ngón tay nàng đỏ thắm. “Anh đang chảy máu!”
Nàng vừa dứt lời thì tôi cũng nhận ra nhiều điều. Những cơn đau nhói khắp người. Tôi đang đau. Tôi sờ soạn người mình và thấy quần áo đang đầy máu. Không phải thứ máu đen sì nhớp nháp đã tắc trong mạch tôi. Mà là thứ máu tươi, đỏ rực rỡ.
Julie áp tay vào ngực tôi mạnh đến nỗi như đánh bằng võ kungfu. Dưới sức ép của tay nàng, tôi đã cảm nhận được. Một chuyển động sâu thẳm trong tôi. Một nhịp đập.
“R!” Julie gần như ré lên. “Em nghĩ là… anh đang sống!”
Nàng nhảy xổ vào tôi, ôm lấy tôi và ghì chặt đến nỗi tôi cảm thấy những khúc xương đang lành dở kêu lên răng rắc. Nàng lại hôn tôi, nếm vị máu mằn mặn trên môi dưới của tôi. Hơi ấm của nàng truyền khắp người tôi, và tôi cảm thấy một luồng cảm giác mới khi rốt cuộc thì hơi ấm của chính tôi cũng đáp lại.
Julie đột nhiên đứng yên. Nàng buông tôi ra và lùi lại một chút, liếc nhìn xuống dưới. Một nụ cười kinh ngạc hiện lên trên mặt nàng.
Tôi cũng nhìn xuống, nhưng thực ra là chẳng cần. Tôi đã cảm thấy nó. Dòng máu nóng hổi của tôi đang truyền đi khắp cơ thể, tràn vào các mao mạch và thắp sáng tế bào như pháo hoa ngày mùng Bốn tháng Bảy. Tôi có thể cảm thấy mỗi nguyên tử trong da thịt mình đều đang ngất ngây vui sướng, đầy nỗi biết ơn vì đã được trao một cơ hội thứ hai mà chúng không hề mong đợi. Cơ hội để bắt đầu lại từ đầu, để sống cho đúng, để yêu cho đúng, để cháy rực lên thành một đám mây nóng bỏng và không bao giờ bị chôn vùi trong bùn nữa. Tôi hôn Julie để giấu việc tôi đang đỏ mặt. Mặt tôi đỏ bừng và nóng đến độ có thể làm tan cả thép.
Được rồi, thây ma, một giọng nói trong đầu tôi lên tiếng, và tôi lại thấy bụng mình giần giật, như một cú huých nhẹ nhàng chứ không còn là một cú đá nữa. Tôi sẽ đi đây. Tôi rất tiếc vì đã không có mặt trong trận chiến của anh; nhưng tôi cũng phải chiến đấu cho bản thân mình. Nhưng chúng ta đã thắng, phải không? Tôi có thể cảm nhận được. Chân chúng ta run rẩy như mặt đất đang tăng tốc, vùn vụt phóng tới những quỹ đạo chưa từng ai biết đến. Sợ quá phải không? Nhưng có điều kỳ diệu nào mà lại không bắt đầu một cách đáng sợ? Tôi không biết trang tiếp theo của anh sẽ ra sao, nhưng với tôi thì tôi xin thề là tôi sẽ không làm hỏng nó. Tôi sẽ không ngáp dài mà bỏ dở giữa câu và cất nó vào ngăn kéo. Lần này thì không. Hãy bóc bỏ những tấm chăn len bụi bặm của sự thờ ơ và ác cảm và sự lạnh nhạt yếm thế. Tôi muốn cuộc sống với tất cả những cái sống sượng dính nháp ngu ngốc của nó.
Được rồi.
Được rồi, R.
Nó đến rồi đây.
Bước ba: Sống
Nora Greene đang đứng trên quảng trường bên cổng chính của Sân vận động, cạnh Tướng Rosso, đối diện với một đám đông khổng lồ. Cô thấy hơi lo lắng. Cô ước mình đã làm một hơi thuốc trước khi ra đây, nhưng hút thuốc lúc này có vẻ không hợp chút nào. Cô muốn đầu óc mình tỉnh táo cho dịp trọng đại này.
“Được rồi, các bạn,” Rosso nói, chất giọng khàn khàn của ông cố căng ra để những người đứng ở cuối, mãi tận những con phố ở đằng xa, cũng nghe được. “Chúng tôi đã hết sức chuẩn bị tinh thần cho các bạn, nhưng tôi biết việc này vẫn có thể hơi… đáng ngại một chút.”
Không phải tất cả mọi người trong Sân vận động đều đến đây, nhưng những ai muốn đến đều có mặt đầy đủ. Những người còn lại đang trốn sau những cánh cửa đóng chặt với khẩu súng giương cao, nhưng Nora hy vọng rốt cuộc họ cũng sẽ bước ra để xem đang có chuyện gì.
“Cho phép tôi nhắc lại một lần nữa là các bạn không gặp nguy hiểm gì hết,” Rosso nói tiếp. “Tình thế đã thay đổi.”
Rosso nhìn Nora và gật đầu.
Lính canh mở cổng ra, và Nora hét lên, “Vào đi, các bạn!”
Từng người một, vẫn còn vụng về nhưng đã đi thẳng thớm hơn phần nào, họ bước vào Sân vận động. Những Người Chết Dở. Những Người Sắp Sống. Đám đông thì thào lo lắng và cụm lại trong khi đám Xác Xống xếp thành một hàng trước cổng.
“Đây chỉ là một số ít bọn họ mà thôi,” Nora nói, bước tới trước để lên tiếng với toàn thể mọi người. “Ngoài kia họ đang đông lên mỗi ngày. Họ đang cố tìm cách tự chữa lành cho bản thân. Họ đang cố tìm cách chữa lành dịch bệnh, và chúng ta cần làm hết sức mình để giúp họ.”
“Như thế nào?” một người hỏi.
“Chúng ta sẽ nghiên cứu nó,” Rosso nói. “Quan sát nó kỹ càng, nhào trộn và nắn bóp nó cho đến khi câu trả lời hiện ra. Tôi biết nghe có vẻ thật mơ hồ, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu đó.”
“Hãy nói chuyện với họ,” Nora nói. “Tôi biết mới đầu sẽ khá là sợ, nhưng hãy nhìn vào mắt họ. Cho họ biết tên bạn và hỏi tên họ.”
“Đừng lo,” Rosso nói. “Mỗi người sẽ có một lính gác đi kèm mọi lúc mọi nơi, nhưng các bạn hãy cố tin rằng họ sẽ không làm hại các bạn. Chúng ta phải sẵn sàng xem xét khả năng việc này có thể thành công.”
Nora lùi lại cho đám đông tiến lên. Họ tiến lên một cách thận trọng. họ bước tới chỗ đám Xác Sống trong khi những người lính gác cảnh giác giương cao súng. Về phần mình, những Xác Sống đang đối mặt với tình huống khó xử này với vẻ kiên nhẫn đáng khâm phục. Họ cứ đứng đó đợi, một số gắng mỉm cười thân thiện trong lúc không để ý tới những đốm laser đang chĩa vào trán họ. Nora cũng hòa mình vào đám đông, bắt tréo ngón tay sau lưng và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất.
“Xin chào.”
Cô quay sang phải. Một Xác Sống đang quan sát cô. Anh bước tới trước và mỉm cười với cô. Môi anh mỏng và hơi rách bên dưới bộ râu vàng tỉa ngắn, nhưng có vẻ như chúng, cùng với vô số vết thương khác trên người anh, đang lành dần.
“Ờ… xin chào…” Nora nói, liếc nhìn chiều cao đáng kể của Xác Sống nọ. Chắc là anh phải cao đến một mét chín mươi lăm. Anh có vẻ hơi nặng nề, nhưng đôi cánh tay rắn chắc như muốn xé rách cả chiếc áo tả tơi. Cái đầu trọc nhẵn của anh sáng lên như một viên ngọc trai xám.
“Tôi là Nora,” cô nói, giật giật một lọn tóc quăn của mình.
“Tên tôi là Mm…arcus,” anh nói, giọng trầm ấm mượt như nhung. “Và cô là… cô gái xinh đẹp nhất… mà tôi đã từng gặp.”
Nora bật cười khúc khích và xoắn những lọn tóc nhanh hơn. “Ôi trời.” Cô chìa tay ra. “Rất vui được gặp anh… Marcus.”
Thằng bé đang ở sân bay. Các hành lang tối đen, nhưng nó không sợ. Nó chạy qua khu ăn uống chìm trong bóng tối, chạy qua những biển hiệu không được thắp sáng và những món ăn thừa mốc meo, bia uống dở và mì Thái nguội ngắt. Nó nghe thấy tiếng một bộ xương đơn độc lách cách ở một hành lang gần đó và vội đổi hướng, vòng qua một ngã rẽ mà không chậm bước. Bọn Xương Khô bây giờ rất chậm chạp. Ngay khi bố và mẹ kế của thằng bé quay về đây, một điều gì đó đã xảy ra với chúng. Giờ chúng đi lảo đảo vô định như ong bay trong mùa đông. Chúng đứng im lìm, như những cỗ máy lỗi thời đang chờ được thay thế.
Thằng bé đang bê một cái hộp. Cái hộp giờ đã trống rỗng, nhưng tay nó rất mỏi. Nó chạy vào lối đi nối liền hai hành lang và đứng lại để dò đường.
“Anh Alex!”
Em gái thằng bé chạy lại sau lưng nó. Con bé cũng đang ôm một cái hộp. Khắp tay con bé là những mẩu băng dính.
“Xong hết chưa Joan?”
“Xong rồi!”
“Được rồi. Mình đi lấy thêm đi.”
Hai anh em chạy xuôi hành lang. Khi chúng đến chỗ băng chuyền, điện bật lên và dải băng chuyển động dưới chân chúng. Thằng bé và con bé chạy chân trần nhanh như gió, lao xuống hành lang như một cặp hươu trong khi ánh nắng buổi sớm tràn vào sau lưng chúng. Ở cuối hành lang, chúng suýt nữa đâm sầm vào một đám trẻ con khác, tất cả đều bê hộp.
“Xong hết rồi,” bọn trẻ nói.
“Được,” Alex nói, và chúng cùng nhau chạy. Nhiều đứa trong bọn vẫn còn mặc quần áo rách tả tơi. Một vài đứa vẫn còn xám ngoét. Nhưng phần lớn đã sống lại. Bọn trẻ thiếu cách lập trình bản năng của người lớn. Chúng phải được dạy làm tất cả mọi thứ. Cách giết sao cho nhanh, cách đi lang thang vô định, cách lảo đảo người và rên rỉ và thối rữa sao cho đúng. Nhưng giờ các bài học đã ngưng. Không ai dạy chúng nữa, và như những củ cây lưu niên khô quắt nằm đợi trong lòng đất qua mùa đông, giờ chúng đang tự mình bừng lên sống dậy.
Ánh đèn neon lập lòe kêu xè xè, và có tiếng kim chạy trên đĩa hát vang lên từ những chiếc loa trên đầu. Một đứa nào đó đã bạo gan chiếm lấy bộ loa phóng thanh của sân bay. Tiếng đàn dây ngọt ngào êm dịu tràn ngập bầu không khí u ám, và giọng hát của Francis Albert Sinatra vang vọng cô đơn khắp những dãy hành lang trống trải.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… khi bầu trời xanh thẳm như thiên đường…
Bộ loa bụi bặm kêu rè rè lục đục, rồi nổ lốp bốp và bóp méo tiếng. Đĩa hát bị nhảy. Nhưng đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu năm bầu không khí ứ trệ ở đây mới được khuấy động bởi tiếng nhạc.
Khi bọn trẻ chạy ra Cổng Đến để lấy thêm hộp và băng dính mới, chúng đi qua một dáng người xanh xám đang lê bước dọc hành lang. Xác Sống ấy nhìn đám trẻ Người Sống khi chúng chạy qua, nhưng không đuổi theo. Dạo này cô ta ăn không thấy ngon nữa. Cô ta không còn cảm thấy cơn đói như trước kia. Cô ta ngắm lũ trẻ biến mất sau khúc quanh, rồi đi tiếp đường của mình. Cô ta cũng không biết rõ mình đang đi đâu, nhưng ở cuối hành lang này có một quầng sáng trắng xóa trông thật dễ chịu. Cô ta lê bước về phía đó.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… khi vầng trăng khiến ta bừng sáng… Ta đã yêu, ta đã yêu… và ta muốn cả thế giới đều biết…
Cô ta bước vào phòng đợi ở Cổng , tràn ngập ánh mặt trời buổi sáng rực rỡ. Ở đây có cái gì đó khác trước. Trên những cửa sổ cao từ trần đến sàn nhìn ra đường băng, ai đó đã dán những tấm ảnh nhỏ lên lớp kính. Chúng được dán cạnh nhau và chồng lên nhau chừng năm hàng, tạo thành một dãy kéo dài đến tận hết phòng.
Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… và nó chỉ xảy ra với một vài người. Nhưng khi nó xảy ra… phải, khi đó…
Xác Sống nọ thận trọng đến gần những bức ảnh. Cô ta đứng trước chúng và trố mắt nhìn với cái miệng hé mở.
Một cô bé trèo lên cây táo. Một chú bé xịt nước vào anh trai bằng vòi phun. Một người phụ nữ chơi đàn xen lô. Một cặp vợ chồng già âu yếm nắm tay. Một chú bé với một con chó. Một chú nhóc đang khóc nhè. Một em bé sơ sinh đang ngủ say. Và một bức ảnh cũ hơn, nhàu nhĩ, mờ nhạt: một gia đình ở công viên nước. Người bố, người mẹ, và một cô con gái tóc vàng, mỉm cười nheo mắt dưới ánh mặt trời.
Xác Sống nó nhìn bức bích báo khổng lồ đầy bí hiểm ấy. Mặt trời lấp lánh trên biển tên gắn ở ngực cô ta, sáng đến nỗi làm cô ta chói mắt. Cô ta đứng đó hàng giờ bất động. Rồi cô ta hít một hơi thật sâu. Hơi thở đầu tiên sau bao nhiêu tháng ròng. Những ngón tay rũ xuống bên mình cô ta bắt đầu động đậy theo nhịp nhạc.
“R này,”
Tôi mở mắt ra. Tôi đang nằm ngửa, tay vòng sau đầu, nhìn lên một bầu trời mùa hạ hoàn hảo. “Gì cơ?”
Julie cựa mình trên tấm chăn đó, nằm dịch vào gần tôi hơn. “Anh có nghĩ là rồi một ngày mình sẽ lại thấy máy bay trên trời không?”
Tôi nghĩ một lát. Tôi ngắm những phân tử nhảy nhót trong tròng mắt mình. “Có.”
“Thật à?”
“Có lẽ bọn mình thì không. Nhưng anh nghĩ bọn trẻ con sẽ thấy.”
“Anh nghĩ bọn mình có thể đẩy nó xa tới đâu?”
“Đẩy cái gì cơ?”
“Xây dựng lại mọi thứ ấy. Cho dù mình có thể xóa sạch bệnh dịch… anh có nghĩ là chúng ta có thể đưa mọi việc trở lại như cũ được không?”
Một con sáo đơn độc chao liệng ngang qua bầu trời xa xăm, và tôi tưởng tượng ra một cái đuôi khói máy bay trắng xóa hiện ra phía sau nó, như chữ ký bay bướm trên một bức thư tình. “Anh mong là không,” tôi đáp.
Chúng tôi im lặng một lát. Chúng tôi đang nằm trên cỏ. Đằng sau chúng tôi, chiếc Mercedes cũ kỹ méo mó đang kiên nhẫn chờ đợi, thì thầm với chúng tôi bằng những tiếng tanh tanh, xèo xèo, trong lúc động cơ của nó nguội dần. Julie đặt tên cho nó là Mercey. Người phụ nữ đang nằm cạnh tôi đây là ai mà tràn đầy sinh lực đến độ nàng có thể tăng sự sống cho một cái xe?
“R này,” nàng nói.
“Sao.”
“Anh đã nhớ ra tên mình chưa?”
Trên sườn đồi này, bên rìa một xa lộ nứt vỡ, những con côn trùng và chim muông trong cỏ đang tạo nên một bản sao thu nhỏ của tiếng xe cộ. Tôi lắng nghe bản giao hưởng hoài cổ của chúng, và lắc đầu. “Chưa.”
“Anh biết không, anh có thể tự đặt tên cho mình mà. Anh chọn một tên đi. Tên gì cũng được.”
Tôi ngẫm nghĩ. Tôi lướt qua bản danh mục những cái tên trong đầu mình. Những nguyên từ, ngôn ngữ và ý nghĩa phức tạp đã truyền theo văn hóa truyền thống của bao thế hệ. Nhưng tôi là một vật mới. Một tờ giấy trắng. Tôi có thể chọn bất kỳ lịch sử nào để xây dựng tương lai của mình, và tôi chọn một lịch sử mới.
“Tên anh là R,” tôi khẽ nhún vai nói.
Nàng quay đầu lại nhìn tôi. Tôi có thể cảm thấy cặp mắt vàng rực như ánh mặt trời của nàng ở bên mặt mình, nhưng đang muốn xuyên vào tai tôi để nghiền ngẫm não tôi. “Anh không muốn quay về cuộc đời cũ của mình ư?”
“Không.” Tôi ngồi dậy, vòng tay ôm đầu gối và nhìn xuống thung lũng bên dưới. “Anh muốn cuộc đời này.”
Julie mỉm cười. Nàng ngồi dậy cùng tôi và quay mặt về hướng tôi đang nhìn.
Sân bay trải dài dưới chân chúng tôi như một cái găng tay bị ném xuống. Một lời thách thức. Không có sự thay đổi toàn cầu nào sau khi những bộ xương đầu hàng. Một số người trong chúng tôi đã quay về với sự sống, một số vẫn là Người Chết. Một số còn nán lại ở sân bay này, hoặc ở các thành phố khác, các lục địa khác, lang thang, chờ đợi. Nhưng để sửa chữa là một vấn đề bao trùm cả thế giới thì sân bay là một điểm khởi đầu tốt.
Chúng tôi có những kế hoạch lớn. Đúng thế. Chúng tôi vẫn đang thăm dò trong bóng tối, nhưng ít nhất thì chúng tôi cũng đã bắt đầu. Giờ ai cũng phải làm việc; Julie và tôi chỉ dừng lại một phút để ngắm cảnh vì hôm nay là một ngày đẹp trời. Trời xanh. Cỏ xanh. Mặt trời tỏa hơi ấm trên da chúng tôi. Chúng tôi mỉm cười, bởi vì chúng tôi sẽ cứu thế giới bằng cách này. Chúng tôi sẽ không để Trái đất trở thành một nấm mồ, một ngôi mộ tập thể xoay tròn trong vũ trụ. Chúng tôi sẽ tự khai quật chính mình. Chúng tôi sẽ chống lại lời nguyền và phá vỡ nó. Chúng tôi sẽ khóc và đổ máu và ham muốn và yêu, và chúng tôi sẽ chữa lành cả cái chết. Chính chúng tôi sẽ là phương thuốc. Bởi vì chúng tôi muốn thế.